Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi bao gồm 13 bài văn mẫu khác nhau cực kỳ hay cùng với gợi ý về cách viết chi tiết. Điều này sẽ giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình độ văn học của mình với những bài văn mẫu hay gần gũi với chương trình học.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo phần 2 cực kỳ chất lượng dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để mở rộng vốn hiểu biết văn học của mình thêm phong phú và làm văn một cách sáng tạo. Hãy đọc kỹ từng đoạn văn, từng bài văn, rồi suy nghĩ, tham khảo, không chỉ đơn giản sao chép. Đồng thời, để hiểu rõ hơn về nội dung của tác phẩm, bạn cũng có thể tham khảo phân tích phần 1 của Bình Ngô Đại Cáo.
Phân tích phần 2 của bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
- Dàn ý phân tích phần 2 của bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
- Sơ đồ tư duy phần 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Phân tích phần 2 của Đại cáo Bình Ngô một cách ngắn gọn
- Bình ngô Đại Cáo phần 2
- Phân tích phần 2 của Bình ngô Đại Cáo
- Phân tích phần 2 của Đại cáo Bình Ngô
- Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo một cách ngắn gọn
- Phân tích đầy đủ phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo
Dàn ý phân tích phần 2 của bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
1. Bắt đầu Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm và phần cần phân tích
- Đưa ra một số thông tin về bối cảnh lịch sử liên quan đến tác phẩm
2. Nội dung chính của Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo
Đoạn đầu của tác phẩm khẳng định ý niệm nhân nghĩa mới mẻ là nền tảng để xác định chủ quyền độc lập của dân tộc. Ý niệm này phản ánh từ thực tế của đất nước, được Nguyễn Trãi tóm tắt một cách tổng quan và sâu sắc như một lẽ chân lý. Chính nhân nghĩa này là phản kháng lại sự xâm lược của quân địch, chỉ có như vậy mới phơi bày được chiến lược gian lận của chúng như tác giả đã trình bày ở đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về tội ác của Giặc Minh, tố cáo những chủ trương cai trị tàn ác của họ:
- Tàn ác giết người vô tội
- Bóc lột dã man, thu thuế quá đáng, áp bức dân chúng,…
- Hủy hoại môi trường sống
⇒ Tội ác trời cao, bọn giặc thiếu nhân tính
- Có những tội ác của kẻ thù mới làm cho ý niệm nhân nghĩa mà tác giả đề cập trở nên trọng đại hơn. Vì:
- Chủ quyền độc lập của chúng ta là một điều tự nhiên, đã có từ trước, đã là bản sắc của dân tộc
- Khẳng định chủ quyền giống như các dân tộc khác là chúng ta có văn hóa riêng, lịch sử riêng, những anh hùng thời xa xưa chưa bao giờ thiếu vắng.
- Nền văn minh của chúng ta đã tồn tại từ hàng nghìn năm qua: đây chính là yếu tố chủ yếu để xác định chủ quyền của dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng cố gắng phủ nhận sự thật rõ ràng này.
- Nguyễn Trãi đã tiếng lên sự gian dối của kẻ thù và rõ ràng chỉ ra kế hoạch cướp nước của chúng. Chúng sử dụng chiêu bài 'Phù Trần diệt Hồ' để che đậy mục đích thật sự là cướp đoạt nước ta.
- Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là cực kỳ tàn ác và dã man.
- Đối diện với nỗi đau, sự khó khăn và đau đớn của nhân dân, tác giả cảm thấy đau xót và căm hận tội ác của kẻ thù, đồng cảm và tiếc nuối trước những đau khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng.
- Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự bẩn thỉu của chúng ngang ngửa nước Đông Hải. Sử dụng từ vô hạn để diễn tả, tội ác của chúng vô cùng không thể nào diễn tả hết, không thể nào chứa đựng được.
3. Kết thúc Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo
- Tóm tắt ý nghĩa của tác phẩm và suy ngẫm cá nhân
- Xác nhận lại tội ác không thể phủ nhận của giặc Minh và sự thông minh của Nguyễn Trãi trong việc phơi bày tội ác của kẻ thù để xác nhận quyền tự do cho dân tộc
Sơ đồ tư duy phần 2 Bình Ngô Đại Cáo
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo một cách súc tích
'Bình Ngô Đại Cáo' là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Trãi. Ông sáng tác bản cáo trạng này vào mùa xuân năm 1428, đại diện cho Lê Lợi tuyên bố chiến thắng trước quân Minh xâm lược. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án rất mạnh mẽ, lên án tội ác không thể tha thứ của bè lũ phản quốc, kẻ cướp nước. Hãy cùng phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo để hiểu rõ hơn về điều này nhé!
Trong phần đầu, tác giả tự hào, hãnh diện, tuyên bố với thế giới và dân tộc về lịch sử vinh quang xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông khẳng định quyền tự do văn hóa, lãnh thổ của cả nước, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi thời điểm. Tại sao lại phải xâm lược và cướp bóc lẫn nhau? Nhờ vào cách tiếp cận đó, khi chuyển sang phần hai, tác giả diễn đạt ngay nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến giữa Đại Việt và nhà Minh:
Gần đây:
Gia tộc Hồ gây rối
Khiến lòng dân oán hận
Quân Minh tận dụng cơ hội tạo loạn
Bọn ác bán nước đòi vinh quang”
Phân tích sâu về đoạn 2, rõ ràng thấy, dù chỉ trong 5 câu thơ ngắn nhưng tác giả đã miêu tả được toàn bộ cảnh xã hội rối ren vào thời điểm đó. Các lãnh đạo, quan lại của đất nước đang bị lợi dụng, mềm yếu, tham lam, phân chia, gây ra sự oán giận trong dân chúng. Trong khi đó, quân Minh đã lợi dụng cơ hội lâu dài, tấn công để tạo ra sự hỗn loạn. Sự hỗn loạn này kết hợp với những phe phái bán nước và cướp nước đã đặt Đại Việt vào thế thống nhất. Nguyễn Trãi, một nhà chính trị lỗi lạc, lập luận của ông rất sắc bén và hợp lý.
Bài thơ này đã rõ ràng thể hiện kế hoạch xâm lược của quân Minh và bọn phản quốc bán nước đòi vinh quang.
Do đó, Đại Việt đang gặp nguy. Bọn phản quốc, kẻ cướp nước đã tàn phá dân chúng, gây ra nhiều tội ác. Sau khi chiếm đóng đất nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm với những chính sách vô cùng tàn bạo và tàn nhẫn.
“…Đốt nhà dân trên ngọn lửa tàn bạo
Chôn con cái xuống dưới lòng đất
Áp bức nhân dân
Làm tan nát cả ngành nghề nông nghiệp”.
Nhìn thấy cảnh bi thương của dân chúng, chính trị gia nhân từ Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Đoạn thơ dường như vừa phản ánh nỗi đau lòng vì đất nước của tác giả, vừa như những lời chỉ trích kẻ thù. Sự tàn bạo của họ không chỉ do con người mà còn là của tự nhiên. Dối trá, lừa dối dân chúng. Họ không chỉ cướp bóc của cải, sức lực con người mà còn tàn phá môi trường, tận diệt động vật, cây cỏ. Hơn nữa, họ còn trực tiếp giết hại những người vô tội. Những người dân gắn bó với ruộng đồng, hiền lành, đức độ. Nhưng họ lại bị chà đạp. Bằng cách liệt kê những tội ác của quân thù, tác giả như trút bỏ đi sự căm hận, thù oán. Cảm xúc đó cũng là của toàn dân Đại Việt lúc đó. Chúng ta chỉ muốn đứng lên chiến đấu, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo, ta càng nhận ra sự khéo léo trong việc sử dụng các kỹ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa suy đoán để vạch trần tội ác của bọn cướp. Nếu sống trong thời đại đó, trải qua bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc không khác gì súc vật, coi mạng người như rác rưởi.
Phân tích đoạn 2 của Đại Cáo là lúc người đọc cảm thấy rùng mình trước cảnh tang tóc của dân Đại Việt xưa. Tưởng chừng chỉ là một cảnh trong phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật được ghi nhận trong lịch sử.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự tàn ác của quân xâm lược không chỉ làm cho dân chúng thương xót mà còn khiến cả thiên nhiên, cả biển cả cũng căm ghét, không thể xóa sạch được mùi hôi. Với việc sử dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn – nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… tác giả nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông cũng đưa ra những vật liệu vô tri, vô tội để chứng minh rằng xen vào cuộc sống của người khác là tội lỗi không thể tha thứ. Ông càng chứng minh rằng, không chỉ con người mà mọi sinh vật trên đời đều có quyền sống.
Khi phân tích đoạn thứ hai, người đọc như được chứng kiến một bộ phim lịch sử đầy máu và nước mắt. Có những nỗi đau, mất mát của dân tộc không thể nào bù đắp được. Nhưng người đọc cũng cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của người dân Đại Việt. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn, trôi chảy trong từng câu chữ, hình ảnh, nhà chính trị Nguyễn Trãi một lần nữa mạnh mẽ lên án tội ác của kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi sống vì dân, vì nước, và cuộc đời ông là một hành trình của lòng nhân ái, đau đớn và trách nhiệm. Ông đã làm rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh và kể rõ những hành động độc ác của chúng trên dân tộc ta. Sự tồn tại của tên tuổi Nguyễn Trãi và đất nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là một nhà văn chính trị kiệt xuất thì Bình Ngô Đại Cáo là một tác phẩm bất hủ trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã ghi dấu của mình vào lịch sử dân tộc. Sự tồn tại của tên tuổi ông và đất nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là một nhà văn chính trị kiệt xuất thì Bình Ngô Đại Cáo là một tác phẩm bất hủ trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Nhà Minh huy động lực lượng hai mươi vạn bộ binh xâm lược nước ta, lấy lí do nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần. Trong hai mươi năm, chúng áp bức nước ta bằng nhiều chiến lược khác nhau.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Bọn giặc Minh, ấp ủ âm mưu xâm lược từ lâu, nhưng lại giả vờ sợ dân để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có lý do xâm lược. Trong lòng dân ta, oán hận ngập trời với 'Bọn gian tà bán nước cầu vinh', bán tự tôn dân tộc để tham lợi, mở đường cho giặc tàn sát. Đây là sự tàn bạo và bất nhân của chúng.
Từ khi giặc Minh xâm nhập, dân ta không có ngày nào yên ổn. Chúng tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức dã man. Sự bất nhân của chúng đã gây ra nỗi đau khôn nguôi trong dân ta trong suốt gần 20 năm.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không thể nào diễn tả hết:
“Thành phố giữa Nam Sơn vẫn chưa thể quên hết tội ác
Biển cả bên Đông Hải vẫn chưa thể rửa sạch hết mùi tanh”
Tác giả đã chọn trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để tả tội ác của kẻ thù, nhấn mạnh đến sự tàn bạo của chúng khi cắn xé dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả của chúng vô cùng đau lòng: mất mát gia đình, đau khổ của nhân dân.
Để nêu rõ tội ác của chúng, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, mô tả sinh động, giọng văn thay đổi linh hoạt, thể hiện cảm xúc từ căm phẫn đến đau đớn, xót xa cho nhân dân. Hai câu cuối kết án rất gay gắt:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai dám kêu trời chịu nổi?”
Tội ác của giặc Minh vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng đến mức không thể tha thứ. Tác giả thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù trong lập trường nhân nghĩa.
Trái ngược với khung cảnh đau buồn, khốn khổ đó, quân Minh lại hiện thân với hình ảnh hoàn toàn khác biệt “Miệng há mỉm cười, đầy bụng mỡ no say chưa đủ”, chúng ăn no, phung phí, ăn không đủ vài người, lại đi lần đến vài người khác. Kẻ thì bảo dưỡng côi cút lên người dân vất vả, xây dựng nhà cửa, còn chúng thì hung hăng ra tay đánh đòn, tước đoạt mà không hề có sự thương xót. Tác giả dùng những hiện tượng thiên nhiên vô tận như trúc Nam Sơn và biển Đông Hải để mô tả sự tàn ác của quân Minh, nhấn mạnh rằng dù có bao nhiêu thì cũng không đủ để ghi chép hết tội ác của chúng. Tội ác của quân Minh vô cùng nhiều, không kể xiết, vĩnh viễn lưu truyền trong lịch sử. Nguyễn Trãi bày tỏ sự căm phẫn, đau đớn khi hỏi: “Trời đất đã dung tha bao giờ? Ai dám nói thần dân chịu đựng được?” Ông tin rằng sẽ có người trừng trị kẻ thù ác, bởi trời đất đều biết, và quân Minh sẽ phải chịu trừng phạt xứng đáng cho tội ác mà chúng gây ra trên đất nước Đại Việt. Đây là một lời cảnh báo đầy đau thương và căm phẫn dành cho quân Minh, kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một phong cách văn học đầy bi thương, đau lòng, Nguyễn Trãi tiết lộ âm mưu xâm lược đất nước và tình hình tàn ác của quân giặc với dân tộc Đại Việt. Ông cũng thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của mình, lên án tội ác của kẻ thù và cảm thương cho số phận của nhân dân bị bất công. Phần hai của bài cáo có ý nghĩa như một lời buộc tội thẳng thừng dành cho kẻ phạm tội, cũng như là lời cảnh báo về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sắp tới.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, một tác phẩm nổi tiếng của chính trị gia và nhà văn, đã được viết vào mùa xuân năm 1428, đồng thời với lời tuyên bố chiến thắng trước quân Minh của Lê Lợi. Bài cáo không chỉ xác nhận sự độc lập và chủ quyền của Đại Việt mà còn là một bản án rõ ràng, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ bán nước và cướp nước. Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo giúp hiểu rõ hơn về điều đó!
Tác giả khẳng định sự kiêu hãnh và tự hào của dân tộc, kêu gọi đất trời và mọi người chứng nhận về lịch sử oai hùng của Việt Nam trong việc xây dựng và bảo vệ quốc gia. Ông cũng tuyên bố chủ quyền văn hóa và lãnh thổ của các triều đại Bắc Nam, từng nơi đều có anh hùng, từng thời đều có những người hào kiệt. Tại sao phải xâm chiếm, cướp bóc lẫn nhau? Điều này dẫn đến phần hai, tác giả giải thích nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Gần đây:
Người Hồ gây ra phiền toái cho dân
Dân ta oán hận trong lòng
Quân Minh tận dụng cơ hội gây rối
Bọn gian tà vẫn bán nước như thường”
Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo mới cho thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn, tác giả đã mô tả được toàn bộ tình hình xã hội đầy rối ren lúc đó. Là những người lãnh đạo, đứng đầu đất nước, họ yếu đuối, tham lam, gây ra lòng oán hận của dân. Trong khi đó, bên ngoài, quân Minh đã lợi dụng cơ hội gây rối. Sự lộn xộn kết hợp với bọn bán nước và cướp nước đã đẩy Đại Việt vào tình thế phải đấu tranh. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, lập luận của ông rất sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này là minh chứng cho âm mưu xâm lược của quân Minh và hành vi bán nước của bọn gian tà.
Vì lý do đó, Đại Việt đang gặp nguy hiểm. Bọn bán nước, cướp nước đang tàn phá dân, gây ra nhiều tội ác. Sau khi chiếm được nước ta, quân Minh đã áp bức Đại Việt trong 20 năm với các chính sách tàn bạo.
“…Dân ta bị đốt cháy trong ngọn lửa dữ dội
Con cái bị chôn vùi dưới đống ruồi bọ…
Nỗi đau của những người nông dân
Mọi công việc canh tác đều tan tác”.
Chứng kiến những cảnh bi thương của dân chúng, chí trị gia nhân từ Nguyễn Trãi đã rõ ràng khẳng định tội ác của quân giặc như là “Phá hoại đạo lý, hủy hoại tất cả mọi thứ”. Câu thơ này không chỉ thể hiện lòng thương xót của tác giả với dân chúng mà còn như lời chỉ trích sâu sắc đối với quân giặc. Hành vi tàn bạo của chúng không chỉ do con người gây ra nữa. Chúng dối trá, lừa dối dân chúng. Chúng không chỉ cướp cắp của cải và sức lao động của con người mà còn tàn phá môi trường, tiêu diệt cả cây cỏ và sinh vật. Hơn thế, chúng tàn sát dân đen, những con người vô tội, thiện lương. Những con người này, suốt ngày làm ruộng hiền lành, đức độ. Mà chúng vẫn không tha thứ. Với việc liệt kê liên tục những hành động tàn bạo của quân giặc, tác giả dường như đang thể hiện sự tức giận và căm thù đối với chúng. Tình cảm này cũng là tình cảm chung của toàn bộ dân chúng Đại Việt vào thời điểm đó. Họ chỉ muốn nổi dậy và đấu tranh chống lại kẻ thù.
Phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo, ta nhận thấy sự tài hoa trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc biệt để mô tả tội ác thâm độc của quân cướp nước. Chỉ khi sống giữa thời kỳ đó, hoặc lớn lên trong cảnh bạo ngược đó, mới thấy rõ rằng quân giặc không khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.
Một lần phân tích phần 2 của Bình Ngô Đại Cáo, độc giả sẽ cảm thấy kinh hoàng trước cảnh tượng thê thảm của dân chúng Đại Việt thời xưa. Người ta nghĩ rằng đó chỉ là cảnh trong các bộ phim cổ trang, nhưng thực tế lại là sự thật hiển hiện, được lịch sử ghi chép.
“Tàn ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Trái tim của mọi người đều đầy căm hận,
Thiên địa không dung tha”
Sự tàn ác không màng tới của quân xâm lược không chỉ khiến dân chúng oán thán mà còn khiến thiên nhiên phẫn nộ, ngay cả đại dương cũng không thể loại bỏ mùi bẩn, nguyên nhân từ việc này. Với việc sử dụng vế đối cân xứng,”tàn ác- bẩn thỉu”, “trúc Nam Sơn- nước Đông Hải”, “trái tim của mọi người- thiên địa”… tác giả dường như càng nhấn mạnh sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật vô tri vô giác như thiên nhiên vào để khẳng định việc tiêu diệt mạng sống của người khác là tội lỗi không thể tha thứ. Ông cũng chứng tỏ rằng, không chỉ con người mà mỗi loài sinh vật trong thế giới này đều có quyền được sống.
Trong việc phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo, người đọc có thể như đang thưởng thức một tác phẩm điện ảnh lịch sử đậm chất máu và nước mắt. Ở đó, đề cập đến những tổn thất đau đớn của dân tộc mà không thể bù đắp. Tuy nhiên, cũng để lại cho độc giả cảm giác kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Bằng lời văn sắc bén, hùng hồn, tuôn trào qua từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án mạnh mẽ tội ác của quân giặc.
Phân tích đoạn 2 của Đại Cáo Bình Ngô
'Văn chương không chỉ đơn thuần là cách để người đọc tránh xa hoặc quên đi; ngược lại, văn chương là một loại khí chất cao cả và quyền lực mà chúng ta có, để vừa lên án và thay đổi một thế giới giả dối và tàn bạo...' (Thạch Lam). Đúng vậy, văn chương chính là cánh tay mạnh mẽ của mọi giai đoạn lịch sử, để phơi bày sự giả dối của xã hội, lên án những thế lực tàn ác, và với tư cách đó, tác phẩm văn học cổ điển 'Bình Ngô Đại Cáo' ở đoạn thứ 2 đã phơi bày tội ác của quân địch một cách rõ ràng.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi luôn sử dụng từ ngữ sắc bén, logic và mạch lạc trong lập luận, ngay cả khi phê phán kẻ thù xâm lược, dòng lập luận vẫn rất rõ ràng. Trước hết, nhà văn chỉ ra động cơ đen tối và mặt tàn ác của quân địch:
'...Như đã từng nói: Người Hồ gây phiền não cho dân chúng Để lòng dân chứa đựng nỗi oán hận Bọn quân Minh dùng thế cơ hội gây ra tai ương Bọn ác nhân bán nước tìm kiếm danh vọng...'
Ngay từ những dòng thơ mở đầu này, người đọc cảm nhận ngay được âm mưu không thành của kẻ thù, đồng thời lộ ra được mặt giả dối, kế hoạch đầy mưu mẹo của quân địch. Chúng áp dụng chiến thuật xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với Trần Thiêm Bình là quân bài chủ chốt nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần để đô hộ nước ta. Những chính sách của chúng đều đầy dối trá, lừa gạt:
'Dối lòng lừa dân, ngàn kế cũng có Gây ra chiến tranh, kết oán lan tràn suốt hai mươi năm'
Nhờ vào ngòi bút sắc bén, đanh thép của Nguyễn Trãi mà chúng ta nhận ra được bản chất bất nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch tàn ác của chúng, tiếc rằng, công bằng không bao giờ ủng hộ những kẻ vô nhân, tội ác của chúng không có chỗ trốn tránh:
'Nhân nghĩa tan rã, đất trời vô duyên Thuế nặng, cống sạch, non sông cũng không còn nguyên vẹn'
Tuy nhiên, đau đớn hơn cả là tội ác mà chúng gây ra cho dân tộc, những người dân chịu nhiều nỗi đau khổ. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân không bao giờ trở nên dễ chịu, mà luôn đầy đau thương và căm phẫn như vậy:
'Nướng dân đen trên lửa hung tàn Đè dân con đỏ xuống hầm tai vạ...'
'Dân đen, con đỏ', những người dân lao động cật lực, suốt ngày lo làm ăn lương thiện, tận tụy với mảnh đất, với ngôi nhà và ruộng vườn của mình. Nhưng chúng ta đâu thể không chú ý đến sự bị đàn áp dưới gót giày dơ bẩn của chúng. Bằng hình ảnh nhân hóa và miêu tả đặc sắc, Nguyễn Trãi một lần nữa tiết lộ tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược hiện nay, đám quân cuồng dại, ham muốn quyền lực đến mức coi trọng sinh mạng con người như rác thải, sẵn sàng đàn áp, bóc lột, ăn thịt, uống máu không nương tay. Tội ác của chúng, dù qua nghìn năm, vẫn còn được ghi nhớ trong sử sách, không ai tha thứ. Hơn nữa, quân Minh còn cướp phá của cải, loài vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu xa hoa, thú vui xa xỉ của chúng, bằng cách ép buộc, trục xuất, đe dọa người dân phải chiến đấu vì sự sống còn:
'...Kẻ bị buộc phải lặn xuống biển tìm ngọc, chán ghét cá mập, lo sợ sự nguy hiểm'
'Người bị đưa vào rừng đào cát tìm vàng, nhưng phải đối mặt với nguy hiểm từ rừng sâu và nước độc:'
'Lấy trộm sản vật, bắt chim quý, vén lưới bắt bất kỳ nơi nào cũng được Quấy rối dân lành, bắt hươu quý, gài bẫy ở mọi nơi...'
Cách diễn đạt được sử dụng đặc biệt trong tình huống này, như muốn nhấn mạnh, như muốn thêm vào trang văn tội ác đầy máu, bẩn thỉu của lũ quân cuồng dại, không khác gì việc cầm thú lúc đó. Lời văn tả ra, như thể nhìn thấy sự căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xé toạc dưới gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác khủng khiếp của chúng, không chỉ khiến dân chúng than thở oán than, mà còn khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, muốn gào thét để tiêu diệt lũ quân này, để lấy lại công bằng:
'Độc ác vô biên, Trúc Nam Sơn không ghi hết tội ác.' Dơ bẩn vô kể, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…
Hai câu thơ, với cấu trúc đối xứng, nhà thơ phần nào thể hiện được tội ác không thể tha thứ, đầy bất mãn, tàn ác của quân xâm lược, đồng thời gợi lên một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc, những người bị đẩy vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh vô nghĩa.
Bằng lời văn sắc bén, hùng hồn hiện diện trong từng dòng thơ, lối viết của đoạn thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa tiết lộ sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa, tính cách độc ác của quân xâm lược.
Phản ánh đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc nổi tiếng của Việt Nam với nhiều đóng góp và sự hiến dâng to lớn để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu quê hương như một ngọn lửa luôn sáng cháy trong trái tim ông, phát triển từ thời kỳ mất nước để tạo ra Nguyễn Trãi với tâm hồn yêu nước mãnh liệt. Không chỉ thế, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng với tài năng văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu quê hương sâu sắc, những lý tưởng cao cả và đặc biệt là vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều này rõ ràng trong bài Bình Ngô đại cáo, đặc biệt là đoạn 2. Nguyễn Trãi đã lên án những tội ác mà quân Minh gây ra cho chúng ta. Bình Ngô đại cáo được coi là một tác phẩm văn học lịch sử nổi tiếng về việc ghi chép tội ác của giặc Minh. Tác phẩm được viết khi quân dân ta giành chiến thắng trong cuộc chiến với quân Minh, điều đó cho thấy tình yêu quê hương luôn đứng hàng đầu và sự căm thù đối với kẻ thù được thể hiện rõ trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Khi quân Minh xâm lược nước ta, chúng đã nghĩ ra những mưu mô đê hèn, lợi dụng tình thế của nhà Hồ để thừa thế xâm lược vào nước ta. Tình thế loạn lạc đã cho phép quân Minh thực hiện những âm mưu từ lâu. Quân Minh đã thực hiện chính sách khai thác nước ta trong gần hai mươi năm. Mục đích của chúng là tiêu diệt những gì quốc gia ta có về văn hóa và lịch sử. Ngay cả trẻ em đi học cũng không được tha thứ, điều này cho thấy quân Minh vô cùng tàn bạo và độc ác.
Nhưng dân ta chưa từng khuất phục, qua bao tháng ngày gian khổ, dù có mệt mỏi, có gục ngã nhưng vẫn đứng lên chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn chiếm đất nước ta, muốn thay đổi chính sách và muốn nước ta phải chịu sự thống trị của chúng. Ngày càng rõ ràng, tàn ác của quân Minh hiện hữu trong việc chúng bắt đầu lấy đi sức lao động của nhân dân, thậm chí còn hành hạ, tàn phá cả thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa tàn phá
Vùi con đỏ dưới hầm tai địch”
Những người dân vô tội nhỏ bé luôn phải chịu sự đàn áp, bóc lột nặng nề từ quân giặc. Họ càng yếu đuối, càng không có quyền lợi trong xã hội thì càng bị quân Minh đè nén, bóp ép. Tội ác mà quân giặc gây ra không thể được tha thứ. Hai câu thơ như một lần nữa khẳng định mạnh mẽ tội ác của quân Minh, đây cũng là lời kết án về hành động của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, nước Đông Hải được Nguyễn Trãi nhắc đến để làm nổi bật tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Kẻ xâm lược chỉ quan tâm đến hiện tại mà không suy nghĩ đến hậu quả sau này. “Trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” được Nguyễn Trãi nhắc đến để làm nổi bật tội ác của quân Minh lớn lao không thể kể hết. Chúng không biết đến tình yêu thương và ngay cả con người chúng cũng có thể hủy hoại, thì thiên nhiên xung quanh đã làm gì. Chúng tham lam, ích kỷ, khiến cho nhiều gia đình không còn trọn vẹn.
Chúng khiến nhiều người phải khổ sở, đất nước sống trong sự loạn lạc ngày qua ngày mà không có phút giây bình yên. Nguyễn Trãi đã dùng nghệ thuật liệt kê, đưa ra nhiều hình ảnh, dẫn chứng sinh động để người đọc hiểu được tội ác khủng khiếp của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết của đoạn trích là một lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Có ai nghĩ thần nhân chịu nổi không?”
Tội ác của quân Minh gây ra cho đất nước ta không thể kể hết, chúng đã khiến cho đất nước ta tan nát mất nhà, không bao giờ có thể tha thứ. Với lời văn mạnh mẽ, Nguyễn Trãi đã cho thấy sự oán giận không chỉ của ông mà còn của nhân dân ta thời đó dành cho quân Minh.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã truyền đi một thông điệp sâu sắc về lòng yêu nước của dân tộc. Ngay cả khi đối diện với những thử thách khó khăn nhất, dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục, họ đoàn kết với nhau để đánh bại kẻ thù và đem lại vinh quang cho đất nước.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo một cách súc tích
Một bài làm mẫu
Nguyễn Trãi đã được khắc họa trong bức tranh dân tộc. Dù số phận có làm chia cắt con người, thì thời gian không thể xóa bỏ những giá trị vĩnh cửu. Sự tồn tại của Nguyễn Trãi và vẻ đẹp của đất nước Việt Nam là bằng chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận vĩ đại của mọi thời đại, thì Bình Ngô đại cáo chính là một tác phẩm bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong lòng dân nước ẩn oán và hận thù
Quân giặc Minh cơ hội gây tai họa
Bọn tay sai bán nước theo đuổi danh vọng”
Dựa vào lý do nhà Hồ lấy ngôi của nhà Trần, quân Minh huy động một quân đội hai mươi nghìn binh lính xâm lược đất nước chúng ta. Chúng chia làm hai phần dọc theo con sông Hồng để tiến vào. Trong suốt hai mươi năm, chúng chiếm đóng đất nước ta bằng nhiều biện pháp, chiến lược khác nhau.
Nhưng nhờ tinh thần đoàn kết, tình yêu quê hương, chúng ta đã không để cho chúng chiếm đất nước. Lịch sử ghi lại tội ác của quân Minh và bài Bình Ngô đại cáo lại một lần nữa lên án chúng.
Nguyễn Trãi đã nêu rõ tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và mô tả những hành động tàn bạo của chúng. Chúng ương ngạnh chiếm đoạt tài sản của chúng ta – không chỉ là của vật chất, mà còn của sức lao động, nền văn hóa, thậm chí cả môi trường sống, đồng thời phá hoại sinh mạng con người và tự nhiên mà không có sự thương xót:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Đây là một hình ảnh cụ thể, tổng quan như một bản cáo trạng, một lời buộc tội đối với quân giặc. Dân đen là những linh hồn yếu đuối ở đáy xã hội. Họ là nạn nhân của tội ác mà quân giặc đã rải rác lên lãnh thổ của dân tộc ta. Chắc chắn hai câu thơ này được viết bằng máu và nước mắt của anh hùng dân tộc.
Chúng vơ vét của cải, tiêu diệt sinh mạng, tội ác của kẻ thù không thể diễn tả bằng từ ngữ:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả chọn trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để đề cập đến tội ác của bọn quỷ dữ thèm máu, chỉ muốn hành hạ dân ta đến tận cùng. Hậu quả chúng gây ra cực kỳ khốc liệt: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái phải chịu cảnh đau khổ, muôn loài đều bị tàn phá, dân ta chịu đựng khổ đau.
Để rõ ràng hơn về tội ác của chúng, tác giả dùng phương pháp liệt kê chọn lọc, sử dụng ngôn từ tường thuật sinh động, hình ảnh sắc nét, giọng văn biến đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Khi tỏ ra căm phẫn, khi thể hiện sự đau đớn, thương xót cho dân ta. Hai câu kết cuối cực kỳ mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của quân Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể tha thứ. Từ góc độ nhân nghĩa, đoạn văn là biểu tượng của máu và nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Nói ngắn gọn, đoạn thơ này là một lời cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của quân Minh trong hai mươi năm trên đất Việt.
Để đảm bảo sự thuyết phục và tính chất cô đọng, hàm súc của văn chương, Nguyễn Trãi đã kết hợp một cách hài hòa giữa hình ảnh trừu tượng và hình ảnh cụ thể, sống động.
Như vậy, bằng tài năng và trái tim của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho người đọc thấy rằng đây là một tác phẩm đáng tự hào, cần phải được người sau coi trọng, tôn vinh.
Bài viết mẫu 2
Được xem là tác phẩm vĩ đại của dân tộc, Bình Ngô đại cáo là một biểu tượng cho tình yêu nước và lòng căm thù sâu sắc với quân Minh. Tác phẩm này thể hiện tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, với sự yêu nước và lòng thương dân. Bằng cách khẳng định chủ quyền dân tộc và tư tưởng nhân nghĩa, tác phẩm mang lại cho độc giả cái nhìn chân thực về cuộc chiến chống lại quân Minh. Nguyễn Trãi chia tác phẩm thành 4 phần, trong đó phần phản ánh sự tàn ác của quân Minh trong suốt hai mươi năm chiếm đóng nước ta có vai trò quan trọng, gợi nhớ lại nỗi đau mất nước.
Bọn quân Minh cướp nước, âm mưu xâm lược từ lâu nhưng lại tìm cách bịp bợm thiên hạ với cớ 'phù Trần diệt Hồ', lừa dối nhân dân. Trong nước, lòng dân oán hận với 'bọn gian tà bán nước cầu vinh', mở đường cho quân Minh tàn sát. Dân ta chẳng có một ngày nào yên bình kể từ khi quân Minh xâm nhập, chúng tàn sát và sử dụng các phương tiện dã man để kiểm soát, biến dân thành nô lệ.
Hậu quả của cuộc chiến là môi trường bị tàn phá, chim muông cây cỏ mất đi, phụ nữ trở thành góa phụ, gia đình tan tác. Cảnh khốn khổ này là kết quả của việc bắt nhân dân tìm những thứ quý hiếm, dẫn đến việc hủy hoại môi trường và sự mất mát của cuộc sống yên bình ở nông thôn.
'Nặng thuế khóa sạch không đầm núi, người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.'
Những điều quý hiếm ấy không dễ tìm, người đi xuống biển sâu chết không lấy lại xác, kẻ đi vào rừng, núi gặp nguy hiểm. Chúng bắt nhân dân tìm những thứ quý hiếm như chim trả, hươu đen, gây hại cho môi trường và cuộc sống nông thôn.
Trái ngược với cảnh khốn khó, tàn ác ấy, giặc Minh hiện ra với hình ảnh 'thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán', chúng no nê phè phỡn, ăn không hết người không ra. Chúng áp đặt lên người dân công việc nặng nhọc, xây nhà, đắp đất không bao giờ xong, trong khi chúng đánh đập, bắt nạt mà không thương tiếc. Nguyễn Trãi so sánh sự tàn ác của quân Minh với trúc Nam Sơn và biển Đông Hải để nêu lên sự độc ác của chúng, và kết thúc phần hai của bài cáo bằng lời cảnh báo đầy căm thù: 'Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?'
Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu xâm lược và tàn ác của quân Minh đối với dân tộc, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân nghĩa và xót thương sâu sắc với nhân dân. Phần hai của bài cáo có ý nghĩa như lời buộc tội của quan tòa và là nguyên nhân trực tiếp cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Bài làm mẫu 3
Nguyễn Trãi, một trong ba danh nhân văn hóa được UNESCO công nhận, là nhà quân sự lỗi lạc và nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm và là tác giả của hai tác phẩm nổi tiếng, trong đó 'Đại cáo Bình Ngô' được xem như tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tác phẩm này không chỉ là biểu tượng cho tư tưởng tự chủ của dân tộc mà còn là lời cáo trạng tố cáo sự độc ác của quân Minh.
'Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi' - lời kết án đầy căm thù của Nguyễn Trãi đối với quân Minh, nhấn mạnh sự tàn ác và dơ bẩn của chúng.
Phần hai của tác phẩm vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng, qua những lý luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực.
Nguyễn Trãi đã phóng đại những điều bại hoại nhân nghĩa, luân lí mà giặc Minh đã làm qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Chính sử Việt Nam ghi lại những chính sách cai trị thâm độc trong ngót hai mươi năm đô hộ, nhiều đều dựa trên ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Đại cáo bình Ngô”.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa, bọn gian tà bán nước cầu vinh” - từng câu từng chữ như một nét mực châm phá bức tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, và sự xảo trá, nham hiểm của giặc Minh.
Tác phẩm tố cáo tội ác dã man của bè lũ xâm lược và bán nước, phản ánh sự xảo trá, “mượn gió bẻ măng” và nham hiểm của giặc Minh trong chiến lược xâm lược “phù Trần diệt Hồ”.
'…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn mưu kế, gây binh kết oán trải hai mươi năm…'
Từ đó, nhận thấy rõ sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa và sự xảo quyệt không lường của bọn xâm lược.
'…Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời, nặng thuế khóa sạch không đầm núi…'
Mục tiêu duy nhất của giặc Minh khi chúng đạp gót lên lãnh thổ Đại Việt là đô hộ, cai trị, âm mưu xóa sổ và thôn tính nước ta. Vì vậy, những điều ngụy biện của chúng không thể lừa gạt nhân dân Việt Nam.
Sau khi chỉ ra âm mưu và sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả liệt kê hàng loạt tội ác của chúng.
'…Nướng dân đen trên lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ…'
Không gì là quá tàn ác đối với quân xâm lược. Chúng tàn sát người vô tội để thỏa mãn sự hung ác của mình và âm mưu diệt chủng dân nước Nam. Chúng còn dìm cuộc khởi nghĩa vào bể máu và vơ vét của cải của nước Nam để thỏa mãn thú vui xa hoa của chúng.
'…Người bị ép xuống biển lặn tìm ngọc, kinh tởm cá mập, thèm lòi hàm răng...
Kẻ bị đem vào núi tìm vàng, khốn khổ rừng sâu nước độc...
Vét sản vật, bắt chim trả, mọi nơi gieo bẫy...
Tác giả tài tình khắc họa thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo của giặc Minh. Chúng không ngừng bóc lột sức lao động và vắt kiệt sinh khí của nước ta, tàn phá kế sinh nhai của nhân dân.
'…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc những kẻ góa bụa đau khổ...'
Sau đó:
“…Này xây tổ ấm, mai chăm sóc ruộng vườn, bàn tay nào phục vụ cho vừa
Nặng nề gánh phu quân
Tan tác cả công việc…”
Tất cả những tội ác của chúng được vạch trần và chứng minh bằng những bằng chứng xác thực, không thể phủ nhận, sau đó được đặt vào bối cảnh của sự đối lập giữa bọn giặc hung ác với những người dân bị chúng bóc lột, làm cho kiệt sức, và chảy máu nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ chưa no nê, chưa hài lòng…”
Làm hại nhân nghĩa, không ai tha thứ, trời cao không thể dung thứ, đất đai không chịu đựng là những từ ngữ dùng để mô tả về những tội ác đẫm máu của quân Minh trên lãnh thổ Đại Việt. Tất cả đều được bút sáng của Nguyễn Trãi ghi chép trên trang sử bằng giọng điệu nặng trĩu uất hận kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh kỳ vĩ và vô tận, tội ác đè nặng trong bản tuyên ngôn độc lập, là một tuyên ngôn về nhân quyền, vạch rõ sự hủy hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Có phải trời đất dung tha
Có ai nói được thân nhân chịu đựng…”
Tội ác không thể tha thứ, con người không thể dung thứ, đó thật sự là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Qua những phân tích đã trình bày, hậu thế có thể nhìn thấy rõ sự thảm khốc của chiến tranh, từ đó chúng ta phải cố gắng đấu tranh cho một cuộc sống tự do, vì hòa bình và chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Chúng ta cũng phải nỗ lực rèn luyện để xây dựng một quốc gia phồn thịnh, xứng đáng với những nỗ lực hy sinh của tổ tiên để bảo vệ non sông này.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, chúng ta thấy rõ sự tàn bạo, độc ác của kẻ xâm lược, được mô tả chi tiết nhờ vào tài nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Điều này cho thấy giá trị quý báu của việc bảo vệ và giữ gìn đất nước Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 hoàn chỉnh
Bài mẫu số 1
Tươi sáng như vì sao Khuê lung linh trong lòng, trong trái tim đam mê yêu nước - sâu sắc, sắc sảo đầy biến động trong chiến lược chính trị; nhẹ nhàng và thanh thoát, thơ mộng trong những câu thơ về tự nhiên, Nguyễn Trãi đã thể hiện bản thân vào bức tranh dân tộc. Định mệnh có thể khiến con người sinh tử song, thời gian không thể phai nhạt những giá trị vĩnh cửu. Tên tuổi Nguyễn Trãi cùng với đất nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều này. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính trị vĩ đại mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là kiệt tác bất hủ trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu lên lý do bảo vệ chính nghĩa, phần 2 phơi bày tội ác của kẻ thù, phần 3 kể về cuộc chiến gian khổ và chiến thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, xác nhận sự thành công của cuộc nghĩa quân. Bài viết sau đây sẽ làm rõ về tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.
Sau hơn 10 năm chiến đấu gian khổ và kiên cường, vào tháng 1 năm 1428, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng, Lê Lợi thưởng cho tướng lĩnh và lên ngôi hoàng đế chính thức, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo để thông báo cho toàn dân biết về chiến thắng cứu nước. Từ đó, dân tộc bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ hòa bình.
Đại Cáo Bình Ngô là tác phẩm của Nguyễn Trãi, là một bản tuyên bố rộng lớn về việc đánh bại giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc là giặc Ngô, giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập đến chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ hai là một bản cáo trạng sắc bén, vạch trần tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Sử dụng cơ hội khi nhà Hồ đổ nát, giặc Minh xâm lược nước ta, mong muốn chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi mô tả rõ ràng:
Đời Hồ gieo rắc bao phiền não,
Dân chúng trong nước oán hận vô vàn.
Quân Minh hung tợn lợi thế phong,
Bè lũ phản quốc, khao kát vinh danh.
Vào năm 1406, quân Minh dựa vào lý do nhà Hồ lấy ngôi của nhà Trần mà tổ chức 20 vạn quân đội và thủy binh, cùng với hàng chục ngàn dân phu dưới sự chỉ huy của năm tướng gồm Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng chia thành hai đội tiến vào xâm lược Đại Việt, đội thứ nhất dưới chỉ huy của Trương Phụ đi theo đường Bằng Tường, Quảng Tây và tiến vào Lạng Sơn; đội thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng xuống. Không chỉ thế, quân Minh còn sai người dụ vua Chămpa để cùng nhau đánh quân ta ở biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, trong 20 năm bị đô hộ bởi nhà Minh, chúng thực hiện mọi biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta, chúng phá huỷ những di sản văn hóa truyền thống của chúng ta, chúng muốn chiếm đóng lâu dài đất nước của chúng ta. Chúng còn đốt sách vở, thậm chí là sách giáo khoa của trẻ em và phá hủy bia đá. Ở đây ta lại thấy một lần nữa sự tàn bạo của giặc Minh với nhân dân Đại Việt lúc bấy giờ.
Tội ác mà quân Minh gây ra cho Đại Việt ta, tác giả khẳng định đó là 'Bại nhân nghĩa nát cả đất trời'. Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng thể hiện rất rõ, và điểm chung đều rất gian xảo và thâm độc. Chúng không còn chỉ là vơ vét mọi sản vật, sức người nữa mà chúng đã tàn phá môi trường sống, sát hại con người mà không biết đến nhân từ.
Dân đen nướng trên ngọn lửa tàn ác,
Con đỏ chôn xuống dưới hang tai ương.
Đọc hai câu thơ ấy, ta thấy hình ảnh cụ thể và khái quát về tội ác của quân giặc. Dân làng, những người bé nhỏ nhưng là nạn nhân trực tiếp của sự tàn bạo của giặc Minh trên quê hương. Điều này làm lộ ra tâm hồn nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết ra những dòng văn chứa đựng tinh thần nhân đạo giữa con người với nhau.
Thành Nam Sơn ghi mãi đau xót tội ác,
Đất Đông Hải không dứt sạch mùi hôi thối.
Chọn biểu tượng là Nam Sơn và Đông Hải, tượng trưng cho tội ác của lũ quỷ dữ như thằng há miệng, đứa nhe răng. Chúng và thú dữ là một, đều là loài động vật máu lạnh, không quan tâm đến nỗi đau khổ của con người mà chỉ biết tấn công. Hậu quả của chúng là tan nát gia đình, mất vợ chồng, con cái mồ côi, loài vật bị tàn phá, sản xuất đình trệ, nhân dân gánh chịu khổ đau.
Khi ấy, dân ta dũng cảm đứng dậy dưới cờ Lê Lợi để đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước.
Để nêu rõ tội ác của giặc Minh, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng hình ảnh phong phú, linh hoạt trong ngôn từ. Khi căm phẫn, tức giận với lũ giặc cướp nước; lúc lại đau xót, thương cảm cho nhân dân Đại Việt.
Hai dòng thơ cuối cùng là lời kết án cực kỳ nặng nề:
Thật không thể tha thứ đâu,
Cớ sao trời đất dung hòa?
Tác giả muốn nói rằng tội ác của quân Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ phải, hành động tàn bạo, đê tiện của chúng đã đến mức không thể tha thứ cho cả thần và người.
Đây là một bản tuyên án đanh thép về tội ác kinh hoàng của quân Minh trong 20 năm bá quân ta. Để tăng sức thuyết phục cho toàn bộ đoạn văn, tác giả đã sử dụng sự kết hợp hài hòa giữa hai hình ảnh trừu tượng và hình ảnh cụ thể, sống động.
Nhờ tài năng và trái tim của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo trở thành một tác phẩm văn học vĩ đại của dân tộc, không chỉ trong quá khứ mà còn ở hiện tại.
..............
Tải file tài liệu để đọc thêm phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo.