Văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử chọn lựa dàn ý chi tiết cùng 2 mẫu phân tích hấp dẫn, giúp học sinh lớp 10 tự học, nâng cao kiến thức về văn học và kĩ năng phân tích văn bản.
Mùa xuân chín là một tác phẩm xuất sắc được học trong chương trình Ngữ văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống tập 1. TOP 2 mẫu phân tích Mùa xuân chín cực chất với bài làm ngắn gọn và đầy đủ, giúp học sinh tham khảo, lựa chọn và chuẩn bị tốt cho học môn Ngữ văn.
Dàn ý phân tích bài Mùa xuân chín
I – Mở đầu
- Giới thiệu về Hàn Mặc Tử, một nhà thơ theo trào lưu Thơ mới và chủ nghĩa siêu thực.
- Tác phẩm “Mùa xuân chín” là một phần trong tập “Đau thương” (1938) của Hàn Mặc Tử.
II – Phần thân bài
1. Sự lưu huỳnh của nhân vật trữ tình
- Sự lưu huỳnh trong bài thơ được mô tả qua hình ảnh ngoại cảnh và tâm trạng, từ cảnh xuân đến tâm trạng xuân.
- Tiêu đề “mùa xuân chín”
2. Phong cảnh xuân
- Hàn Mặc Tử mô tả vẻ đẹp rực rỡ, tươi mới của thiên nhiên xuân đầy sức sống.
- Biểu hiện của sự đổi mới mùa xuân: ánh nắng ấm, khói mơ phảng phất, những mái nhà tranh, bức áo xanh, giàn thiên lý
- Biểu hiện sự kết hợp từ phong phú: ánh nắng ấm, khói mơ tan đi, những cỏ mượt mà, bóng cây xanh tươi
- Ứng dụng kỹ thuật lật ngược ý nghĩa “lửa nhẹ bay vấn vương áo xanh”
- Ẩn dụ sự thay đổi cảm xúc “bóng xuân sang”, “tiếng hót lộc non”
=> Khung cảnh làng quê bình yên, êm đềm nhưng ấm áp đong đầy tình thương.
3. Tình yêu xuân
- Hàn Mặc Tử thể hiện lòng nhớ nhà, khao khát kết nối với cuộc sống.
- Sự hân hoan của con người khi mùa xuân đến: “Ngày mai giữa bóng cây xanh ấy / Có người theo chồng bỏ cuộc vui”
- Tình yêu cuộc sống, khát khao giao hòa với tự nhiên: “Tiếng hót lộc non vang xa xăm / Rối bời như tiếng nước mây”
- Nỗi nhớ quê hương đầy cảm xúc: “Người xa gặp lúc mùa xuân chín / Trái tim vấn vương nỗi nhớ quê”.
4. Đặc điểm lôi cuốn, độc đáo của bài thơ
- So sánh “Mùa xuân chín” với thơ Đường, từ đó làm rõ tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ.
III – Phần kết
- Khẳng định giá trị thẩm mỹ, tư tưởng của bài thơ
Phân tích Mùa xuân chín
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có phong cách thơ độc đáo và đặc biệt. Ông để lại nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ 'Mùa xuân chín' là một minh chứng tiêu biểu, góp phần làm nên danh tiếng của ông.
Tựa đề bài thơ 'Mùa xuân chín' đầy ấn tượng, như có hương vị mềm mại, hương thoang thoảng của mùa xuân rực rỡ mà không thiếu sự đậm đà, ý nghĩa sâu sắc, kích thích sự tò mò, khám phá, thôi thúc chúng ta tìm hiểu sâu hơn về tác phẩm để khám phá sự 'chín' của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử.
'Dưới ánh nắng ấm áp, khói bay tan biến
Những mái nhà tranh phủ lớp vàng rực rỡ
Gió nhẹ nhàng thổi những chiếc áo xanh biếc
Trên giàn hoa thiên lý, bóng xuân tràn ngập'
Bức tranh mùa xuân ở làng quê thật thanh bình, dịu dàng và đầy tình yêu. Dưới ánh nắng nhẹ nhàng của bầu trời, làn khói tan biến xa xăm, tạo nên vẻ đẹp mơ màng nhưng thực tế, không quá chi tiết, chỉ với vài nét đậm nét nhẹ mà khiến con người không thể không ngạc nhiên trước cảnh sắc yên bình nơi đây. Trên những mái nhà tranh của làng quê nghèo phủ lên mình màu vàng tươi, cơn gió nhẹ nhàng thổi lá xanh biếc rung rinh, tất cả tạo ra một không gian êm đềm, đậm chất quê hương. Mùa xuân đang lan tỏa khắp nơi, trên giàn hoa thiên lý, báo hiệu mùa xuân đã đến, làm cho mọi thứ trở nên sống động, hòa quyện vào nhau:
'Cỏ xanh mơn mởn chạy dài đến chân trời
Những cô gái làng quê vui ca trên đồi;'
Mọi thứ đều tràn đầy sức sống của mùa xuân, làn mưa xuân làm cho cỏ cây tươi tốt hơn, xanh mơn mởn 'đến chân trời' như đang vui đùa cùng ánh nắng, cùng với gió và mây. Tiếng hát chào mừng xuân của những cô gái làng quê tràn đầy tình cảm, mùa xuân đã đến khiến cho mọi người đều hạnh phúc, phấn khởi, tâm hồn trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhẹ nhàng vang lên kèm theo lời ca:
'Ngày mai trong cảnh xuân tươi ấy
Sẽ có người bỏ hết mọi việc để theo chồng.'
Niềm vui của mùa xuân hòa quyện với niềm hạnh phúc của đôi lứa, và vào ngày mai trong đám cô gái thôn quê ấy, có người sẽ bước vào hôn nhân, bỏ lại sau lưng những niềm vui, có một chút tiếc nuối xen lẫn trong niềm vui ấy. Mùa xuân là thời điểm tươi vui của cuộc sống, gieo cho tình yêu những hạt giống ngọt ngào, là mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
'Tiếng hát reo vui dưới chân núi,
Rộn ràng như lời của mây trắng,
Thầm thì với ai ngồi dưới bóng tre,
Nghe lên từng nốt nhạc và từng câu thơ...'
Niềm yêu đời phản ánh qua lời ca thơ ngây thơ, trong trẻo, tinh nghịch của 'tiếng hát reo vui' dưới chân núi, hòa mình vào cảnh vật, vang lên mãi mãi. Những âm thanh như đang di chuyển theo nhịp thời gian, 'rộn ràng' 'thầm thì' với nhau đầy ý nghĩa, thân thiện. Tiếng thơ vang lên khiến người ta xao xuyến, bồi hồi đến lạ kỳ.
'Khách xa gặp lúc mùa xuân đã chín,
Lòng trí bồi hồi nhớ về quê nhà,
Chị ấy năm nay vẫn còn vác thóc
Dọc bờ sông, nắng trắng rọi chang chang'
Nếu ở khổ thơ đầu tiên là hình ảnh của cỏ cây tươi tốt, thì ở đây là hình ảnh đối lập khi mùa xuân đã chín, không còn mộng mơ như lúc đầu nữa, nó mang màu sắc của sự tiếc nuối, của nỗi buồn ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: 'Dọc bờ sông, nắng trắng rọi chang chang'. Vần 'ang' cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng phức tạp khó diễn đạt, như nỗi lòng của một người phụ nữ đang suy tư, trĩu nặng nỗi buồn về số phận của mình:
'Năm nay, chị ấy vẫn vác gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng rọi chang chang'
Nếu ngày xưa, trong tuổi xuân, nhịp điệu của mùa xuân cùng với những tiếng hát của cô gái rộn ràng, thì giờ đây, khi mùa xuân đã chín, xa lìa màu xanh tươi của mùa xuân năm nào, 'chị ấy' đã trở thành một người phụ nữ, với những lo toan của cuộc sống. Trách nhiệm của người mẹ, người vợ trở nên nặng nề hơn, nhưng dù gian khổ, vất vả, vẻ đẹp của bà vẫn tỏa sáng.
Bài thơ rất nhẹ nhàng, ngôn từ dù đơn giản nhưng được lựa chọn rất tinh tế bởi nhà thơ. Mỗi câu thơ mang lại một biển cảm xúc, từ lòng thương yêu, nhớ nhung về quê hương đến những gian nan, khó khăn. Với ngôn từ sắc sảo kết hợp với tấm lòng nhân hậu của thi sĩ, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một bức tranh 'mùa xuân chín' tròn đầy, phong phú.
Phân tích về bài thơ Mùa xuân chín
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nói: “Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng thơ vang lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Đúng là vậy, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn cảm nhận được sự yêu đời, sự khát khao sống. Và trong đó, bài thơ 'Mùa xuân chín' cũng không ngoại lệ. Bài thơ này được rút từ tập thơ “Đau thương” (1938) - được coi là 'tiếng thơ trẻ thơ' nhất của Hàn Mặc Tử, trẻ trung nhưng đầy ẩn ý, đau thương.
“Mùa xuân tươi mới” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính sự nổi bật của nó. Khi đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn cảm nhận được sự u mê, mơ màng, bí ẩn, buồn thương và đau đớn với những hình ảnh đặc trưng như “máu”, “trăng” và “rượu”. Tuy nhiên, “mùa xuân tươi mới” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Tươi mới” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng tràn và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân tươi mới” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Dòng thơ là dòng tâm tư không dứt, với những thay đổi bất ngờ. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong khoảnh khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp hiện ra trước mắt, đột nhiên bỗng nhớ về quá khứ xa xưa với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (nhà tranh, gian thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,...) biến thành tâm cảnh (người con gái đánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã thể hiện dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương đắm chìm. Có thể thấy, dòng thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của thi sĩ Hàn.
Bài thơ bắt đầu là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấp lánh vàng
Sột soạt gió trêu tá áo biếc
Trên gian thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung nhưng làn khói sương như đang tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấp lánh vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tá áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tá áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “gian thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ góc nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử mở tầm mắt ra xa với cái nhìn xa cảnh. Không gian mùa xuân được mở rộng với “đợt sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuồn cuộn từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái nao núc trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì thế, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ứng của nắng phải chăng chính là đôi má ứng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt ve lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoá trong trạng thái “vắt ve”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt ve lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hỗn hợp như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe thấu ý của vị và thơ ngây”
Câu thơ phản ánh tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, chia sẻ, con người có thể lắng nghe được những “ý của vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn niều giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp khi mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sức nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ươm, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tả áo biếc và nhớ cả gian thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chứa chấp nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phê phán. Đó có thể là một người lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong hình ảnh lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi ức của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hòa hợp của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như nét bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phản phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nghĩp 4/3. Thất ngôn và ngắt nghĩp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy nét bút của Hàn Mặc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe thấu ý của vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ của Hàn Mặc Tử thể hiện một thế giới tâm hồn sâu thẳm với những biểu cảm phong phú. Đọc bài “mùa xuân chín”, ta cảm nhận được sự tươi đẹp của mùa xuân, đầy sức sống, tràn đầy tình thương và kỷ niệm về cuộc sống và quê hương. Đặc biệt, tác phẩm phản ánh sự khát khao giao lưu với cuộc sống, trân trọng cái đẹp và ý thức giữ gìn những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Sự khao khát ấy được thể hiện rõ qua những tác phẩm của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, vẫn còn âm vang đến ngày nay.