Qua phân tích bài thơ, chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh về tình bạn đẹp, mà còn nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn mặc khách thời Đường trong bài thơ của cao nhân Lí Bạch. Bài thơ cũng là một tuyệt phẩm điển hình cho thể thơ thất ngôn tứ tuyệt của ông. Dưới đây là 4 bài văn mẫu xuất sắc nhất, mời các bạn theo dõi.
Dàn ý phân tích bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
1. Phần mở đầu
Lí Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, quê quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là một trong hai nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường. Lí Bạch là một nhà thơ lãng mạn lớn, sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về thiên nhiên, chiến tranh, tình yêu, tình bạn. Tinh thần chính trong thơ ông là niềm vui sống, lạc quan và hào phóng.
2. Phần thân bài
Bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về chủ đề tình bạn trong thơ Lí Bạch. Nó mô tả một cuộc chia tay nhưng để nhấn mạnh tình bạn chân thành, giản dị, trong sáng và vô cùng sâu sắc.
a) Tiêu đề
- Lầu Hoàng Hạc là một địa danh lừng danh ở Trung Quốc, một công trình lịch sử và một địa điểm linh thiêng.
- Quảng Lăng là một địa danh thuộc thành phố Dương Châu.
- Mạnh Hạo Nhiên là một người bạn thơ của Lý Bạch, mặc dù tuổi tác chênh lệch nhưng họ vẫn là bạn tri kỉ của nhau.
=> Tiêu đề bài thơ nói lên ý nghĩa của việc tiễn biệt người bạn thân trên lầu Hoàng Hạc đi đến Quảng Lăng.
b) Hình thức thơ: Thất ngôn tứ tuyệt
c) Cấu trúc: Bài thơ được chia thành 2 phần
- Phần 1: 2 dòng đầu: Cảnh tiễn biệt.
- Phần 2: Phần còn lại: Tình bạn trong cuộc tiễn biệt
3. Kết bài
Chủ đề: Bài thơ thể hiện một mối tình bạn đẹp của nhà thơ với người bạn cũ, sự chia ly để lại trong lòng nhà thơ biết bao kỷ niệm về mối quan hệ tình bạn đáng trân trọng.
Nghệ thuật: Miêu tả cảnh sắc, tả thiên nhiên một cách tinh tế, ngôn từ đậm chất thơ Đường.
Phân tích bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng - Mẫu 1
Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong văn học Trung Quốc, ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng, thể hiện tình yêu thơ ca của mình. Bài thơ Hoàng Hạc lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một ví dụ điển hình.
Bài thơ này thể hiện một tình bạn sâu sắc, đồng thời lộ rõ tình cảm của tác giả dành cho những người bạn. Việc tiễn biệt bạn bè trên lầu Hoàng Hạc làm lòng tác giả rơi vào nỗi buồn sâu sắc. Khoảnh khắc chia xa khiến tâm hồn ông tràn đầy nỗi buồn và nhớ mong, dù cách xa nhưng tình bạn vẫn nguyên vẹn. Điều này thể hiện qua sự tiếc nuối của người ra đi và nỗi lòng đau xót của người ở lại.
Những nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của tác giả đã thể hiện được qua những nét đặc biệt trong cuộc chia ly này. Tình cảm chia tay đã gợi lên trong tác giả những kỷ niệm đáng quý về mối quan hệ bạn bè.
Bạn cũ từ biệt trên lầu Hoàng Hạc,
Mùa ba hoa khói, tới Dương Châu.
Cánh buồm một màu xanh mất dần,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.
Những người bạn đã cùng nhau trải qua những khoảnh khắc đẹp tại lầu Hoàng Hạc, tình bạn ấy đã để lại trong lòng tác giả nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Mỗi cuộc chia ly, dù như thế nào, đều mang lại cho chúng ta nỗi buồn sâu sắc.
Mùa ba, mùa hoa khói, là thời điểm của sự chia xa. Tác giả nhìn theo chiếc thuyền xa dần trên dòng Trường Giang, một hình ảnh biểu trưng cho sự chia ly, khiến tâm hồn ông tràn đầy nỗi nhớ mong.
Tình bạn đã gợi lên những nỗi buồn sâu sắc giữa người ra đi và người ở lại. Người ở lại, đứng trước lầu Hoàng Hạc, nhìn bạn bè ra đi, trong lòng trống rỗng. Tình bạn, những kỷ niệm về bạn bè, đã trở nên mờ nhạt, khi thiên nhiên và con người, từng người một, đều ra đi, chỉ còn lại nỗi buồn trong tâm hồn.
Tác giả nhìn thấy dòng nước trên sông Trường Giang vẫn chảy nhẹ nhàng, nhưng chiếc thuyền đã biến mất khỏi tầm mắt. Đứng trên lầu Hoàng Hạc, không gian rộng lớn làm tác giả nhớ mãi hình ảnh chiếc thuyền và người bạn đi.
Tâm trạng buồn của tác giả trước cảnh dòng sông Trường Giang rộng lớn, cảnh chia ly đã được tác giả diễn tả qua hình ảnh thiên nhiên. Mỗi lúc nhìn dòng sông, tác giả lại nhớ về người bạn thân của mình, dù biết rằng họ sẽ gặp lại nhau.
Tác giả sử dụng cảnh chia ly và thiên nhiên rộng lớn để diễn tả tâm trạng buồn của mình. Không cần những chi tiết hoa mỹ, tác giả đã làm cho người đọc hiểu được nỗi buồn của mình.
Bóng thuyền xa xôi biểu hiện niềm tin về một tình bạn vĩnh cửu. Tác giả dùng hình ảnh hoa khói để thể hiện nỗi nhớ thương và tình yêu thương của mình.
Trong không gian rộng lớn, tác giả lại nhớ về người bạn của mình. Dù phải xa cách nhau, nhưng tình bạn của họ sẽ mãi mãi. Cảnh chia ly đã để lại trong tâm hồn tác giả những nỗi buồn man mác.
Tình bạn của tác giả được thể hiện sâu sắc qua cảnh tiễn đưa bạn lên lầu Hoàng Hạc. Hình ảnh chiếc thuyền xa xăm biến mất trong không gian rộng lớn tác động mạnh mẽ đến tâm hồn tác giả, gợi lại những tiếc nuối và lưu luyến.
Bài thơ của Lí Bạch, 'Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng', ghi lại một kỉ niệm sâu sắc về việc tiễn đưa bạn bè. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện lòng thương nhớ, tình bạn và khát vọng tự do.
Lí Bạch, một nhà thơ lãng mạn lớn bậc nhất thời đại nhà Đường, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị văn học lớn. Bài thơ 'Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng' là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, thể hiện sự lưu luyến, thương nhớ và lòng hào hiệp của tác giả.
Bài thơ của Lí Bạch ghi lại kỉ niệm về việc tiễn đưa Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng tại lầu Hoàng Hạc. Thể hiện lòng thương nhớ và tình bạn sâu sắc giữa hai nhà thơ. Ông sử dụng phong cách phóng khoáng, thể hiện khát vọng tự do và lòng hào hiệp.
Bài thơ mở đầu bằng những cảm xúc lưu luyến và nhớ nhung về việc tiễn đưa bạn bè. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào tháng ba, mùa hoa khói, đi về Dương Châu, một trong những đô thị nổi tiếng thời Đường.
'Cố nhân từ lầu Hoàng Hạc đi'.
'Tam nguyệt hoa yên giữa Dương Châu'
Bạn cũ từ lầu Hoàng Hạc đến thăm, tạo nên một tình bạn đẹp và gắn bó hơn. Những hẹn ước giữa hai người là những khoảnh khắc đẹp. Nhưng khi bạn ra đi, tâm trạng của tác giả lại trở nên lưu luyến, cảm giác buồn cô đơn được thể hiện:
'Bạn từ lầu Hoàng Hạc ra đi'.
'Dương Châu hoa khói giữa tháng ba'
Tâm trạng của tác giả vui mừng khi đón bạn đến, nhưng lại lưu luyến và tiếc thương khi tiễn bạn đi. Tình bạn đẹp sẽ mãi gắn kết, nhưng mỗi người lại mỗi phương. Những hình ảnh buồn như dòng sông, cánh buồm, bầu trời được Lí Bạch sử dụng để thể hiện nỗi nhớ thương của tác giả khi bạn ra đi:
'Hình ảnh cô phàm bích vô tận'.
'Chỉ thấy sông Trường Giang chảy mãi'
Trong muôn ngàn cánh buồm trên dòng sông, Lí Bạch chú ý nhất đến chiếc thuyền của bạn. Ông nhìn mãi cho đến khi thuyền mất hút trong 'bầu trời xanh biếc'. Tác giả đứng nhìn thuyền xa dần, tâm hồn buồn lạc lõng giữa khoảng trời mênh mông, đưa tiễn bạn trong một tâm trạng lưu luyến không lời. Những hình ảnh trong bài thơ càng làm cho nỗi nhớ tăng lên gấp ngàn lần khi thuyền xa dần. Tâm trạng buồn của tác giả được thể hiện rõ trong những hình ảnh của thơ, tạo nên một không khí gần gũi và lưu luyến:
Một tình bạn đẹp của Lý Bạch với Mạnh Hạo Nhiên đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc lưu luyến và nhiều cảm xúc đặc biệt đối với bài thơ.
Phân tích: Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng - Mẫu 3
Mỗi nhà thơ mang trong mình một phong cách riêng. Với Lí Bạch, thơ của ông phóng khoáng, thể hiện lòng hào hiệp, khát vọng tự do và thái độ coi thường công danh, phú quý. Trong rất nhiều bài thơ của Lý Bạch, có lẽ không người yêu thơ nào quên được bài 'Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng'. Bài thơ ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Bài thơ được sáng tạo bởi những hình tượng độc đáo, những cảnh sắc huyền ảo, lung linh, điều đó tạo ra ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của bạn đọc:
Bài thơ mở đầu bằng những dòng tả cảm xúc lưu luyến của tác giả với Mạnh Hạo Nhiên. Cảnh thời gian bạn tới thăm, thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến đều được tác giả tả chi tiết. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba (tam nguyệt), mùa hoa khói (yên hoa), xuôi về Dương Châu - một trong những thành phố đẹp nổi tiếng thời Đường:
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu.
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
Chữ “há” được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở và người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt li của đôi bạn tri âm:
Hai câu đầu chứa đựng nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Đứng trên lầu Hoàng Hạc lâu, Lí Bạch từ trên cao nhìn xuống hay từ một điểm cao nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên xa dần. Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội họa, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức họa cổ Trung Hoa. Lí Bạch đã vận dụng công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh nghệ thuật hoàn hảo:
Đến với hai câu cuối là chúng ta đến với linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lí Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. Ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lí Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa:
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận.
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”
Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần, mờ dần (viền ảnh) rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa (bích không tận). Hay tấm lòng “thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang?
“Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chờ Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lí Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết.
Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lá Bạch sống trong thời thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương Châu, Thành Đô… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông. Lí Bạch “duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biếc”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy.
Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” (cô phàm), “bích” (bích không tận) nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tắc, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lí Bạch.
Qua bài thơ ta không chỉ nhận được tình bạn đẹp,một tâm hồn đẹp của cao nhân mặc khách thời Đường. Mà bài thơ còn là một tuyệt tác điển hình cho thể thơ thất ngôn tứ tuyệt của Lí Bạch. Đồng thời bài thơ còn để lại nỗi buồn khôn nguôi về cuộc tống biệt. Thêm vào đó cấu trúc không gian xa- gần(cận-viễn), lấy ngoại cảnh để biểu thị nội tâm, ngôn ngữ trang nhã, gợi cảm, hàm súc …tất cả những yếu tố đó đã làm nên một bài thơ khó quên với bạn đọc.
Phân tích về việc Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng - Mẫu 4
Lí Bạch là một nhà thơ nổi tiếng đời Đường. Mặc dù có một phần tác phẩm bị mất, nhưng cho đến nay, tác phẩm thơ của Lí Bạch vẫn còn lại gần một nghìn bài, trong đó có những tác phẩm được coi là kiệt tác. Phong cách thơ của Lí Bạch phóng khoáng, thể hiện lòng hào hiệp, khát vọng tự do và thái độ xem thường sự giàu có, danh vọng. Ông thường sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo, những cảnh sắc huyền ảo, lung linh.
Bởi vậy, nhiều người đã trao cho ông danh hiệu “thi tiên”. Trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Lí Bạch không thể không nhắc đến bài thơ tứ tuyệt “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (nghĩa là: Tại lầu Hoàng Hạc lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Bài thơ này đã được nhà văn Ngô Tất Tố dịch ra tiếng Việt khá thành công theo thể thơ lục bát:
Bạn từ lầu Hạc bước lên đường,
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu trời rộng,
Chỉ còn dòng sông bên trời mãi vẫn hiên ngang.
Như nhiều người đã biết, Lí Bạch có nhiều bạn thuộc các tầng lớp khác nhau. Tình bạn của ông luôn nồng hậu, chân thành. Ông yêu quý Uông Luân - một người bạn nông dân chất phác - và đã từng nói rằng tình cảm của bạn với ông là “sâu hơn nghìn thước”. Khi nghe tin bạn thơ Vương Xương Linh gặp chuyện không lành, Lí Bạch muốn theo gió chia sẻ với bạn nỗi buồn (“Ta gửi nỗi buồn cho trăng sáng - Theo gió đi về đất Dạ Lang”). Mặc dù suốt đời chỉ gặp Đỗ Phủ một lần, nhưng Lí Bạch vẫn không ngừng nhớ mong “Nhớ anh như sông Vấn - Về nam chảy dạt dào”).
Mạnh Hạo Nhiên là người bạn chí cốt của Lí Bạch. Hai người có nhiều điểm tương đồng như mong muốn được làm quan, nhưng lại không thực hiện được, và đều tìm thú vui ở nơi hoang sơ, xanh biếc. Đặc biệt, phong cách thơ của Mạnh Hạo Nhiên rất gần gũi với phong cách thơ của Lí Bạch... Vì vậy, khi phải tiễn bạn đi xa (trong điều kiện giao thông vẫn còn khó khăn như xưa, không biết khi nào mới gặp lại nhau), liệu nhà thơ có thể không lưu luyến? Chỉ cần đọc hai câu đầu của bài thơ:
Bạn cũ từ lầu Hoàng Hạc bước lên đường,
Giữa mùa hoa khói, Dương Châu xuôi dòng.
(Người bạn cũ rời khỏi lầu Hoàng Hạc ở phía Tây, trôi theo dòng nước xuôi Dương Châu vào mùa hoa khói tháng ba). Ta có thể dễ dàng hiểu rằng đây chỉ là những câu thơ trần thuật đơn giản, nhất là khi thấy phần lớn là các chi tiết cụ thể. Nơi tiễn biệt là lầu Hoàng Hạc; thời gian tiễn biệt là một ngày trong tháng ba, mùa hoa yên bình; nơi Mạnh Hạo Nhiên đến là Dương Châu. Nhưng khi đọc kỹ hơn, suy ngẫm sâu hơn, ta sẽ nhận ra rằng sau những thông tin lạnh lùng ấy là nỗi buồn thầm kín, sâu thẳm. Từ “cố nhân” ở câu đầu được dịch thành “người bạn cũ”.
Mặc dù không sai, nhưng chưa thể diễn đạt hết được cảm xúc, tâm trạng của nguyên tác. “Cố nhân” chính là người bạn cũ, người đã lâu lắm rồi và hơn nữa là người mà ta đã từng trân trọng, gắn bó. Ai mà không buồn khi phải xa người bạn cũ, và nếu phải xa người bạn thân thiết đã lâu thì nỗi buồn ấy càng trở nên gấp bội. Giống như nhiều cuộc chia biệt khác được mô tả trong thơ Đường, cuộc tiễn biệt này cũng diễn ra bên bờ sông.
Nhưng góc nhìn của người tiễn lại từ lầu Hoàng Hạc. Dường như là nhờ đứng trên lầu cao chót vót này, Lí Bạch có thể nhìn thấy bạn lâu hơn, xa hơn (đứng cao nhìn xa). Và nỗi buồn khi phải xa người bạn trước cảnh sắc bao la của đất trời càng trở nên thấm thía hơn. Điều này sẽ được thể hiện rõ hơn ở hai câu cuối:
Cánh buồm lẻ loi cô đơn,
Biến mất vào không gian xanh biếc của Trường Giang.
(Cánh buồm cô đơn xa lạ mất vào không gian xanh biếc - Chỉ thấy dòng sông Trường Giang chảy dạt bên trời). Nếu hai câu đầu chủ yếu là kể việc, thì hai câu sau mới là tâm trạng của người tiễn. Tuy cả bốn câu đều dùng bút pháp lấy cảnh ngụ tình, nhưng ở câu thứ ba, bản dịch đã mất từ “cô”, tức là cảm giác cô đơn. Đây là một từ quan trọng giúp miêu tả sinh động nội tâm của nhà thơ.
Ngoài ra, câu thơ dịch còn thiếu ba chữ “bích không tận”, làm mất đi cái không gian xanh biếc, chứa đựng tâm trạng sâu thẳm của nhân vật. Và như vậy, câu thơ dịch đã làm cho người đọc hiểu lầm rằng đó chỉ là một câu thơ mô tả cảnh vật đơn thuần, trong khi thực tế là một câu thơ chứa đựng tâm trạng nặng nề. Hình ảnh “cánh buồm lẻ loi cô đơn mất vào không gian xanh biếc” khiến người đọc nảy sinh nhiều suy tư sâu sắc. Sự cô đơn của cánh buồm cũng chính là sự cô đơn của Lí Bạch và cũng là sự cô đơn của Mạnh Hạo Nhiên.
Chỉ bằng một hình ảnh, tác giả vừa bộc bạch được nỗi lòng của mình, vừa diễn tả được nỗi lòng của người tiễn biệt. Đến câu thơ thứ tư, bản dịch giữ được hình ảnh “dòng sông bên trời”, nhưng tiếc rằng lại thêm hai chữ “trông theo”. Quả là có “trông theo”, không “trông theo” sao có thể biết được cánh buồm cô đơn đang trôi và dòng Trường Giang đang chảy dạt bên trời? Nhưng thêm mấy chữ ấy đã làm lộ ý thơ của Lí Bạch, vốn được diễn tả theo kiểu “ý tại ngôn ngoại”, và làm mất tính hàm súc, một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ Đường.
Trong nguyên tác, nhà thơ không đề cập đến việc “trông theo”, nhưng người đọc vẫn có thể tưởng tượng tác giả đang “trông theo”, và “trông theo” với một sự tập trung cao độ đến mức có thể quên mất mọi thứ xung quanh. Thông thường, khi viết về cuộc chia biệt, người ta thường miêu tả cử chỉ và ngôn ngữ của người ra đi cũng như người ở lại. Nhưng trong bài thơ này, Lí Bạch không làm như vậy; không có những giọt lệ tiễn biệt, không có những lời nói tâm lí, lưu luyến.
Nhà thơ đã phá vỡ hệ thống ngôn từ, cách kể và cách tả cảnh chia ly, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc. Mặc dù không đề cập đến người tiễn và chỉ nói ít về người ra đi, nhưng tình cảm quyến luyến đối với bạn, nỗi buồn chia ly của nhân vật trữ tình - người tiễn, vẫn được biểu hiện sâu sắc và đậm đà.
Bốn câu thơ tạo ra hình ảnh sâu đậm về tâm trạng của nhà thơ. Từ lầu Hoàng Hạc, ông nhìn theo con thuyền cô đơn dẫn bạn ra đi, và khi cánh buồm nhỏ dần rồi mất vào không gian xanh biếc phía xa, ông vẫn theo dõi dòng Trường Giang chảy ngang qua bầu trời. Nỗi buồn xa cách của nhà thơ ngày càng lớn dần theo thời gian, lan tỏa vào không gian rộng lớn.