Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi gồm 8 Bài Văn Mẫu Khác Nhau Cực Hay Kèm Theo 2 Gợi Ý Cách Viết Chi Tiết. Qua Đó Giúp Các Em Có Thể Tham Khảo Để Nâng Cao Trình Độ Học Văn Học Của Mình Với Những Bài Văn Mẫu Phân Tích Đoạn Thơ Hay.
TOP 8 Bài Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Cực Chất Dưới Đây Sẽ Là Tài Liệu Thiết Thực Đối Với Các Em Trong Quá Trình Học Tập, Tự Học Và Tự Đọc Để Nâng Cao Mở Rộng Vốn Cảm Nhận Văn Học Của Mình Thêm Phong Phú, Làm Văn Một Cách Sáng Tạo. Bên Cạnh Đó Các Bạn Xem Thêm Bài Văn Mẫu: Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo, Phân Tích Đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo.
Dàn Ý Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo
Dàn Ý Số 1
1. Khởi Đầu
- Giới Thiệu Sơ Lược Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo
- Khái Quát Nội Dung Cần Nghị Luận: Phần Khổ 3 của Tác Phẩm
2. Nội Dung Chính
* Phân Biệt Yếu Tố Quan Trọng Nhất Trong Cuộc Khởi Nghĩa Là Chủ Soái Lê Lợi:
- Người Anh Hùng Yêu Nước, Tận Tâm Dân Tộc, Kẻ Ghét Bọn Xâm Lược 'Sâu Sắc Thù Hận... Không Thể Sống Chung'
- Kiên Định, Dũng Cảm 'Chịu Đắng, Ngủ Trên Gai... Mười Mấy Năm' để Xây Dựng Sức Mạnh
- Biết Lắng Nghe, Tôn Trọng Nhân Tài, Sử Dụng Tài Năng 'Những Kẻ Hiền Tài... Đều Được Đón Chào'
- Quyết Tâm Xua Đuổi Địch, Dù Có Nhiều Khó Khăn 'Trái Tim... Hướng Về Phía Đông'
* Trình Bày Lại Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn
- Phần Đầu Của Cuộc Khởi Nghĩa:
- So Với Địch, Sự Chênh Lệch Từ Mọi Khía Cạnh
- Thiếu Vắng Nhân Tài Hiến Kế, Người Xứng Đáng 'Như Ánh Sao Bình Minh/ Tài Năng Rơi Xuống Như Lá Thu', Thiếu Lực Lượng Chiến Đấu Chống Giặc
- Thiếu Thốn Lương Thực, Quân Số Thưa Thớt, Giặc Vẫn Nắm Quyền Thống Trị Ngang Dọc Ngày Đêm
=> Mặc Dù Đối Mặt Với Nhiều Khó Khăn Tích Tụ, Tinh Thần Chiến Đấu Của Quân Ta Ngày Càng Phô Trương, Đoàn Kết, Ôn Hòa.
- Pha Trả Đũa Của Quân Ta:
- Chiến Thắng Đầu Tiên Mở Ra Chuỗi Thắng Lợi Phát Triển Mạnh Mẽ: 'Trận Bồ Đằng... Đối Đầu Mãi Không Dứt'
- Những Trận Thắng Liên Tiếp Ở Đông Đô, Tây Kinh: 'Ninh Kiều Đầy Máu... Ấn Định Sự Hiện Diện Trong Ngàn Năm'
=> Hình Ảnh Có Phần Đáng Sợ Nhưng Diễn Tả Chân Thực Hình Ảnh Của Những Trận Đánh Lịch Sử
- Hình Ảnh Của Quân Ta Mạnh Mẽ, Chiến Đấu Càng Gắt Càng Tinh Thần, Đánh Tan Tác Giặc, Thắng Nhưng Không Truy Sát Đến Tận Cùng Mà Thay Vào Đó Cho Giặc Một Con Đường Lui, Cung Cấp Thuyền, Ngựa Cho Chúng Quay Về Nước => Tinh Thần Nhân Nghĩa Và Chiến Lược Hoãn Trì Sáng Suốt, Tránh Khỏi Mối Nguy Hiểm Sau Này Của Con Cháu.
- Hình Ảnh Của Giặc:
- Kẻ Bất Trọng 'Nghe Tin Là Sợ Bó Tay', Ham Sống Sợ Chết 'Nín Thở Cầu Sự Sống', 'Bất Lực Để Đợi Sự Suy Sụp... Tận Cùng Sức Lực'... Hoàn Toàn Khác Biệt So Với Hình Ảnh Mạnh Mẽ, Dũng Cảm Trước Đó
- Kẻ Chịu Sự Hỉ Hận, Kẻ 'Chấp Nhận Tử Thần', Tên Vương Thông Mong Muốn Gỡ Bỏ Tình Thế Khốn Khó Nhưng 'Lửa Cháy Lại Càng Bùng Cháy'
- 'Liễu Thăng Bị Cắt Đầu; Lương Minh Bại Trận Tử Vong; Lí Khánh Cùng Kế Tự Tử'...
- Quân Giặc Xin Đầu Hàng, Đạp Lên Nhau Để Tìm Cách Trốn Thoát...
* Phương Thức Nghệ Thuật Được Áp Dụng Trong Khổ Thơ Này:
- Nghệ Thuật Tăng Cường, Phóng Đại
- Bút Pháp Đối Lập, Tương Phản.
3. Tổng Kết
- Xác Nhận Lại Giá Trị Nội Dung Và Phương Thức Nghệ Thuật Trong Khổ Thơ 3 Bài Bình Ngô Đại Cáo.
- Tóm Lược Suy Nghĩ, Cảm Xúc Cá Nhân Sau Khi Đọc Xong Đoạn Trích.
Dàn Ý Thứ 2
1. Giới Thiệu Mở Đầu:
- Thông Tin Về Tác Giả và Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo
- Dẫn Dắt Người Đọc Vào Việc Phân Tích Đoạn 3 của Bình Ngô Đại Cáo
2. Phần Chính:
* Khẳng Định Người Lãnh Đạo Quyết Định Thắng Lợi Trong Cuộc Khởi Nghĩa Là: Lê Lợi:
– Anh Hùng Yêu Nước, Có Tình Thương Dân, Có Lòng Tự Tôn Dân Tộc, Sự Căm Ghét Giặc Ngoại Xâm “Ngẫm Thù Lớn… Không Cùng Sống”
– Sự Kiên Trì “Chịu Đắng Chịu Cay… Mười Mấy Năm Lòng Dũng Cảm” Xây Dựng Lực Lượng
– Khả Năng Thu Phục, Biết Trân Trọng Nhân Tài
– Quyết Tâm Đánh Đuổi Giặc Ngoại Xâm Dù Đối Mặt Với Những Thách Thức Khó Khăn “Tâm Hồn… Hướng Đông”
“Tường Thuật” Diễn Biến Của Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn
*Phần Đầu Khởi Nghĩa:
– Sự Chênh Lệch Tất Cả Các Khía Cạnh So Với Quân Giặc
– Thiếu Người Tài Ra Giúp Đỡ Nước, Thiếu Binh Sĩ Tham Gia Chiến Đấu
– Lương Thực Cạn Kiệt, Quân Giặc Vẫn Tiếp Tục Hoành Hành Ngày Đêm, Quân Đội Thì Thưa Thớt
=> Tuy Khó Khăn Chồng Chất Nhưng Sĩ Khí Quân Ta Áp Đảo Kẻ Thù, Với Sự Đoàn Kết, Lạc Quan.
*Giai Đoạn Phản Công:
– Trận Thắng Đầu Tiên Kỳ Diệu: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
– Các Trận Thắng Tiếp Theo ở Ninh Kiều: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”
=> Hình Ảnh Thể Hiện Chân Thực Những Trận Đánh Lịch Sử
Quân Ta Dũng Cảm, Đánh Cho Giặc Tan Tác, Nhưng Không Truy Đuổi Đến Cùng, Cho Giặc Con Đường Lùi, Cho Chúng Trở Về Nước => Tinh Thần Nhân Nghĩa và Hòa Hoãn Sáng Suốt, Tránh Mối Hiểm Họa Sau Này.
*Hình Ảnh Của Giặc:
– Tính Thái Độ Nhát Nhảy, Thích Sống Sợ Chết Ngày Càng Rõ Rệt So Với Hình Ảnh Dũng Cảm Trước Đó
– Một Số Người Chịu “Bêu Đầu”, Một Số “Đành Bỏ Mạng”, “Lửa Cháy Lại Càng Cháy”
– Quân Giặc Đầu Hạ, Kêu Rao Rủ Bỏ Trốn…
*Nghệ Thuật Trong Khổ Thơ Này:
– Sử Dụng Nghệ Thuật Phóng Đại
– Phong Cách Văn Học Đối Lập
3. Tóm Tắt Cuối:
– Khẳng Định Lại Ý Nghĩa Khổ Thơ 3 Trong Bình Ngô Đại Cáo.
Bình Ngô Đại Cáo Khổ 3 - Mẫu 1
Trong Quan Hệ Giữa Lịch Sử Và Văn Học, Chúng Ta Gặp Những Thời Điểm Lịch Sử Đồng Thời Cũng Là Thời Điểm Văn Học. Điều Đó Được Chứng Minh Cụ Thể Qua Nam Quốc Sơn Hà Với Chiến Thắng Sông Như Nguyệt, Hịch Tướng Sĩ Với Cuộc Kháng Chiến Chống Quân Nguyên Mông Lần Hai Và Bình Ngô Đại Cáo Cùng Cuộc Đại Phá Quân Minh Toàn Thắng.
Tuy nhiên, Bình Ngô Đại Cáo vẫn là một trường hợp đặc biệt, được coi như một tác phẩm vĩ đại từng tồn tại trong lịch sử văn học, đầy ý nghĩa. Cảm hứng về sự độc lập của dân tộc và tương lai của đất nước đã kết hợp và trở thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong khổ thơ thứ ba.
Bình Ngô Đại Cáo được truyền cảm hứng từ hai nguồn chính: cảm hứng chính trị và cảm hứng văn học. Cảm hứng chính trị đã mang lại cho dân tộc một tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ, kiên quyết. Cảm hứng văn học đã tạo ra một kiệt tác văn chương, đầy cảm xúc. Khi hai nguồn cảm hứng này kết hợp, đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại mang đậm giá trị tư tưởng và thẩm mỹ. Khổ thơ thứ ba nêu bật ý chí quyết chiến và quyết thắng của nhân dân Đại Việt.
Với cảm hứng dồi dào và đa dạng, tác giả đã vẽ nên hình ảnh của những ngày thắng lợi lịch sử nhất. Dựa vào lịch sử, cuộc khởi nghĩa hiện lên với tất cả những đặc điểm phong phú, quy mô lớn, và sống động của nó. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện tất cả các diễn biến trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa và tập trung chủ yếu vào việc nổi bật đời sống tinh thần của anh hùng Lê Lợi.
Để mô tả hình tượng của Lê Lợi, tác giả sử dụng điển hình là 'nếm mật nằm gai', một câu nói nổi tiếng về Việt Vương Câu Tiễn. Dường như cảm hứng về anh hùng dân tộc đã giúp tác giả thành công trong việc tạo ra bức tranh về Lê Lợi:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Với niềm đam mê và lòng yêu nước, Lê Lợi cùng với đồng đội đã kiên định vượt qua mọi khó khăn, thách thức, mọi gian khổ: thiếu nhân tài, thiếu lương thực... Nhưng hơn hết, nhờ vào 'tấm lòng cứu nước', nhờ vào 'quyết tâm vượt qua gian khó', và nhờ vào 'tinh thần đoàn kết', 'tinh thần hy sinh cao quý', cuộc khởi nghĩa dần vượt qua khó khăn để cuối cùng tiến tới chiến thắng. Trải qua giai đoạn lịch sử từ năm 1418 đến 1424, sáu năm 'khó khăn' được đề cập thông qua hai sự kiện:
Khi Linh Sơn cạn lương suốt mấy tuần
Khi quân Khôi Huyện không đội đội bộ binh
Điều này không chỉ là biểu tượng cho những thời kỳ gian khó trong cuộc chiến, mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân: lạc quan ngay trong bóng tối, tin tưởng ngay cả khi gặp thất bại tạm thời. Chúng ta kiên định, chúng ta tin tưởng vì niềm tin vào nhân dân, vì khả năng phát huy sức mạnh của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp lao động:
Dù bị chặt chém, những người lao động vẫn cùng nhau vượt qua khó khăn
Người dẫn đầu quân đội, tinh thần hy sinh cao quý nhất
Đó là một tư tưởng vĩ đại mà mãi mãi sau này, khi Nguyễn Đình Chiểu đã tả lại, chúng ta vẫn thấy nhân dân quyết tâm và đoàn kết. Trong tuyên ngôn như Bình Ngô Đại Cáo, những người lao động được đề cập một cách công khai và trang trọng 'chưa từng thấy trong quá khứ'.
Hai dòng thơ này có ý nghĩa như bản lề chuyển tiếp:
Mang đại nghĩa để đánh bại hung tàn
Mang chính trực để thay thế sức mạnh bạo lực
Có thể nói sau nhiều suy tư, trăn trở, sau nhiều đau khổ, tức giận, sau nhiều lo âu, tác giả đến lúc này mới thả lỏng, hả hê, sảng khoái. Bao trùm đoạn văn là những hình ảnh phong phú, đa dạng, được vẽ bằng thiên nhiên tráng lệ, kì vĩ, tiếp theo là mô tả cảnh chiến thắng “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho bay”, “không còn mảnh vỡ”, “chim muông bay”, “lá khô rụng hết” khiến “đá núi cũng mòn”, “nước sông cũng cạn”.
Bên cạnh chiến công vẻ vang của quân và dân ta là thất bại ê chề của tướng giặc khi “máu chảy thành sông”, “máu đỏ như nước”, “thây chất đầy nơi”, “thây chất trên đường”. Chiến trường lúc ấy tan hoang với sự hoang tàn của thời gian, không gian như đắm chìm trong khói súng, khói bom “sắc phong vân phải thay đổi”, “bóng trăng phải mờ dần” với những rung chuyển dữ dội, liên tục. Các tính từ chỉ mức độ cao nhất tạo nên hai mảng đối lập.
Bức tranh toàn cảnh về thất bại ê chề của kẻ thù thì mỗi cá nhân một cảnh, mỗi kẻ một hình: Trần Hiệp phải chịu sự trừng phạt, ... và gặp nhau ở một điểm là sự ham sống sợ chết đến hèn nhát. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha thứ chết, đã nêu bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Elephant uống nước, sông cạn khô
Đánh một trận, không còn gì kinh ngạc
Đánh hai trận, chim muông bay đi
Sự dồn dập như xương sống của đoạn văn để hòa quyện giữa hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu nhằm miêu tả một cách chân thực cuộc phản công thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
Cơn gió mạnh thổi sạch lá khô,
Tổ kiến không còn đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ gửi tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc buộc tay xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, đường đầy thây chất,
Xương Giang, Bình Than, máu chảy đỏ như nước,
Khủng khiếp thay! Sắc phong vân phải thay đổi,
Thảm thương thay! Ánh mặt trời, mặt trăng phải mờ đi
Bị chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ và bị phá vỡ kế hoạch!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh chạy trối chết để cứu sống
Suối Lãnh Câu, máu chảy, nước sông nghẹn ngào trong tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất như núi, cỏ đầm máu đen.
Cứu được những binh sĩ tan tác, quay gót không kịp,
Quân giặc ở các thành khốn đốn, cởi giáp ra để bị bắt
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin sống
Thần vũ không giết, chúng tôi mở lòng để tha thứ
Mã Kỳ, Phương Chính, cung cấp năm trăm thuyền, ra biển vẫn không chán ngán,
Vương Thông, Mã Anh, cung cấp mấy nghìn con ngựa, về đến nơi vẫn xao xuyến
Họ sống sợ chết mà vẫn lòng hiếu thảo,
Chúng tôi sử dụng toàn quân, để nhân dân có thể nghỉ ngơi.
Không chỉ có những kế sách tài tình,
Mà còn là điều chưa từng thấy trước đây
Hình tượng kẻ thù thảm hại, bi thương, nhục nhã càng tăng thêm sức mạnh hào hùng của khởi nghĩa. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha thứ chết, được ưu ái tạo mọi điều kiện tiếp tục sống, Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo sáng ngời của khởi nghĩa Lam Sơn.
Quả đúng, 4000 năm lịch sử đã khắc sâu vào trang sử hào hùng, đã phản ánh qua văn học bằng những danh nhân văn chương, những anh hùng dân tộc. Trong lời kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã kết hợp với cảm hứng về vũ trụ khi “bỉ”, khi “hối” nhưng vẫn hướng tới sự sáng tươi, xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận mệnh duy tân đã khai mở.
Phân tích Đại cáo Bình ngô đoạn 3 - Mẫu 2
Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc vĩ đại của Việt Nam với nhiều công lao, hy sinh cho Tổ quốc. Tình yêu nước như một ngọn lửa luôn sáng cháy trong ông, phát triển trong thời kỳ nước mất nhà tan. Đó là điều đã tạo nên Nguyễn Trãi, với tình yêu nước mãnh liệt. Ông cũng được biết đến với tài năng văn học đỉnh cao.
Hầu hết các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả. Điều này rõ ràng qua bài Bình Ngô đại cáo, đặc biệt ở đoạn 3. Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp hiểu sâu hơn cuộc chiến chống quân xâm lược trong lịch sử dân tộc.
Nguyễn Trãi đã cho thấy điều đó khi khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu. Và hình ảnh đầu tiên là chủ tướng Lê Lợi:
Dưới chân Lam Sơn, dậy cuộc nghĩa,
Từ vùng hoang dã tựa vai.
Tự xưng gần gũi, sinh ra từ núi, từ vùng hoang dã nhưng vì lòng nghĩa mà đứng lên. Lãnh đạo mang trong lòng sự căm hận sâu sắc với kẻ thù, sẵn sàng đánh gục chúng dù phải trải qua hàng ngàn khó khăn. Trong thời gian khó khăn đó, người anh hùng đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù khởi đầu yếu thế, nhưng nhờ lòng yêu nước và kế sách khôn ngoan, Lê Lợi và đồng minh đã chiến thắng.
Với lòng yêu nước mãnh liệt, chúng ta luôn tiến về phía đông;
Với lòng hiền từ, chúng ta luôn nhìn về phía tây.
Người lãnh đạo nhận nhiệm vụ từ trời cao, biết cách vượt qua khó khăn và tìm con đường chiến thắng. Với tinh thần đoàn kết, tấm lòng phụ tử và kế sách khôn ngoan, chúng ta đã vượt qua mọi gian khổ để chiến thắng.
Trọn vẹn:
Mang đại nghĩa để đánh bại hung tàn,
Dùng chí nhân để thay thế sức mạnh bạo lực.
Nhờ vào điều đó, mỗi ngày, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh mẽ, biết tận dụng cơ hội, quân ta đã tiến hành những chiến dịch phản công và giành chiến thắng vẻ vang.
Trong phạm vi hẹp của bài cáo, Nguyễn Trãi đã khéo léo tái hiện một cách chân thực, từ nhiều góc độ khác nhau, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Những trận đánh liên tiếp như Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Thăng Long, đã chặn đứng kẻ thù và bảo vệ thành công Thăng Long.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Trong một bức tranh chiến trường hùng vĩ, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài và không kinh ngạc.
Đánh một trận sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Sự uy nghiêm và quyết tâm của quân tướng toát lên sức mạnh oai hùng:
– Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
– Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Chúng ta ở tư thế chủ động tấn công, chiếm lĩnh toàn bộ chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng, tất cả đều ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ đầu cuộc khởi nghĩa, chúng ta thấy một kỳ tích, một sức mạnh phi thường.
Tuy nhiên, trong quá trình tường thuật về cuộc khởi nghĩa, không chỉ dừng lại ở việc khen ngợi chiến thắng của chúng ta, mà còn mô tả một cách sinh động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thấy đầy ám ảnh. Nếu chúng ta chủ động thì kẻ thù sẽ rơi vào thế bị động, thất thế. Sự chứng kiến liên tục giúp chúng ta nắm bắt cơ hội, giải cứu trận đánh, và đợi chờ cho sự thất bại của chúng, đồng thời cảm nhận sự kém cỏi của tinh thần và ý chí của chúng. Thất bại và sự nhục nhã là kết quả tất yếu của chúng.
Tuy nhiên, con đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã vạch ra từ đầu luôn được đặc biệt chú trọng. Chúng ta chiến thắng nhưng biết giữ sự nhân nhượng, không đẩy kẻ thù vào tình thế tuyệt vọng mà ngược lại, chúng ta mở lối cho chúng có cơ hội sống, cũng như để toàn bộ dân chúng được nghỉ ngơi, lấy lại sức. Chúng ta đã cung cấp thuyền, ngựa cho chúng để quay trở về. Vì vậy, chiến thắng của chúng ta không chỉ là chiến thắng về quân sự mà còn là chiến thắng của tinh thần cao quý, của lòng nhân ái, nhân văn. Chính vì vậy mà kẻ thù đã thua cuộc và sẵn lòng đầu hàng, tháo giáp ra hàng, buộc tay tự xin hàng, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, khi ra khỏi biển mà vẫn lạc hồn bay phách, khi trở về đất liền mà vẫn tim đập chân run.
Giọng điệu sôi nổi, mạnh mẽ, ngôn ngữ sắc bén, bút pháp tương phản, mang đậm tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống lại những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm kiêu hãnh, tự hào không chỉ nằm ở những chiến công mà còn ở sức mạnh của toàn bộ dân chúng quyết tâm một lòng để đạt được chiến thắng vĩ đại.
Kết thúc đoạn cuối với một giọng điệu thư thái, hân hoan khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là độc lập, hòa bình.
Xã tắc từ đây vững bền
…
Ai nấy đều hiểu
Vậy là từ nay đã kết thúc thời kỳ của sự tàn bạo, khốc liệt, không còn những ngày đen tối, đầy đau thương dưới ách thống trị của kẻ thù. Lời tuyên bố độc lập vang lên với sự hào hứng, mang lại niềm vui, tự hào cho hàng triệu người dân. Bao lâu nay khát khao, giờ đất trời sáng rực, mặt trời, mặt trăng đều sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể đứng vững tự hào và hướng tới một tương lai tươi sáng, một thời đại xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Đã qua sáu trăm năm, lịch sử dần lùi vào quá khứ, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn giữ nguyên sức sống như ban đầu. Bản văn lịch sử chứa đựng tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một tác phẩm văn chương điển hình của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người Việt về tình yêu quê hương, về ý chí chiến đấu để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - Mẫu 3
Sau khi đánh bại quân Minh, Nguyễn Trãi đại diện cho vua Lê Lợi viết bản tuyên bố để thông báo cho mọi người về chiến thắng. Bản tuyên bố không chỉ xác nhận chủ quyền của đất nước, kết án tội ác của quân Minh mà còn trình bày chi tiết quá trình từ cuộc đấu tranh kiên cường đến chiến thắng của dân tộc Đại Việt. Đặc biệt, vai trò lãnh đạo và quyết tâm đánh bại quân giặc của vua Lê Lợi được thể hiện rõ ràng.
Bắt đầu phần ba, tác giả đề cập đến những khó khăn mà vua Lê Lợi và dân tộc Đại Việt phải đối mặt:
“Đây ta:
Núi Lam Sơn vươn cao hùng mạnh
Chốn hoang dã tự mình vun đắp
Căm thù lớn há dũng cảm vươn cao
Một lòng chống giặc, không sống chung với kẻ thù
Đau lòng nhức óc, gian khổ suốt mười mấy năm
Nếm mật nằm gai, cắn răng gồng mình
Quên ăn vì giận, sách lược suy tính cẩn trọng
Nhìn xa tương lai, đắn đo kỹ lưỡng
Những mối lo âu trong giấc mộng mị
Chỉ đơn thuần lo lắng một nỗi đau quen thuộc
Khi ý chí cứng cỏi dâng trào,
Chính lúc kẻ thù mạnh mẽ.”
Đoạn thơ này tả lại tinh thần quyết tâm của vua Lê Lợi. Anh hùng không chịu nhìn thấy dân tộc bị nô lệ dưới ách thống trị của quân Minh. Lê Lợi đã dũng cảm đứng lên trong hoang dã, chịu đựng mọi khó khăn để chờ đến lúc khởi nghĩa. Vua Lê đầy lòng căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, lo lắng đến trằn trọc chỉ vì một mục tiêu - đánh bại quân Minh. Dù quân Minh mạnh mẽ nhưng ý chí của Lê Lợi không khuất phục:
“Lại còn gặp thêm khó khăn:
Tuấn kiệt như sao lúc sáng sớm,
Nhân tài như lá thu đã rơi,”
So sánh này làm nổi bật tình hình khó khăn của đất nước. Vua không có ai để tư vấn hay giúp đỡ. Mặc dù vậy, ý chí cứng cỏi để giải cứu đất nước vẫn rất mạnh mẽ. Mặc cho mọi khó khăn, vua vẫn luôn hướng về phía Đông để đánh bại giặc. Dù cô đơn nhưng Lê Lợi vẫn kiên trì, vừa vì mong muốn giành chiến thắng vừa lo lắng cho dân tộc. Mặc dù có lúc lương hết, binh tan nhưng dân chúng vẫn đoàn kết, ý chí mạnh mẽ, vua Lê dùng chiến lược thông minh để đối phó với giặc.
Và kết quả đã chứng minh rằng thông qua sự cố gắng vượt qua khó khăn và ý chí quyết tâm cùng với chiến lược thao binh tài tình, Lê Lợi đã lãnh đạo dân tộc giành được chiến thắng và đuổi quân Minh về nước:
“Hoàn toàn:
Thành công bằng tinh thần lớn lao
Áp đặt bằng lòng nhân từ bi
Trận Bồ Đằng oanh liệt, xung trận
Trà Lân đất cháy, tro bay mờ mịt
……..
Suối Lãnh Câu, nước sông đỏ máu, khóc than vang xa
Thành Đan Xá, đất nước biến thành vùng núi, cỏ cũng ướt máu đen.
Giải cứu binh lính, quay về mất hết cơ hội”
Bằng cách diễn đạt chi tiết từng trận đánh, nhà văn đã tái hiện lại một cách sống động nhất. Những tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Tuyên Đức, Liễu Thăng…trở thành đề tài để mọi người trò cười. Chúng ta không nên tham lam và tàn bạo vì sẽ gặp họa. “Ngày mười tám” và “ngày hai mươi” được sử dụng để diễn giải chi tiết về hành trình của vua Lê Lợi và quân đội trong việc giành chiến thắng. Chúng ta dựa vào lòng nhân để tiêu diệt tà ác, dựa vào chính nghĩa để đánh bại sự hung ác. Các trận đánh như sấm chớp, tro bay khắp nơi. Kẻ thù không thể rút lui, phải nằm xuống xin thua, xác người chất đống, máu chảy thành sông.
Không chỉ giành chiến thắng, Lê Lợi và binh sĩ của mình còn thể hiện lòng nhân ái, thậm chí cả khi chiến thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, về đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Dù giành chiến thắng, quân ta vẫn cấp thuyền và ngựa cho kẻ thù để về. Theo Lê Lợi, nếu họ muốn sống một cuộc sống đàng hoàng thì chúng ta cần giữ toàn quân để nhân dân được nghỉ ngơi.
Đây thực sự là một hành trình đấu tranh đầy gian khổ để đạt được chiến thắng như ngày hôm nay. Cuộc chiến của nhân dân Đại Việt là một cuộc chiến chính nghĩa, dựa vào nhân nghĩa để đấu tranh với sự tàn bạo của kẻ thù, và kết quả là chính nghĩa giành chiến thắng. Đồng thời, chúng ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một nhà lãnh đạo tài trí xuất sắc đã dẫn dắt nhân dân đuổi quân Minh ra khỏi đất nước. Đặc biệt không thể không nhắc đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết nên tác phẩm hùng văn này.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 4
Nguyễn Trãi, một thiên tài văn chương của Việt Nam, với tác phẩm Bình Ngô đại cáo, đã để lại một tác phẩm thiên cổ hùng vĩ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc biệt, đoạn thơ thứ ba là một bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Vị tướng ta bắt đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định mạnh mẽ, hùng hồn, thể hiện rõ tâm trạng của vị lãnh đạo Lê Lợi. Hơn ai hết, là một tướng quân dẫn đầu trận chiến, cũng như là một người tự trọng, ông hiểu sâu sắc nhất cảm xúc căm hận kẻ thù đến tận xương tủy, như đã nêu trong đoạn thơ: căm thù giặc thề không chung sống. Nhưng nếu chỉ giữ lửa hận trong lòng, sẽ trở thành mù quáng và hời hợt, do đó, vị lãnh tụ đó không chỉ chứa đựng trong lòng căm thù và đau khổ, mà còn chứa đựng bao suy tư, lo lắng, đến mức “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, những lo lắng về kế sách chiến lược, và cũng như những lo âu về những thách thức khó khăn trên con đường phía trước sắp phải đi qua. Chiến đấu với những khó khăn ban đầu là vô cùng khắc nghiệt, tài năng như lá mùa thu, người có trí khôn giải quyet vấn đề lớn thiếu thốn, không có lực lượng chủ lực cùng đồng đội, mọi sự gian nan về binh lực so với đối thủ, tuy nhiên, những điều đó lại trở thành động lực để những chiến sĩ kiên cường, quyết tâm chiến đấu. Cuối cùng, thiên thần không phụ lòng người, không phụ công lao, sự hy sinh, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, cuộc chiến đã thành công.
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Hình ảnh thiên nhiên trong 4 câu thơ như một cách diễn đạt, khắc họa chiến công vĩ đại và sự hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn. Hình ảnh gươm mài đá, đá núi cũng mòn, và voi uống nước, nước sông phải cạn, nhấn mạnh sự bền bỉ, kiên trì, hy sinh của những người lính Lam Sơn, đồng thời chỉ ra một chân lý trong kháng chiến. Chiến đấu vì chính nghĩa luôn dẫn đến chiến thắng. Cụm từ miêu tả mạnh mẽ 'sạch không kình ngạc, tan tác chim muông' thể hiện sức mạnh, quyết tâm và hào hùng của những chiến binh, chúng ta không chỉ giành chiến thắng mà còn thắng lợi vẻ vang, quét sạch sự kiêu ngạo của kẻ thù:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Tác giả kết thúc đoạn ba của bài cáo bằng một giọng văn hào hùng, tái hiện lại những chiến công vĩ đại, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Những chiến công này góp phần ghi danh sử sách nghìn năm, tạo nên tinh thần yêu nước, quật cường cho các thế hệ - là nét đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử. Bắt đầu chuỗi chiến công lịch sử của Nghĩa quân Lam Sơn là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An,... và tiếp tục với những trận Chi Lăng, Mã An, Lương Minh, Lí Khanh,...
'Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn'.
Tổng kết lại, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi phân tích ba phần chính, thứ nhất là tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Tiếp theo, là tự hào và kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh bại quân địch, mà còn khiến chúng phải thất bại ê chề, nhục nhã. Những câu thơ dài, với văn phong hào sảng, thể hiện rõ điều đó. Cuối cùng, là dòng thơ kết thúc, là biểu hiện của cảm xúc sâu sắc nhất, niềm tin và khao khát về một đất nước, một giang sơn vĩ đại:
'Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Với văn phong hào sảng và lập luận sắc bén, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô đại cáo trở thành tuyên ngôn độc lập của dân tộc, là tổng kết lịch sử hào hùng, là bài ca vĩ đại về chiến đấu và chiến công, về những người anh hùng của quân dân ta.
Phân tích khổ 3 Đại cáo Bình ngô - Mẫu 5
Bình Ngô đại cáo là một tuyên ngôn độc lập của Đại Việt, thể hiện lòng dũng cảm của quân dân trong chiến tranh chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt, đoạn thơ thứ ba mô tả chân thực những trận đánh dũng mãnh của quân ta, khiến địch chảy máu và chạy trốn, cũng như sự nhân đạo của nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, yếu tố quan trọng đem lại chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa là Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là anh hùng tự tôn dân tộc, căm ghét giặc Minh đến mức “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”. Điều này đã thúc đẩy ông khởi nghĩa, lập căn cứ tại Lam Sơn, và kiên trì tập hợp lực lượng, thu phục tài năng, và quyết tâm đánh giặc “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, hướng tới tương lai sáng lạn cho dân tộc.
Nghĩa quân ta bị yếu đuối “Vừa lúc cờ nghĩa dấu lên/Chính là lúc quân thù mạnh”, thiếu người tài “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu”, và thiếu binh sĩ tham gia “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi”. Trong khi đó, giặc tàn sát, vơ vét, khiến Lê Lợi “vội vã như cứu người chết đuối”. Giặc vẫn hoành hành “hung đồ ngang dọc”, tình hình khó khăn.
Với quyết tâm và căm thù giặc, nghĩa quân ta đã vượt qua khó khăn ban đầu bằng cách tập hợp lực lượng, kết hợp “dùng quân mai phục”, “lấy ít địch nhiều”, và thể hiện lòng nhân đạo. Chiến thắng đầu tiên mở ra chuỗi chiến công vang dội, khi quân ta giành cứ điểm quan trọng và khiến giặc bại trận. Giặc cầu cứu nhưng bị đánh bại.
Giặc cố gắng cầu cứu nhưng bị vô hiệu.
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại đưa tướng chặn đường, tuyệt nguồn lương thực”
Gây ra hậu quả nặng nề cho quân Minh là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” . Quân ta tiếp tục mở rộng quy mô, tuyển thêm binh sĩ để chuẩn bị cho trận chiến và tiêu diệt hoàn toàn quân địch.
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Khắp nơi xác giặc nằm rải rác, với hình ảnh “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước” thể hiện sự tàn bạo của chiến tranh. Hành động của quân dân ta khi “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” không chỉ khiến giặc sợ hãi mà còn giúp xây dựng đất nước và giữ vững sự hòa bình cho tương lai.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo mô tả chân thực quá trình khởi nghĩa và đánh đuổi quân xâm lược bằng ngôn từ hào hùng, sinh động. Những hình ảnh đậm chất sĩ khí của nghĩa quân làm cho tác phẩm trở thành một thiên anh hùng ca của dân tộc.
Phân tích khổ 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 6
Tập trung vào hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn ban đầu của cuộc khởi nghĩa. Nguyễn Trãi đã diễn đạt một cách chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng cách kết hợp tự sự với trữ tình. Tác giả đã thành công trong việc phác họa hình tượng Lê Lợi trong giai đoạn khó khăn đầy gian khổ.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi, có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và vị lãnh tụ nghĩa quân. Lê Lợi được xem như linh hồn của cuộc khởi nghĩa vì ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Ông căm ghét giặc và quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi đất nước.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lễ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống” là thái độ và tinh thần của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự rèn luyện, thử thách của bản thân, từ trái tim đến tư duy. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi trong tâm trí luôn lo toan cứu nước, cứu dân, cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thể hiện tính cách dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Ban đầu, so sánh sức mạnh giữa hai bên, ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 7
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt, mà còn là một bản ca anh hùng về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Ở đó, chúng ta thấy rõ những trận đánh lịch sử, những trận đánh khiến kẻ địch sợ hãi hàng trăm năm sau vẫn còn nhớ, cũng như tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến yếu tố quan trọng nhất trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi mô tả ông là một anh hùng yêu nước, tôn trọng dân tộc, và căm ghét giặc Minh đến độ phải tiêu diệt mọi phần, cả hai bên phải chết. Đó là lý do chủ yếu để Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, chọn nơi hoang dã làm căn cứ, chờ thời cơ đánh đuổi giặc. Ngoài ra, Lê Lợi còn có nhiều phẩm chất khác như kiên nhẫn, khéo léo trong chiến lược, và quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Dù chủ soái có tài, nhưng quân ta vẫn yếu hơn giặc ở nhiều mặt, đặc biệt là về số lượng quân lính. Trong buổi đầu khởi nghĩa, mọi thứ đều thiếu thốn và khó khăn, khiến Lê Lợi lo lắng. Thiếu người hiền tài và binh lính, trong khi quân giặc tiếp tục làm ác, làm cho tình hình trở nên khó khăn hơn.
Tuy nhiên, bằng quyết tâm cứu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, nghĩa quân ta đã vượt qua khó khăn ban đầu. Họ tụ hợp, đoàn kết, và sử dụng mưu lược thông minh trong chiến đấu. Nhờ tấm lòng nhân nghĩa và chính nghĩa, họ đã giành được nhiều chiến thắng đầy ấn tượng, chứng minh rằng chân lý và chính nghĩa sẽ luôn thắng trội trước gian ác.
Quân ta ngày càng hăng hái, khiến cho kẻ địch chỉ biết cúi đầu trước số phận bại vong. Đường phản quân luôn dẫn đến sự thất bại, vì không có lối thoát cho họ. Dù chúng cố gắng cầu cứu nhưng vẫn không thể tránh khỏi số phận tàn lụi. Cứ như loài chuột bị bắt góc, chúng cố gắng tấn công lại nhưng không thành công. Quân ta ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.
'Người tài luôn chọn những người có tài năng, còn tôi luôn chọn những người kiên cường.'
Mọi thứ đều chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng, để xóa sổ quân địch một cách triệt để.
'Một trận đánh, quân địch biến mất không để lại dấu vết, hai trận đánh làm tan tác kẻ thù.'
Quân địch phải hoảng loạn và xin hàng, khắp nơi là bóng dáng của cái chết. Hình ảnh này thể hiện sự tàn khốc của cuộc chiến và lòng hào hùng của dân tộc. Quân ta đã tạo ra một chiến thắng ấn tượng, khiến quân địch phải sợ hãi và tìm cách chạy trốn. Đồng thời, chúng ta cũng xây dựng đất nước mình sau cuộc chiến.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện một cách sống động quá trình khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Văn phong hùng tráng, bi tráng, những hình ảnh thiên nhiên phong phú, đầy biểu tượng như mặt trời, mặt trăng, sông núi đã tạo ra một bức tranh sống động về sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân, khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 - Mẫu 8
Nguyễn Trãi là một thi sĩ lớn của dân tộc. Bình Ngô đại cáo là một tuyên ngôn vĩ đại ghi lại thời kỳ hào hùng của dân tộc. Đoạn 3 của tác phẩm tái hiện một cách chân thực cuộc kháng chiến Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của chủ soái Lê Lợi. Phân tích đoạn 3 để hiểu rõ hơn về cuộc kháng chiến Lam Sơn.
Bình Ngô đại cáo là một tuyên ngôn quan trọng trong lịch sử dân tộc. Vai trò quan trọng của chủ soái Lê Lợi trong cuộc kháng chiến Lam Sơn được thể hiện rõ qua các đoạn văn. Từ những câu đầu tiên của đoạn 3, Nguyễn Trãi đã mô tả lại hình ảnh của chủ soái Lê Lợi, người đã có những đóng góp lớn trong chiến thắng của cuộc kháng chiến Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Nguyễn Trãi sử dụng đại từ “Ta” như thể đang phê phán tâm thế kiêng nhẫn, kiên định của chủ tướng Lê Lợi, khẳng định một tinh thần quyết tâm, hùng hổ của người lãnh đạo. Là một vị tướng dẫn đầu một quân đội lớn, một bậc tôi tớ trung thành của nhân dân, Lê Lợi hiểu rõ những căm thù sâu đậm đối với quân Minh xâm lược.
Lê Lợi, người chủ tướng gan dạ, hy sinh tất cả vì sự độc lập của dân tộc. Tâm trạng căm phẫn này sâu đậm đến tận xương tủy, thề không chung sống cùng kẻ thù “không cùng sống” trên một mảnh đất. Hơn thế, chúng ta thấy Lê Lợi đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ, gian truân để tìm ra sách lược đối phó, đuổi giặc phương Bắc xâm lược:
“Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tác giả sử dụng từ ngữ đầy cảm xúc, nhấn mạnh đến nỗi đau, suy tư của người lãnh đạo quân đội “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”. Thể hiện được những lo lắng về những khó khăn sẽ gặp phải trong cuộc đấu tranh giành tự do cho dân tộc. Đồng thời, đó cũng là nỗi lo lắng về kế sách, chiến lược quân sự trong cuộc chiến. Trong mọi cuộc kháng chiến, luôn tồn tại những khó khăn, thiếu người tài để thực hiện những công việc lớn, cũng không đủ nhân lực có thể cùng chung lòng, đoàn kết để đánh tan kẻ thù ngoại xâm. Sự chênh lệch về chiến lược so với đối thủ là rất lớn, nhưng đó lại là tiền đề để những chiến binh quyết liệt, kiên định hơn với cuộc chiến, tìm mọi cách để giành độc lập, tự do cho nhân dân. Nhờ những hy sinh, vượt qua mọi khó khăn đó, khởi nghĩa Lam Sơn đã giành chiến thắng, quân Minh xâm lược đã bị đánh bại.
Qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3, chúng ta cảm nhận được cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc khởi nghĩa hào hùng, đi vào lịch sử dân tộc. Sau khi nhắc đến vai trò, những hy sinh của chủ tướng Lê Lợi và của nhân dân, tác giả tái hiện lại những diễn biến kịch tính của khởi nghĩa Lam Sơn:
“Gươm mài đá, đá núi cũng phai
Voi uống nước, sông cạn không dài.
Đánh trận một, sạch không phải kỳ vĩ
Đánh trận hai, giặc tan tác như chim muông.”
Để tả lại những chiến công hùng hậu của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã lựa chọn hình ảnh của thiên nhiên. Sông núi luôn hùng vĩ như chiến công của nghĩa quân Lam Sơn. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, phóng đại, “gươm mài đá, đá núi cũng phai,” “voi uống nước, sông cạn không dài” để nhấn mạnh sự kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu, hy sinh tính mạng để bảo vệ lãnh thổ. Dù cuộc chiến diễn ra ác liệt nhưng mọi người tin vào một chiến thắng vẻ vang, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian ác. “Đánh trận một, sạch không phải kỳ vĩ” “Đánh trận hai, giặc tan tác như chim muông” thể hiện sức mạnh khủng khiếp của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đều mang một tinh thần quật cường, sức mạnh không ngừng trước quân thù, dập tắt sự kiêu căng của kẻ thù.
Tác giả nhắc đến tất cả các địa danh mà quân Lam Sơn đã chiếm được, như một khẳng định rằng chúng ta đã đuổi quân xâm lược phương Bắc ra khỏi đất nước miền Nam:
“Bị chúng tôi chặn tại Lê Hoa, quân Vân Nam hoảng sợ và bỏ mạng!
Nghe tin Thăng thua tại Cần Trạm, quân Mộc Thạnh lao lên nhau để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
……………………..
Mã Kỳ, Phương Chính, chúng tôi cung cấp năm trăm chiếc thuyền, ra khơi mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, đưa cho vài nghìn cỗ ngựa, về nước mà vẫn tim đập chân rung”
Đây là niềm tự hào sâu sắc của dân tộc trước chiến thắng vẻ vang chống lại quân Minh xâm lược
Khi phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ở những câu văn cuối cùng, chúng ta cảm nhận được sự tự hào sâu sắc của dân tộc trước chiến thắng vẻ vang của quân Lam Sơn. Đây là thắng lợi đã ghi vào lịch sử dân tộc, như một lời nhắc nhở đến thế hệ sau về sự hy sinh, quyết tâm của tổ tiên để bảo vệ độc lập cho dân tộc. Từ đó, xây dựng lòng yêu nước, tự hào trong mỗi con người Việt Nam dù là trong thời bình hay trong thời chiến.
Nguyễn Trãi đã liệt kê đầy đủ các chiến công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo tài tình của chủ tướng Lê Lợi: chiến thắng ở Bồ Đằng, Trà Lân, Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Mã An, Chi Lăng…
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng bại trận
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng đầu bị cụt
Ngày hai mươi lăm, bá tước Lương Minh thất bại tử vong
Ngày hai mươi tám, thượng thư Lý Khánh và kế tự vẫn”.
Quân địch đã thất bại một cách ê chề dưới tay quân và dân ta, phải tìm đến cách kế tự vẫn. Trong vòng chưa đầy một tháng, nước Nam đã giải phóng khỏi bóng dáng quân thù.
Thông qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3, chúng ta thấy Nguyễn Trãi đã chia phần này thành ba phần khác nhau nhưng có sự liên kết. Điều này mô tả một cách chân thực nhất diễn biến của cuộc khởi nghĩa, từ chuẩn bị ban đầu cho cuộc kháng chiến, lên kế hoạch và chiến lược cho đến khi cuộc chiến bắt đầu, và những thành tựu oanh liệt của quân và dân ta. Cuối cùng, niềm kiêu hãnh tự hào sâu sắc về tinh thần quật cường, vượt qua mọi khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn. Chúng ta đã buộc quân Minh xâm lược phải nhận thất bại ê chề, hoảng sợ và chạy trốn về phương Bắc, giải phóng nước Nam khỏi bóng dáng quân thù. Những dòng thơ cuối cùng như một lời khẳng định mạnh mẽ, một cách rõ ràng rằng giang sơn đã thuộc về chúng ta:
“Từ đây, xã tắc vững vàng
Giang sơn từ đây đổi mới…
Thông tin được lan tỏa rộng rãi
Mọi người đều biết”
Bản tự sử 'Bình Ngô đại cáo' phần 3 của Nguyễn Trãi giúp ta hiểu sâu hơn về cuộc chiến chống quân Minh của dân tộc. Với bút pháp tinh tế, lập luận sắc bén, Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học 'Bình Ngô đại cáo' vĩ đại, xứng đáng với danh xưng là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam. 'Bình Ngô đại cáo' trở thành biểu tượng hào hùng của lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến chống lại quân Minh xâm lược.