Phân tích cảm hứng yêu nước của Trương Hán Siêu trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng bao gồm 2 dàn ý và 5 bài văn mẫu hay. Điều này giúp học sinh có nhiều ý tưởng mới, ý hay và ý đẹp khi viết văn. Ngoài ra, cũng giúp họ mở rộng vốn từ vựng phong phú khi diễn đạt.
Tình yêu quê hương, cảm hứng yêu nước trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng thể hiện rõ nét nhất ở sự tự hào với những chiến công lẫy lừng của ông cha trên dòng sông lịch sử. Cũng như qua lời thuật lại các trận chiến hùng tráng trên sông Bạch Đằng của các bậc tiền bối. Dưới đây là 2 dàn ý và 5 bài văn mẫu phân tích về cảm hứng yêu nước hay nhất, mời bạn đọc cùng theo dõi.
Dàn ý Phân tích cảm hứng yêu nước trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng
Dàn ý số 1
1. Giới thiệu
Trình bày về tác giả và tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Trương Hán Siêu, trong đó tác giả thể hiện lòng yêu nước, đam mê với thiên nhiên và lịch sử, cũng như những giá trị tinh thần vĩnh cửu trên con sông huyền thoại.
2. Nội dung chính
- Tổng quan về thể loại phú: Phú là một thể loại văn học truyền thống của Việt Nam, thường mô tả cảnh đẹp và kết nối với tâm trạng để diễn đạt cảm xúc.
- Tình yêu quê hương được thể hiện thông qua việc miêu tả vẻ đẹp tự nhiên trên sông Bạch Đằng, thể hiện sự mạnh mẽ và dịu dàng.
- Cảm hứng yêu nước thể hiện qua sự tôn trọng và nhớ lại những chiến công hào hùng của tổ tiên, cùng những nỗi đau về sự thất bại và tiếc nuối về những anh hùng đã hy sinh vì đất nước.
- Sự tiếc nuối và trách nhiệm với hậu thế về việc duy trì và phát triển đất nước.
3. Kết luận
Tóm tắt giá trị của tác phẩm
Kế hoạch thứ 2
1. Mở đầu
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm và ý nghĩa của cảm hứng yêu nước trong bài văn.
2. Nội dung chính
a. Sự tôn vinh vẻ đẹp của sông Bạch Đằng trong tác phẩm:
- Cảnh sắc hùng vĩ của sông Bạch Đằng được miêu tả qua hình ảnh 'bát ngát sóng kình muôn dặm', tỏa ra sự mênh mông, rộng lớn.
- Sự dịu dàng, thơ mộng của dòng sông được thể hiện qua hình ảnh 'thướt tha đuôi trĩ một màu', tạo nên một khung cảnh tinh tế và duyên dáng.
- Màu sắc của trời và nước hòa quyện nhau tạo thành bức tranh tuyệt vời, từng chi tiết trong 'nước trời một sắc, phong cảnh ba thu' đều thể hiện sự hoàn hảo và uy nghiêm của thiên nhiên.
=> Tác giả biểu lộ tình yêu với đất nước thông qua việc tôn vinh vẻ đẹp của sông Bạch Đằng, thể hiện sự tự hào với vùng đất huyền thoại và văn minh lâu đời của dân tộc.
- Cảm nhận về sự lạnh lẽo, cô đơn của sông Bạch Đằng, đánh dấu bởi hàng tháng năm trôi qua, sông trở thành nhân chứng của những trận đánh chống giặc xâm lược của dân tộc ta.
- Kí ức về quá khứ kết hợp với cảnh vật buồn bã, nhạt nhẽo, gợi lên trong tâm trí của nhân vật 'khách' những cảm xúc trầm lắng, u uất về thời gian làm phai nhạt nhòa những chiến công hào hùng của quê hương. Tác giả thể hiện sự thương tiếc, xót xa và nhớ nhung không dứt.
=> Gợi nhớ niềm tự hào dân tộc với những chiến công vĩ đại của tổ tiên, tình yêu quê hương sâu sắc, và lòng dũng cảm chống ngoại xâm hiển hiện trong lòng mỗi người con Việt.
b. Cảm hứng yêu nước qua việc tái hiện các trận chiến hào hùng trên sông Bạch Đằng bởi các vị tiền bối:
- Văn phong hùng tráng, cổ kính của tác giả đã miêu tả chân thực những khoảnh khắc anh hùng, thể hiện tinh thần kiên cường, sự yêu nước không khuất phục thông qua lời kể của các vị tiền bối.
- Trương Hán Siêu dùng các trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc để so sánh với cuộc chiến của Đại Việt trên sông Bạch Đằng.
→ Chứng tỏ rằng dân tộc Đại Việt luôn giữ vững tư cách ngang hàng với các quốc gia khác, không bao giờ chịu làm nô lệ hoặc bị xâm lược.
- Tôn vinh lịch sử vinh quang của dân tộc, nhấn mạnh đến những nhân vật huy hoàng, những trận chiến vĩ đại, nhằm khơi gợi lòng tự hào dân tộc và tôn vinh sự dũng cảm của quân dân Đại Việt, sẵn sàng đối đầu với mọi kẻ thù.
=> Thể hiện lòng tự hào, sùng bái truyền thống anh hùng của dân tộc, thể hiện sự tôn trọng, tình cảm biết ơn sâu sắc đối với những vị anh hùng đã hiến dâng cho quê hương.
3. Kết bài:
Đưa ra nhận định.
Tình yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 1
Tình yêu nước là nguồn cảm hứng không ngừng trong văn chương dân tộc suốt hàng thế kỷ. Đây là niềm vinh dự từ thời Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), dòng chảy lịch sử của đội quân Sát Thát nhà Trần từ khúc hùng ca Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão). Có cái sức mạnh từ binh tướng Lam Sơn trong Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi). Có sự dũng cảm của anh hùng áo vải Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)... Cảm hứng yêu nước của Trương Hán Siêu, qua Phú sông Bạch Đằng, thêm một khúc hùng ca bất diệt cho văn chương yêu nước.
Tình yêu nước là biểu hiện đa dạng, phong phú trong văn học, từ tình yêu thiên nhiên, phong cảnh quê hương đến lòng căm thù giặc ngoại xâm, sự ngợi ca anh hùng. Phú sông Bạch Đằng, khúc trữ tình và anh hùng ca về đất nước, thổi hồn vào những cảm xúc với thiên nhiên, lịch sử và giá trị nhân văn trên dòng sông Bạch Đằng - con sông chép sử vô ngôn cho hậu thế.
Khi đến với bài thơ này, mọi người đều phấn khích với việc khám phá vẻ đẹp hoang sơ của sông Bạch Đằng. Qua lăng kính tinh thần của nhân vật 'khách', Trương Hán Siêu đã tái hiện một cảnh tượng đẹp mơ mộng mà ít người nghĩ sẽ thấy ở sông Bạch Đằng. Trải qua những khoảnh khắc ngắm nhìn cảnh sắc mùa thu toàn diện trên sông, 'khách' dường như bị cuốn hút bởi sức mạnh của dòng nước, lướt trên con thuyền với tốc độ nhanh chóng để tận hưởng vẻ đẹp đầy sức sống này.
Vượt qua cửa Đại Than, chạy dọc bờ Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền lướt một chiều.
Bao la sóng kình vô tận
Thảnh thơi như đuôi trĩ một màu
Nước và trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Mặc dù chỉ dùng vài câu thơ để miêu tả cảnh vật, nhưng Trương Hán Siêu đã tạo ra một bức tranh sống động, lôi cuốn. Những đường nét tinh tế, lãng mạn trong bút pháp của ông đã gợi lên vẻ đẹp của mùa thu trên dòng sông lịch sử. Từ những sóng kình bao la, cuồn cuộn, đến hình ảnh nhẹ nhàng, thơ mộng của những con thuyền lướt trên dòng nước, và sự hòa hợp giữa nước và trời. Chỉ có tâm hồn say mê với thiên nhiên mới có thể tạo ra một tác phẩm văn học vĩ đại như thế này. Tình yêu quê hương được thể hiện rõ trong lòng của một thi sĩ tài hoa, lãng mạn không thể cưỡng lại vẻ đẹp tự nhiên.
Tuy nhiên, khách du lịch không chỉ đến sông Bạch Đằng để thưởng ngoạn cảnh đẹp mà còn để tìm hiểu về lịch sử hào hùng của nơi này. Mang theo những cảm xúc, suy tư, họ không thể tránh khỏi sự tiếc nuối trước những di tích lịch sử đã phai mờ theo thời gian. Những bờ cây xanh mướt, những bến thuyền cũ kỹ, nơi mà sông đã chìm gãy, những đống đổ nát đã làm đau lòng người nhìn. Điều này đã gợi lên trong họ một ý thức cần phải bảo tồn, trân trọng những giá trị lịch sử quý báu của dân tộc. Tinh thần yêu nước hiển hiện trong họ ngày càng rõ ràng.
Có lẽ chính vì thế mà phần còn lại của bài thơ, danh sĩ Trương Hán Siêu đã tái hiện lại những kí ức về những trận chiến hùng tráng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc trò chuyện với các nhân vật lịch sử, những chiến công vĩ đại đã được tái hiện. Không khí của cuộc chiến, những khoảnh khắc cam go, quyết liệt dưới ánh sáng của văn chương trung đại đã làm sống lại một truyền thống kiêng kỵ, bất khuất của dân tộc:
Lúc ấy:
…
Nhưng sự nhục nhã của kẻ thù không thể xóa sạch
Chỉ cần nhìn thấy thất bại đầy cay đắng của đối phương tan tác như tro bay/ hoàn toàn thất thủ qua việc so sánh với điển tích của Trung Quốc là đủ để thấy khí thế vĩ đại một thời đã như thế nào. Trận đánh trên sông Bạch Đằng được so sánh như những trận đánh huyền thoại của Trung Quốc: Xích Bích, Hợp Phì mang trong mình một niềm tự hào dân tộc không lời. Trong tầm nhìn của Trung Quốc, nước Nam Việt luôn nhỏ bé, chỉ là một phần tử nhỏ bé, chư hầu. Mặc dù vậy, những Tất Liệt, Lưu Cung chỉ còn là những nỗi đau mang theo mơ ước quét sạch Nam tiến bốn phương chỉ trong một lần đánh trả theo nỗi nhục hàng nghìn năm không thể rửa sạch như dòng sông vẫn chảy mãi không dừng lại.
Tái hiện lịch sử với mục đích gì nếu không phải là để tự hào, để khen ngợi những chiến công oanh liệt và những con người đã làm nên điều đó. Trương Hán Siêu tự hào khi gọi tên các anh hùng với sự trang trọng như Trùng Hưng nhị thánh, Ngô chúa, khác biệt hoàn toàn so với cách gọi coi thường bằng cách gọi tên trực tiếp những tướng lĩnh giặc. Ông cũng tự hào khi nhìn thấy chiến thắng vẻ vang của dân tộc nhờ có những nhân tài đã được tập hợp lòng dân. Trong tâm trạng của bài thơ rộn ràng đó, con người – những vị anh hùng, tướng tài đã trở thành biểu tượng cho tinh thần yêu nước bằng trí tuệ và đức độ. Để mãi mãi được nhớ đến, tưởng nhớ không phai/ chỉ có anh hùng vĩ đại. Trong Tỏ lòng, nhà thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã thể hiện sự tự hào, khen ngợi con người và thời kỳ hào hùng của Đông Á nhưng trong tình thế hiện tại, trong tinh thần của cả vua, quân và tướng nhà Trần đang chiến đấu với giặc. Nhưng ở đây, Trương Hán Siêu chỉ nhìn lại, nhưng vẫn đầy cảm xúc, trân trọng và quý trọng.
Vì vậy, ông mới tiếc, mới thương, mới buồn vì thời gian cứ thế mà qua đi, vô tình và tàn nhẫn. Bao dấu vết chỉ còn lại là những bằng chứng đau lòng. Nhưng đó không phải là bi kịch mang theo nỗi đau, mà là bi kịch của sự trân trọng và tôn kính. Nhân vật các bậc lão già cũng thế:
Đứng bên bờ sông, mặt tức giận
Nhớ về quá khứ, lòng đau thấm đẫm
Có nỗi đau buồn, có giọt nước mắt nhưng không phải lúc nào cũng để lại dấu vết. Vì trong lịch sử có cảm nhận hai chiều. Nhìn về quá khứ, dù có nước mắt vẫn cảm thấy hạnh phúc, tự hào. Nhưng tiếc rằng hiện tại không bằng xưa, vì thời đại Trần đang đối mặt với những dấu hiệu không tốt, nên nỗi lo âu trong tâm trí tác giả lại là sự đau đớn chẳng muốn bộc bạch. Do đó, chỉ thấy lòng trăn trở với quê hương, đất nước. Điều đó lại được thể hiện qua ước ao mạnh mẽ, hy vọng sẽ có một người anh hùng nào đó, giữ chữ đức để đối mặt với mọi thách thức, để nhân dân sống trong hòa bình và hạnh phúc như xưa. Tinh thần yêu nước bỗng trở thành tư tưởng nhân văn sâu sắc và ý nghĩa.
Cảm hứng yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2
Trương Hán Siêu là một nhân vật lớn trong thời đại Trần. Ông được biết đến với tên chữ Lăng Phủ, quê gốc làng Phúc Am, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Trương Hán Siêu đã tham gia các cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba và được các vị vua Trần tôn trọng, coi như là một bậc thầy. Tác phẩm của ông phản ánh tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, đầy sắc thái tình cảm và niềm hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình ảnh giàu sắc thái tình cảm, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển. Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí – Trần.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau các chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông khoảng 50 năm. Sông Bạch Đằng đã chứng kiến nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Mặc dù đã có nhiều nhà văn viết về con sông lịch sử này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu được coi là nổi tiếng và đặc biệt nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể, một thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, với nội dung kể chuyện, tả cảnh vật, bàn về sự kiện và phong tục.
Trương Hán Siêu là một học giả uyên bác, am hiểu sâu sắc về đạo Nho và đạo Phật, cũng như có nhiều đóng góp cho triều đại Trần, từ đó được các vị vua Trần tôn trọng và coi như là một bậc thầy. Tác phẩm của ông phản ánh tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, đầy sắc thái tình cảm và niềm hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình ảnh giàu sắc thái tình cảm, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển. Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí – Trần.
Bắt đầu bài phú, tác giả tỏ ý muốn đi khắp nơi để thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
“Khách có kẻ
Giương buồm chèo gió, tung tăng,
Trôi nổi trên biển, thưởng thức trăng.”
Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những thắng cảnh đẹp của Trung Quốc như: Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… Đây là cách biểu đạt ước muốn đi du ngoạn nhiều nơi để thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, theo tinh thần của Trương Hán Siêu.
Ở phần tiếp theo, qua lời của nhân vật khách, ta nhìn thấy sông Bạch Đằng như một bức tranh sống động, giản dị:
“Bát ngát sóng kình vô biên,
Thướt tha đuôi trĩ một màu,
Một sắc trời,
Ba mùa cảnh.”
Thấu hiểu qua những từ ngữ sinh động (bát ngát, thướt tha), kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng, tác giả đã truyền đạt vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của dòng sông. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện cảm xúc của mình khi nhớ lại những trang sử đầy bi thương.
“Nhớ về những anh hùng ấy chẳng phai nhạt
Thương tiếc những dấu vết lịch sử vẫn còn in sâu”
Hơn nữa, chúng ta cũng chứng kiến được lòng hào hùng của quân đội trong trận chiến Bạch Đằng qua những lời kể của các vị lão tuổi rất hùng tráng và mạnh mẽ qua phần tường thuật:
“Thuyền bè đông đảo, hùng vĩ tựa sóng biển,
Hùng hổ sáu quân, gươm giáo sáng ngời.”
…
“Như trong thời xa xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Những chiến công hùng hậu của quân đội được mô tả một cách sống động, cảm thấu, tái hiện được tinh thần hào hùng, đậm chất anh hùng, đầy tự hào. Lời kể của các vị lão đã nhấn mạnh sự vĩ đại của chiến thắng của quân dân ta và thất bại thảm hại của kẻ thù.
Tác giả cũng nêu lên lý do của chiến thắng:
“Thật vậy: Trời đất đã tạo ra những khó khăn,
Và cũng nhờ: Có những người tài giỏi bảo vệ quê hương.”
Các bậc lão nhận định chiến thắng này không chỉ do điều kiện địa lý khắc nghiệt mà còn nhờ có nhiều tài năng xuất chúng. Trong số những nhân tài xuất sắc thời kỳ đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú với lời ca từ hai nhân vật khách và các bậc lão. Trước hết là lời của các bậc lão:
“Sông Đằng dài lênh đênh,
Luồng lớn sóng to trôi về biển Đông.
Những kẻ vô nghĩa đã mất,
Nghìn thu chỉ có anh hùng được ghi danh.”
Lời ca của các bậc lão cũng khẳng định một triết lý vững chắc: kẻ vô nghĩa sẽ bị tiêu diệt, còn anh hùng sẽ được ghi danh muôn đời.
Nhân vật khách cũng tiếp tục ca ngợi rằng:
“Hai vị anh minh thánh quân,
Sông này giặt sạch bao lần binh đao.
Kẻ thù tan rã muôn thuở thịnh bình.
Bởi đất hiểm cũng không làm rung chuyển ý chí cao quý.”
Tác giả đã khen ngợi lòng anh minh của vua Trần – người có đức cao, luôn đặt lợi ích của quốc gia trên hết, khẳng định rằng sự thành công của quân đội chúng ta phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu những tài năng và lãnh đạo có đức cao luôn chăm lo cho dân, cho đất nước.
Với cảm hứng và kỷ niệm về quá khứ hào hùng của dân tộc, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu đã thể hiện tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời tôn vinh truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng mang thông điệp nhân văn cao đẹp thông qua việc tôn vinh vai trò, vị thế của con người trong lịch sử.
Bạch Đằng giang phú được xem như đỉnh cao của nghệ thuật thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả đã sử dụng kỹ thuật kể chuyện và mô tả cảnh sông Bạch Đằng một cách sống động, chân thực, đầy cảm xúc, giàu kỷ niệm về quá khứ hào hùng. Bài phú mang đậm tinh thần sử thi hoành tráng, sử dụng nhiều điển tích và diễn đạt giàu sức gợi cảm, từ những đoạn văn dài cho đến những câu thơ cuối cùng, tạo nên một âm điệu hùng vĩ và rất trữ tình.
Cảm hứng yêu nước trong bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 3
Bài “Phú sông Bạch Đằng” được viết sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông kéo dài khoảng 50 năm. Bạch Đằng là dòng sông chứng kiến nhiều trận chiến oanh liệt của dân tộc, như chiến thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền và chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Nhiều nhà văn đã viết về con sông lịch sử này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu được biết đến và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể, thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, và thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của tác giả qua từng câu thơ.
Mở đầu bài phú, tác giả bày tỏ ước muốn được du ngoạn khắp nơi để thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
“Có khách đầy bèo
Giương buồm, ngao du sóng trời rong ruổi,
Trôi trên biển, chơi với trăng, mê đắm say sưa.”
Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt... Đây là cách thể hiện mong muốn mãnh liệt của tác giả, ước ao được đi du ngoạn khắp nơi để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên và đất nước.
“Sóng lớn, kình muôn dặm biển,
Trĩ dìu dặt màu thảnh thơi,
Trời mây chung một tông màu,
Cảnh thiên nhiên khắp nơi.”
Thủ pháp miêu tả của tác giả thông qua từ ngữ sinh động, kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng, đã tạo ra bức tranh về vẻ đẹp hùng vĩ, rộng lớn của sông. Tác giả cũng thể hiện được cảm xúc khi nhớ về quá khứ hào hùng của dân tộc.
“Ai kể nỗi lòng anh hùng bao đau
Thương tiếc dấu vết vẫn còn hiện hữu.”
Hơn nữa, ta còn chứng kiến được sự hào khí của quân đội ta trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các cụ già, toát lên vẻ hùng mạnh và mạnh mẽ qua phần bình:
“Thuyền bè muôn đội, tinh thần phấp phới,
Khí phách sáu quân, thanh gươm sáng chói.”
…
“Như lúc xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Qua đó, chúng ta thấy được những chiến công vĩ đại ấy được kể qua lời văn gấp gáp, khẩn trương, tái hiện lại không khí hào hùng, đầy tự hào. Lời kể của các cụ già đã nhấn mạnh sự vĩ đại của chiến thắng của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.
Tác giả cũng bàn về nguyên nhân của chiến thắng:
“Thực ra: Địa hình và thời tiết khắc nghiệt,
Cũng nhờ: Người tài hỗ trợ cuộc chiến.”
Theo các cụ già, thì chiến thắng của dân ta không chỉ nhờ vào điều kiện địa lý khắc nghiệt mà còn nhờ vào nhiều tài năng. Trong số những người xuất sắc của thời đại đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú bằng hai lời ca. Đầu tiên là lời của các cụ già:
“Dòng sông Đằng dài lớn,
Luồng lớn sóng to dồn về biển Đông.
Những kẻ vô đạo tiêu vong,
Anh hùng vinh danh ngàn thu.”
Những lời ca của cụ già cũng khẳng định một triết lý vững chắc: kẻ vô đạo sẽ bị tiêu diệt, còn anh hùng sẽ được vinh danh muôn thuở. Không chỉ vậy, tiếp theo đó, khách còn tiếp tục ca ngợi rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Dòng sông này giặt rửa mấy lần binh đao.
Kẻ thù tan biến mãi mãi.
Bởi đất linh thiêng kính cao.”
Tác giả đã tôn vinh sự anh minh của vua Trần - người có đức cao, luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên lợi ích cá nhân. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nguyên nhân chiến thắng của quân ta phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu những nhân tài và những người lãnh đạo có đức cao luôn quan tâm đến dân, đất nước...
Qua những kỷ niệm về quá khứ, “Bạch Đằng giang phú” đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời tôn vinh truyền thống anh hùng kiên cường, truyền thống đạo đức nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp thông qua việc tôn vinh vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
Nhìn lại toàn bộ bài phú, chúng ta thấy rằng “Bạch Đằng giang phú” là điểm cao của nghệ thuật thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả đã kể, mô tả về cảnh sông Bạch Đằng, thiên nhiên một cách sống động, chân thực, có tính trữ tình cao, xen lẫn với lời kể là những cảm xúc, những kỷ niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc, giàu sức gợi, những câu văn ngắn dài, phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm. Với nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu... mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc.
Đây là tác phẩm không chỉ nổi tiếng trong thời kỳ Trần mà còn là một trong những bài phú viết bằng chữ Hán xuất sắc nhất nước ta thời trung đại. Bài phú chứa đựng lòng tự hào dân tộc, vừa lưu giữ nỗi buồn hoài cổ và mang trong mình tư tưởng triết học sâu sắc. Sau khi đọc xong tác phẩm, ta có thể khẳng định rằng “Phú sông Bạch Đằng” là tác phẩm cao cả nghệ thuật trong thể loại phú của văn học trung đại Việt Nam.
Cảm hứng yêu nước trong 'Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 4'
Trong thời kỳ văn học trung đại, tình yêu nước và lo lắng cho đất nước luôn là đề tài được tác giả khai thác sâu rộng. Trong hoàn cảnh thực tế, khi chỉ nam nhân mới được học hành, cùng với nỗi buồn, khát vọng cống hiến cho tổ quốc, cho nhân dân, nguyên tắc 'chí làm trai' luôn nặng nề trên vai, lòng yêu nước luôn được tác giả gửi gắm trong từng câu thơ, câu chữ. Đối với Trương Hán Siêu, một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam, tình yêu nước được thể hiện thông qua sông Bạch Đằng, nơi ghi dấu bao nhiêu truyền thống anh hùng của dân tộc. 'Bạch Đằng giang phú' hay 'Phú sông Bạch Đằng' đã khẳng định một cách mạnh mẽ tình yêu nước hùng hồn chảy trong dòng máu Lạc Hồng, đồng thời bày tỏ sự nhục nhã khi cảm thấy chưa đủ làm cho đất nước.
Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủ yếu là văn miêu tả cảnh vật, từ bề ngoại cảnh kết hợp với tâm trạng để diễn đạt cảm xúc. Sử dụng lối viết này, tác giả thể hiện tình yêu nước qua việc miêu tả thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương được tạo hóa ban tặng, kết hợp với lòng tự hào, kính trọng tinh thần của những cha ông đã hy sinh cho đất nước. Cuối cùng, bài phú kết thúc bằng sự tiếc nuối không nguôi khi cảm thấy chưa đủ cống hiến cho tổ quốc. Qua tác phẩm này, tác giả cũng khéo léo tái hiện lại những trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng, thể hiện lòng tự hào, lòng tự trọng của dân tộc, tình yêu quê hương.
Tình yêu nước của Trương Hán Siêu được thể hiện qua cách mô tả không gian, cảnh vật xung quanh người du khách dọc theo sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền trôi dài một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông Bạch Đằng mở ra một cảnh tượng tuyệt vời, làm lay động lòng người với sự hòa quyện giữa đất và trời, giữa sóng và cờ. Đọc hai câu thơ đầu, người đọc có thể cảm nhận sức mạnh hấp dẫn không thể diễn tả của dòng sông đối với con thuyền. 'Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều', qua những địa danh lịch sử, qua những nơi mênh mông bể biển, đến với sông Bạch Đằng, con thuyền như bị cuốn hút một cách không lối thoát. Phong cảnh mùa thu trên dòng sông yên bình, đại dương lịch sử vừa truyền kỳ thì lại vừa diệu dàng trong sắc trời buồn tênh. Nước và trời kết hợp thành một sắc, sắc mùa thu buồn, sắc sương khói u uất lẫn vào lòng người. Trên cảnh vật vô tận ấy là vẻ đẹp êm đềm của 'đuôi trĩ' với sự tao nhã, dịu dàng. Trong vài câu thơ ngắn, mọi khía cạnh của dòng sông được diễn đạt một cách tinh tế, lãng mạn, từ nước đến cờ, từ sóng đến chiến công hào hùng một thời. Tình yêu quê hương hiện lên qua sự đồng điệu với thiên nhiên, sự yêu thương đất nước, và sự tương hợp với vẻ đẹp của quê hương.
Tình yêu quê hương, cảm hứng yêu nước trong tác phẩm thể hiện rõ nhất ở sự tự hào với những chiến công vĩ đại của ông cha trên dòng sông lịch sử. Những kí ức anh dũng như được tái hiện theo từng nhịp thơ, từng câu chữ, dọc theo dòng lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước. Người đọc cảm thấy như đang tham gia vào những trận chiến đầy quyết liệt, đầy máu lửa.
Đương nay:
Thuyền bè tràn ngập, sóng lớn muôn dặm.
Anh hùng dũng cảm, gươm sáng chói.
Trận đánh đến đâu cũng thắng lợi,
Chiến công vang dội khắp nơi.
Ánh mặt trời và ánh trăng không còn tỏa sáng,
Bầu trời và đất đang chuyển mình.
Nhìn kia: Sức mạnh vĩ đại của quân thù, sự xảo quyệt của kẻ địch,
Dường như đã xóa sạch mọi vết tích trên bốn phương.
Tuy nhiên: Thiên hạ cũng chẳng thể tránh khỏi,
Không có lối thoát nào cho kẻ hung ác!
Giống như trong quá khứ:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Dòng nước sông vẫn chảy mãi,
Nhưng sự nhục nhã của quân thù không bao giờ được xóa bỏ!
Những công lao tái hiện, ngàn thuở ca ngợi.
Có lẽ, theo tư tưởng và quan niệm của nhà thơ, những trang sử vang lên khi một quốc gia nhỏ bé như Đại Việt lại có thể đánh bại một cách đột ngột quân địch hùng mạnh từ phía Bắc, điều này là nguồn tự hào bền vững. Sự thất bại đắng cay của kẻ thù vượt trội hàng trăm lần có lẽ đã là động lực để câu thơ trở thành một bản ca anh hùng vang dội, tạo ra một không khí sống động, những chi tiết của cuộc chiến như được diễn tả chân thực như thực tế. Từ năm 938 khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đến năm 981 khi Lê Đại Hành đánh bại quân Tống, và năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân Mông Nguyên trong cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên lần thứ ba, sự thất bại của kẻ thù được miêu tả qua các từ ngữ 'tan tác tro bay', 'hoàn toàn chết trụi', 'nhục quân thù không rửa nổi'... Tác giả cũng không quên kể về những chiến công của quân ta như trận Xích Bích, Hợp Phì, những trận đánh ghi dấu sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc. Tác giả khẳng định rằng nước Đại Việt không hề thua kém bất kỳ quốc gia nào trong khu vực. Tên tuổi của những danh tướng Trung Quốc như Tất Liệt, Lưu Cung cũng bị xô đổ chỉ trong một trận đánh. Dựa trên những thành công rực rỡ như vậy, Trương Hán Siêu tỏ ra tôn trọng, ca ngợi những vị tướng vĩ đại của nước ta:
'Chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,' và 'Ngô chúa' là những danh xưng của những tướng lĩnh nổi tiếng của Đại Việt, những người đã chiến thắng Ô Mã Nhi, một tướng quân được Trung Quốc coi trọng và Hoằng Thao, thái tử của Nam Hán thất bại trước Ngô Quyền. Sự tự hào của tác giả khi nhắc lại những kỷ niệm quá khứ hùng vĩ, làm sáng tỏ tầm vóc của một dân tộc nhỏ bé nhưng không kém phần kiên cường. Những chiến công vĩ đại, hiển hách đó là niềm kiêu hãnh của một dân tộc đã từng phải đối mặt với nguy cơ xâm lược, là 'tiếng thơm còn mãi' của người Việt để lại cho thế hệ sau. Những anh hùng hy sinh cho đất nước, cho nhân dân, làm lãnh đạo quân đội chiến thắng kẻ thù xấu xa, điều này không chỉ là nguồn tự hào mà còn là sự khẳng định về sức mạnh và trí tuệ của con người Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia nào khác. Tinh thần yêu nước hiện lên mạnh mẽ, nhắc lại những trận chiến trên sông Bạch Đằng đã một lần nữa khẳng định tình yêu quê hương và sự kính trọng, tôn vinh những danh tướng anh hùng.
Tinh thần yêu nước của tác giả còn được thể hiện qua sự tiếc nuối về thời gian trôi đi, sự phai nhạt, cũng như sự hổ thẹn vì hậu thế chưa thể gìn giữ danh tiếng của tổ quốc. Những dòng thơ mang đậm tình cảm u buồn, cô đơn
'Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu'
Có lẽ, trong tư tưởng và quan niệm của nhà thơ, những trang sử vàng chói lọi khi một nước Nam nhỏ bé lúc bây giờ lại có thể một tay dẹp loạn quân Bắc xâm lược, đó là niềm hãnh diện truyền đời. Sự thất bại thảm hại của quân thù mạnh hơn ta cả chục, cả trăm lần dường như đã trở thành chất xúc tác để câu thơ trở thành một bản anh hùng ca vang dội, khiến cho không khí, những chi tiết của cuộc chiến chân thực như đang xảy ra trước mắt. Năm 938 Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm 981 Lê Đại Hành đánh tan quân Tống, và đến năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, sự thất bại của kẻ thù được khắc họa qua những câu thơ 'tan tác tro bay', 'hoàn toàn chết trụi', 'nhục quân thù khôn rửa nổi',... Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn vì những trận thắng của quân ta như trận Xích Bích, Hợp Phì, những trận đánh để đời của Trung Hoa. Tác giả khẳng định tầm vóc của nước Đại Việt không kém cạnh so với cường quốc láng giềng. Tất Liệt, Lưu Cung, những danh tướng của Trung Quốc cũng bị đánh bại chỉ trong một lần 'gieo roi'. Trên cơ sở những chiến công hiển hách, đánh tan quân xâm lược ấy, Trương Hán Siêu bày tỏ sự kính nể, ngợi ca đến những vị tướng vĩ đại của Việt Nam:
Thời gian khiến cảnh vật trở nên 'đìu hiu', 'sông chìm giáo gãy', 'gò đầy xương khô', những dấu vết của chiến tranh vẫn còn hiện hữu ven bờ sông yên bình. Mỗi chiến công oai hùng đều phải trả giá bằng máu và nước mắt, vì vậy, thế hệ sau phải biết ơn và giữ gìn công lao to lớn của cha ông. Nhìn thấy cảnh bờ bến tang thương này, lòng tác giả không khỏi đau đớn, xót xa, xót cho những đồng bào đã hi sinh vì tự do dân tộc, xót cho thời kỳ loạn lạc, hỗn loạn của quê hương, xót cho những công trình xây dựng, giữ gìn của các vị đế vương đi trước lại bị con cháu hậu thế không trân trọng, bảo tồn. Trong lòng tác giả ẩn chứa một mong ước, hy vọng có một vị nhà lãnh đạo kiệt xuất đủ sức bảo vệ đất nước, kế thừa công trạng cha ông và phát triển nước nhà.
Tinh thần yêu nước của Trương Hán Siêu đã được thể hiện rõ qua các khía cạnh nhân văn sâu sắc. Chúng ta thấy sự cảm động trước vẻ đẹp tuyệt vời của quê hương, thấy lòng tự hào và lòng biết ơn đối với những vị danh tiếng đã chống lại quân thù, bảo vệ độc lập dân tộc, ghi dấu vào lịch sử của đất nước, và cuối cùng là nỗi tiếc nuối, buồn thương cho tình hình của quê hương vào thời điểm đó. Có thể nói, nỗi lo lắng của Trương Hán Siêu không chỉ là của riêng ông, đó là lo lắng chung của hầu hết nam nhi thời đó, phải làm gì cho đất nước, cho dân tộc
Lời thơ gọn gàng, sắc sảo, với tinh thần hào hùng mạnh mẽ nhưng cũng không thiếu sự cao quý, tác giả đã thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt, đam mê cùng mong muốn có một vị vua hiền minh xây dựng nước Đại Việt vững mạnh, tồn tại. Qua bài thơ, tác giả thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đến những anh hùng đã cống hiến cho đất nước, bảo vệ đất nước, đồng thời đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của con cháu đối với tổ quốc.
Cảm hứng yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 5
Trương Hán Siêu (?-1354), quê gốc ở Ninh Bình, từng làm môn khách trong triều Trần Hưng Đạo, sau đó ở thời vua Trần Anh Tông làm Tham tri chính sự, khi qua đời được phong Thái Bảo, Thái Phó và an táng trong Văn Miếu. Trương Hán Siêu là người trực tính, học vấn uyên bác, được các vị vua Trần tin dùng và nhân dân yêu mến kính trọng. Tiếc rằng hầu hết tác phẩm văn học của ông đã mất, nhưng Phú sông Bạch Đằng vẫn được lưu truyền và trở nên nổi tiếng. Tác phẩm nổi bật với thông điệp yêu nước rõ nét, tha thiết của tác giả, thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên, với vai trò là người khách đầy cảm hứng, tác giả lộ rõ niềm say mê thông qua hành trình thực tế qua các điểm đến nổi tiếng của Việt Nam từ cửa Đại Thanh, qua bến Đông Triều, cuối cùng là dừng chân trước con sông Bạch Đằng thơ mộng, trữ tình, hùng vĩ, gắn liền với biết bao chiến công lịch sử của dân tộc.
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.”
Chỉ qua vài câu thơ tả cảnh, độc giả đã có thể hình dung ra cảnh vật hùng vĩ, rộng lớn, vẻ đẹp bao la của con sông qua câu “bát ngát sóng kình muôn dặm”, sau đó nhận thấy cảnh thuyền bè lững lờ trên dòng nước thanh bình, đó là cảnh thanh bình, thuyền bè đi lại, nhân dân yên bình. Thêm câu “Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”, tạo nên một bức tranh thanh bình, yên bình của đất nước qua ba mùa thu tươi đẹp.
Tuy nhiên, bên cạnh những vẻ đẹp thơ mộng, nhân vật khách còn cảm nhận được sự lạnh lẽo, đìu hiu của con sông này, vì đã trở thành chứng nhân cho những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Nơi đây chứa đựng xương máu của chúng ta và địch, chỉ để lại trong sử sách và trong ký ức của con sông sự oanh liệt và khí thế hào hùng của thời khắc năm xưa.
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Những kỷ niệm về một thời xa xưa, cùng với cảnh vật buồn bã và u tịch, đã đánh thức trong lòng nhân vật “khách” những cảm xúc sâu sắc về thời gian và những chiến công hào hùng của quá khứ, khi đứng trước sông Bạch Đằng, một cảnh tượng hoang vắng, lạnh lẽo, khiến lòng người không khỏi xót xa và thương tiếc.
Dưới cảm xúc ấy, Trương Hán Siêu đã không còn là người “khách” mà trở thành các bậc lão hiển hiện, tái hiện lại một cách sinh động không khí hùng vĩ của dân tộc trong những trận chiến lịch sử, bằng giọng văn trang trọng và ước lệ.
“Nơi đây là chiến trường của hai vị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là đất địa lịch sử, nơi Ngô chúa đánh bại Hoằng Thao.”
Thời điểm đó:
Thuyền tàu đông đúc, không khí sôi nổi.
Sáu quân hùng mạnh, kiếm gươm sáng loáng.
Trận chiến kết thúc không rõ phần thắng bại,
Chiến lũy từ bắc đến nam.
Anh sáng mặt trời và mặt trăng dần phai nhạt,
Bầu trời và đất đai dần thay đổi.
Xem kìa:
Thế lực mạnh mẽ, kẻ phản bội.
Mặc dù đã tưởng rằng đã đánh bại được quân xâm lược hoàn toàn.
Nhưng: Thời cũng phải nể lòng người,
Khi quân Tào Tháo tan tác trên trận Xích Bích,
Và quân Bồ Kiên hoàn toàn bị tiêu diệt trong trận Hợp Phì.
Cho đến ngày nay dòng sông vẫn chảy mãi,
Nhưng sự nhục nhã của quân thù không bao giờ phai nhạt.”
Lũ giặc tan tác như “Thuyền tàu đông đúc, không khí sôi nổi”, và “Sáu quân hùng mạnh, kiếm gươm sáng loáng”, so với quân ta chỉ một mình đơn độc, nhưng “Thời cũng phải nể lòng người”, những kẻ phản bội, thế lực mạnh mẽ sẽ phải chịu trận, dù là trận Xích Bích hay Hợp Phì, sự nhục nhã của quân thù sẽ mãi mãi ghi trong lịch sử, vinh danh lòng dũng cảm của dân tộc.
Lịch sử của dân tộc đã từng oanh liệt và hùng vĩ, như một bài ca dựng nước và bảo vệ tổ quốc suốt hàng ngàn năm. Ngày nay, đứng trước sông Bạch Đằng, cả “khách” và các bậc lão chỉ thấy dấu vết bi thương của quá khứ, lạnh lẽo và u tịch, khiến lòng người không khỏi đau buồn và xúc động. Những cảm xúc này không phải là nỗi đau mất mát, mà là bi kịch, tiếc nuối của sự trân trọng và kính phục mà con người dành cho quá khứ, như câu ca “Đứng bên sông, chẳng kìm lòng/Nhớ người xưa, lệ trào dòng”.
Cả “khách” và “các bô lão” đều chia sẻ tâm trạng ấy, bởi đã có dấu hiệu không tốt về vận mệnh của nhà Trần sau 50 năm chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ ba. Nhà Trần bắt đầu suy thoái, các vị tướng xuất sắc đã khuất phục, đất nước vô lực. Như Nguyễn Trãi đã viết, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, nếu như điều đó xảy ra, thì có lẽ khí số nhà Trần đã đến hồi kết. Những lo lắng về vận mệnh đất nước đã truyền đến tác giả một ước vọng mạnh mẽ, thể hiện lòng trung quân ái quốc, mong muốn nhân dân an ổn, đất nước vững bền. Mong rằng sẽ có “thánh nhân” nào đó tiếp nối truyền thống, làm sống lại vẻ vang của Đại Việt, đưa nước ta về những ngày huy hoàng.
Phú sông Bạch Đằng là một tác phẩm được ca tụng là tinh hoa của thể loại phú trung và thiên cổ hùng văn trong văn học dân tộc. Nó không chỉ mô tả vẻ đẹp của non sông mà còn gợi nhắc lại lịch sử vĩ đại của dân tộc, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và lòng tự hào trước những chiến công anh dũng trong cuộc chiến chống giặc hàng nghìn năm. Tác phẩm này thức tỉnh người đọc về giá trị quý báu của lịch sử dân tộc và vai trò quan trọng của con người trong việc viết nên những trang sử hào hùng, xây dựng một Đại Việt vĩ đại như ngày nay.