Soạn văn bản nghị luận phân tích và đánh giá một tác phẩm thơ gồm 6 mẫu đặc sắc kèm theo 2 gợi ý viết chi tiết. Với 6 bài phân tích tác phẩm thơ độc đáo dưới đây được soạn rất tốt với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, giúp học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học.
TOP 6 mẫu phân tích và đánh giá một tác phẩm thơ các bạn học sinh có thể chọn lựa cho mình một cách tiếp cận, một phong cách văn thích hợp, để sau này trở thành kiến thức chủ quan của bản thân. Dưới đây là 6 bài phân tích đánh giá một tác phẩm thơ hay nhất mời các bạn đọc.
Phân tích và đánh giá bài thơ Mùa xuân chín
Dàn ý phân tích bài thơ Mùa xuân chín
1. Giới thiệu
Bài thơ 'Mùa xuân chín' là một ví dụ điển hình, góp phần tạo nên uy tín của Hàn Mặc Tử.
2. Nội dung chính
- Những dấu hiệu chuyển mùa xuân:
- Tia nắng vàng
- Mây trôi
- Mái nhà tranh dưới những cành hoa thiên lý
-> Sự yên bình, đẹp đẽ, và đầy tình yêu thương
- Phong cảnh nông thôn tươi mới trong mùa xuân:
- Làn mưa xuân tạo sức sống mới
- Cỏ xanh mơn mởn 'vươn tới trời'
- Niềm hạnh phúc của con người khi xuân về
- Hạnh phúc của đôi trẻ
- Âm nhạc thơ mộng khiến lòng người rung động và hoài niệm
=> Xuân mang hương vị 'chín' của trái tim, của cuộc đời
3. Tổng kết
Lời văn đã kết tinh với tấm lòng lớn lao của nhà thơ, Hàn Mạc Tử đã sáng tác ra một 'mùa xuân chín' tròn đầy, chân thực và tình cảm.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 1
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,...) thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín - Phiên bản 2
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có phong cách đặc biệt và độc đáo. Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên và Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ 'Mùa xuân chín' là một ví dụ tiêu biểu, đóng góp vào sự nổi tiếng của ông.
Tiêu đề 'Mùa xuân chín' rất ấn tượng, tạo ra cảm giác mềm mại và hương vị rực rỡ của mùa xuân, đầy ý nghĩa sâu sắc. Điều này khiến ta muốn khám phá nội dung của tác phẩm để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của 'chín' trong mùa xuân theo tư duy của Hàn Mặc Tử.
'Dưới ánh nắng nhẹ nhàng, khói mơ tan biến
Những mái nhà tranh lấm tấm vàng mơ màng
Gió nhẹ thổi qua áo biếc đẹp thơm
Trên giàn thiên lý, bóng xuân lung linh'
Hình ảnh mùa xuân ở nông thôn hiền hòa và dễ thương. Dưới ánh nắng nhẹ nhàng của bầu trời, khói như tan biến mơ màng, tạo nên cảnh vật nhẹ nhàng nhưng đằm thắm. Trên những mái nhà tranh, màu vàng như mơ màng, gió nhẹ đưa lá xanh đẹp thơm bay lượn, tạo nên âm thanh mê hoặc. Mùa xuân đang hiện diện khắp nơi, từ cây cỏ, thiên nhiên đến lòng người, tất cả hòa quyện với nhau tạo nên bức tranh tươi mới.
'Sóng cỏ xanh tươi vỗ lên bờ trời
Các cô gái thôn quê hát vang trên đồi;'
Mọi vật đều tràn ngập sức sống xuân, cơn mưa xuân làm cho cây cỏ thêm xanh tươi 'vỗ lên bờ trời' như đang nhảy múa cùng ánh nắng, gió và mây. Tiếng hát của các cô gái thôn quê chào đón mùa xuân đầy tươi vui, tình cảm, khiến ai cũng hân hoan, phấn khích, lòng tràn đầy sự trẻ trung và yêu đời. Âm nhạc vang lên cùng những lời ca:
' Ngày mai trong bữa tiệc xuân ấy
Có người bỏ cuộc chơi để theo chồng.'
Niềm vui của mùa xuân hòa quyện cùng hạnh phúc của đôi lứa, và ngày mai trong buổi tiệc xuân ấy, có người quyết định lấy chồng, bỏ lại sau lưng những niềm vui, có chút hồi hộp và tiếc nuối trong lòng. Mùa xuân là thời điểm tuyệt vời để làm đẹp cuộc sống, tạo nên hạnh phúc và ngọt ngào cho tình yêu, mùa của niềm vui tràn ngập.
'Tiếng ca vang dội trong núi,
Lời hát như cánh nước mây,
Bày tỏ tình cảm dưới hàng trúc,
Nghe thấy niềm vui và sự ngây thơ...'
Niềm yêu đời hiện hữu trong những lời hát và bài thơ ngây thơ, tươi sáng, và đầy tính tinh nghịch 'tiếng ca vang dội' trên núi, hoà vào cảnh vật, âm nhạc vẫn vang mãi. Những âm thanh như đang phản ánh sự chuyển động của thời gian, 'hổn hển' 'thì thầm' với nhau đầy ý nghĩa, gần gũi. Tiếng thơ mang đến sự xúc động, lạ lùng và bí ẩn.
'Khách xa gặp nhau vào mùa xuân chín
Lòng trí nhớ nhà như muốn đứt mình
Chị ấy năm nay vẫn gánh vác những thóc non
Dọc bờ sông trắng nắng sáng long lanh'
Nếu ở đoạn thơ đầu tiên thể hiện hình ảnh của cỏ cây tươi xanh, thì đoạn thơ này lại thể hiện một bức tranh đối lập khi xuân chín, khi mà sự mộng mơ đã không còn, mang màu sắc của nỗi tiếc nuối và nỗi nhớ quê hương trong lòng: 'Dọc bờ sông trắng nắng sáng long lanh'. Câu thơ cuối cùng tạo ra một không khí u uất, khó tả, như một nỗi lòng đang lo âu, đầy tiếc nuối về số phận của người con gái:
'Chị ấy năm nay vẫn gánh vác những thóc non
Dọc bờ sông trắng nắng sáng long lanh'
Nếu ngày xưa, trong nhịp đời xuân trẻ, lòng mình hồn nhiên vang lên những khúc hát, thì giờ đây khi xuân đã chín, xa lìa nhịp đời xuân trẻ, 'chị ấy' bước vào cuộc sống của người phụ nữ, đầy gánh nặng và lo âu. Trách nhiệm của người mẹ, người vợ càng trở nên nặng nề, nhưng dù vất vả, mệt mỏi, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa sáng, rạng ngời.
Bài thơ thể hiện sự nhẹ nhàng, ngôn ngữ đơn giản nhưng được chọn lọc cẩn thận bởi nhà thơ. Mỗi câu thơ đều là một biểu tượng của tình yêu thương, nỗi nhớ về quê hương khó khăn và gian nan. Với từ ngữ và tâm hồn sâu lắng của mình, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo ra bài thơ 'Mùa xuân chín' đầy ý nghĩa và cảm động.
Phân tích và đánh giá về bài thơ 'Cảm xúc mùa thu'
Phân tích dàn ý của bài thơ 'Cảm xúc mùa thu'
1. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ: là một nhà thơ vĩ đại của Trung Quốc với những tác phẩm thể hiện hiện thực và cảm xúc, tâm trạng của nhân dân trong thời kỳ chiến tranh, đói kém, và lòng yêu nước và nhân đạo của ông.
- Tổng quan về bài thơ 'Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)': Đây là bài thơ đầu tiên trong tập 8 bài thơ 'Thu hứng' của Đỗ Phủ, thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với quê hương và đất nước.
2. Phần chính
a) Bốn dòng đầu: Khung cảnh mùa thu
* Hai dòng chính:
- Hình ảnh thơ cổ điển, là những hình ảnh dùng để mô tả mùa thu ở Trung Quốc: 'ngọc lộ', 'phong thụ lâm'
- 'Vu sơn Vu giáp”: là tên của những địa danh nổi tiếng ở vùng Quỳ Châu, Trung Quốc, vào mùa thu, khi khí trời âm u, mù mịt.
- “Khí tiêu sâm”: là hơi thu mát mẻ, có chút u uất.
* Hai câu chính:
- Hình ảnh đối lập, phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp), qua đó không gian được mở rộng ra nhiều chiều:
- Tầng xa: là ở giữa dòng sông thăm thẳm, nơi 'sóng vọt lên tận lưng trời'
- Tầng cao: Là miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đất.
- Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều tạo nên hình dung về không gian rộng lớn.
- Hình ảnh đối lập, to lớn: sóng – trào lên tận bầu trời (thấp – cao), mây – rủ xuống mặt đất (cao – thấp)
- Bốn câu thơ mô tả mùa thu u ám, tối tăm, hùng vĩ, mãnh liệt.
- Tâm trạng buồn bã và sự lo âu của nhà thơ trước hiện thực u ám, đầy bất an.
b) Bốn câu sau: Tình thu
* Hai câu phân tích:
- Hình ảnh biểu trưng, ẩn dụ:
- Hình ảnh hoa cúc: biểu tượng duy nhất của mùa thu
- Khóm cúc đã ra hoa hai lần: Có hai cách hiểu khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt, khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt.
- “Cô phàm”: Là phương tiện đưa tác giả về quê cũ, cùng lúc nhấn mạnh thân phận cô đơn, trôi nổi của tác giả.
- Sử dụng từ ngữ độc đáo, sâu sắc, tinh tế:
- “Lưỡng khai”: Nỗi buồn trải dài từ quá khứ đến hiện tại
- “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.
- “Cố viên tâm”: Tâm trí luôn hướng về quê cũ. Thân phận của kẻ xa quê, xa nhà luôn khiến lòng nhà thơ đau đớn vì nỗi nhớ quê
=> Hai câu thơ diễn đạt nỗi lòng da diết, dồn nén nỗi nhớ quê hương của tác giả.
* Hai câu chốt
- Tranh ảnh:
- Mọi người vội vã may áo rét
- Giặt áo rét sẵn sàng cho mùa đông
- Âm thanh: tiếng chày đánh vải
=> Tiếng chày đánh vải báo hiệu mùa đông đã đến, đồng thời là âm thanh của lòng người, thể hiện sự mong mỏi, chờ đợi ngày được về quê.
- Bốn câu thơ mô tả nỗi buồn của người xa quê, đầy nghẹn ngào, mong ngóng ngày trở về quê hương.
3. Tổng kết: Tóm lược giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Phân tích về Thu hứng
Tự nhiên, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đã lâu không còn là chủ đề mới mẻ trong thơ ca cổ. Tự nhiên qua từng thời đại dù được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau nhưng vẫn là tự nhiên của tâm trạng, là cảnh nhuốm màu cảm xúc. Cảnh vật thường được nhắc đến trong thơ là trăng, hoa, tuyết, vân… mùa thu có một vẻ đặc biệt. Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc Đỗ Phủ đã có bài thơ “Cảm xúc mùa thu” để thể hiện về mùa thu.
Đỗ Phủ (712 – 770) sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học và thơ ca, cuộc sống của ông luôn đầy khó khăn và bệnh tật. Ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ với nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử và tình yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho văn hóa Trung Quốc và nhân loại, Đỗ Phủ được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Bài thơ “Cảm xúc mùa thu” nằm trong chùm thơ tám bài mà Đỗ Phủ sáng tác vào năm 766, khi ông đang sống lang thang ở Quý Châu. Tứ Xuyên là một vùng đất núi non hiểm trở, cách xa quê hương mấy nghìn dặm. Sau mười một năm kể từ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp nhưng đất nước vẫn trong tình trạng kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh này đã kích thích cảm xúc bi thương, làm nền cho “Cảm xúc mùa thu”, một bức tranh mùa thu u tối, buồn bã, đồng thời là một bức tranh tâm trạng u buồn của nhà thơ khi đất nước chìm trong loạn lạc.
Bắt đầu bài thơ, tác giả tạo ra hình ảnh cảnh vật mùa thu trên núi rừng đẹp nhưng đầy tiêu cực, tĩnh lặng:
“Con đường quanh co lịch sử trải rộng,
Mây trắng tản bộ giữa cửa ngõ.”
(Rừng phong lung linh, núi mây phủ mịt mù,
Sóng nước nhẹ nhàng, gió lạnh tràn về.)
Chỉ với vài nét tinh tế, Đỗ Phủ đã tái hiện được vẻ đẹp của một chiều thu tại Quý Châu, từ một góc nhìn độ cao để bao quát toàn cảnh. Mỗi chi tiết xa gần, rộng hẹp đều được thu hẹp lại trong tầm nhìn nhạy bén của thi nhân:
“Con đường quanh co lịch sử trải rộng”
(Rừng phong lung linh, núi mây phủ mịt mù).
Trong thơ cổ của Trung Quốc, hình ảnh rừng phong thường được gắn với mùa thu, tượng trưng cho sự chia ly. Bên cạnh lá phong đỏ, hạt sương trắng như giọt lệ cũng là biểu tượng của mùa thu, khiến cho cảnh rừng phong trở nên buồn bã thêm.
Chuyển từ cảnh mùa thu ở rừng phong, tác giả chuyển sang cảnh thu ở núi non:
“Núi Vu, Hẻm Vũ khói lạnh mùa thu”
Nói đến Núi Vu, Hẻm Vũ, người ta nghĩ ngay đến cảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa, toàn cảnh bao phủ bởi hơi lạnh của mùa thu. Núi Vu, Hẻm Vũ là những điểm đất hiểm trở và hùng vĩ, được kể đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt hàng trăm dặm, núi nối núi ven sông, mùa nào cũng mây mù bao phủ. Ánh nắng khó có thể lọt qua vách núi tới lòng sông. Trong mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua bút thơ của Đỗ Phủ lại trở nên u ám, buồn bã hơn.
Cùng với đó là hai câu thơ mô tả cảnh nhưng từ góc độ thấp hơn:
“Ba lãng Giang kiêm thiên dũng,
Phong vân thượng tái địa âm.”
(Sóng dữ lòng sông thẳm,
Mây đùn cửa ải xa.)
Cảnh thu hiện lên qua hình ảnh con sông ở đỉnh nguồn với nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết và hình ảnh “mây đùn cửa ải xa”. Sóng dữ dội vọt lên tận đỉnh trời giữa lòng sông, trong khi mây trắng đè xuống thấp đến mức tưởng như đùn từ dưới mặt đất lên, che phủ cả cửa ải xa xôi. Cảnh vật không chỉ bi thương mà còn hoành tráng và dữ dội, tạo ra sự kết hợp đặc biệt trong phong cảnh của Vu sơn Vu giáp, vừa u ám vừa hùng vĩ.
Trước cảnh thư, Đỗ Phủ diễn tả tâm trạng của mình qua bốn câu thơ sau:
“Cúc tùng lưu cữu tha nhất lệ,
Chu cô nhất hệ hướng lòng quê.”
(Cúc đỏ chảy dòng lệ đãng trước,
Con thuyền vẫn chặt buộc tình nhà.)
Hình ảnh hoa cúc thường được kết nối với mùa thu. Đỗ Phủ thường nhắc đến hoa cúc, điều này không mới mẻ. Quan trọng là mỗi lần thấy hoa cúc nở, tâm hồn nhà thơ lại rơi lệ. Vì sao? Vì mỗi lần nhìn thấy cúc nở, ông lại nhớ về quê hương, đã hai năm rồi ông sống ở Quý Châu, xa nhà, xa quê. Hoa cúc làm xúc động lòng người thi sĩ, làm ông nhớ về những mùa thu ở quê cũ, khiến nỗi nhớ quê, nhớ nhà đầy nghẹn ngào trong lòng tác giả “Con thuyền buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ”.
Hai câu kết của bài thơ:
“Lạnh buốt tay kẻ đã thắt xiềng,
Bạch Đế thành, bóng chày giấc mộng.”
(Sự lạnh lẽo thúc đẩy kẻ vung đao giết,
Thành Bạch, bóng chày đánh lên bóng ác.)
Câu thơ bất ngờ vang lên tiếng chày đập vải trên bến sông, trong ánh hoàng hôn nhưng không đủ sức làm sôi động không gian mà lại làm nổi bật nỗi buồn mênh mông. Khí hậu thu lạnh lẽo như lời nhắc nhở mọi người rằng mùa đông đã đến, cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho việc may áo ấm nhưng cũng làm nhà thơ chạnh lòng suy nghĩ về những người lính cương quyết tại quan ải. Âm thanh của mùa thu vừa là kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi nhớ mênh mang... 'Tận cùng nghĩa không đến cùng' (hết lời mà ý không hết).
Việc viết về mùa thu của thiên nhiên cũng là nhà thơ đang tả một buổi chiều thu cụ thể ở vùng Quý Châu trong giai đoạn suy tàn của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh không ngớt, Đỗ Phủ đi khắp nơi và nuôi hi vọng mong manh được trở về quê hương cũ. Ước mơ đó cũng chính là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Hàm ẩn sau những câu thơ thu là một tâm hồn đau khổ, thương đời, thương người của Đỗ Phủ. Chính nỗi lòng đó đã tạo ra thơ Người, gần gũi và sống cùng chúng ta.
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu
Đỗ Phủ là một nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những bài thơ phản ánh cuộc sống thực tế và thể hiện cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước thực tế cuộc sống của nhân dân trong chiến tranh, trong cảnh nghèo đói, bao gồm tình yêu nước và lòng nhân đạo. Trong số những bài thơ nổi bật, bài Thu Hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ đầu tiên trong bộ tám bài được Đỗ Phủ viết vào năm 766, khi ông đang lang thang ở Quý Châu. Thu Hứng (Cảm xúc mùa thu) không chỉ là bức tranh mùa thu ảm đạm, lạnh lẽo, mà còn là bức tranh tâm trạng u sầu nặng nề của nhà thơ trong bối cảnh đất nước đang rối loạn; lo lắng cho tình hình đất nước bị rối loạn, loạn lạc; nhớ nhà xa xôi và thương tiếc cho tình cảnh bất hạnh của mình ở một nơi xa lạ.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là 'câu đề' để miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la mà đầy nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Đỗ Phủ đứng ở vị trí cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì vậy tầm nhìn của ông rất xa, rất rộng. Mọi thứ được mô tả không chỉ theo chiều sâu mà còn theo tầm nhìn của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ hiện lên từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang màu đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu đầu miêu tả cảnh thu ở rừng phong, câu sau tả cảnh thu ở núi non. Dù cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với cùng một tâm trạng – tâm trạng buồn thương đậm đặc. Hai câu thơ này chung một điểm, đó là nỗi buồn dần chìm vào tâm hồn tác giả, nỗi buồn chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc khi ông ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng đó, Đỗ Phủ đã viết những câu thơ tiếp theo đầy ám ảnh, như có sức hút khó cưỡng.
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Hai câu đầu miêu tả cảnh thu ở trên cao (rừng phong, dãy núi), hai câu tiếp theo là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu này như bổ sung cho nhau, lột tả hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Hình ảnh mây trắng sà xuống che lấp cả cửa ải phía xa xa khiến tác giả nhớ quê hương.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ thể hiện lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu kết hợp cảnh thu và tình thu.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
Như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hoa cúc cũng thường được nhắc đến khi nói đến mùa thu. Mỗi khi cúc nở hoa, tâm hồn nhà thơ lại tràn ngập nỗi buồn. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi mang ý nghĩa sâu sắc, là biểu tượng của ước vọng trở về quê hương.
Hai câu cuối bất ngờ tạo nên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong hoàng hôn. Âm thanh này không chỉ đem đến chút vui nhẹ mà còn mở ra nỗi buồn và mong đợi trở về quê hương của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung vào tả cảm xúc và mong ngóng trở về quê nhà, thể hiện nỗi buồn của người xa quê, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Bài thơ có cấu trúc chặt chẽ, thể hiện đầy đủ cảm xúc và tình hình mùa thu thông qua các yếu tố như sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu và tiếng chày đập vải.
Bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ là biểu tượng của thơ trữ tình, thể hiện tâm hồn nhạy cảm và rung động với cảnh sắc. Trái tim của ông dành hết cho quê hương và tư tưởng yêu nước thương đời rõ ràng trong bài thơ này.
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu
Theo quy luật của Nguyễn Du, cảnh đẹp có thể không đem lại niềm vui nếu tâm hồn buồn bã. Đỗ Phủ đã biến mùa thu thành nỗi buồn, làm nức lòng những ai đọc ánh thơ 'Thu hứng' của ông.
Trong danh sách những nhà thơ xuất sắc nhất thời Đường, không thể không nhắc đến Đỗ Phủ, người được coi là 'thánh thơ'. Cuộc đời ông đầy đau khổ và lưu lạc, nhưng đó cũng là nguồn cảm hứng để ông tạo ra những tác phẩm vĩ đại như 'Thu hứng'.
Đỗ Phủ đã sống một cuộc đời lưu lạc tại Quý Châu, nơi có núi non hiểm trở. Bài thơ 'Thu hứng' thể hiện sâu sắc tâm trạng của ông về quê hương và nỗi lòng suy tư. Bốn phần của bài thơ này đề cập đến những suy ngẫm và kí ức của ông về mùa thu.
Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu ở vùng Quý Châu với núi, mây, và trời qua bốn câu đầu. Bốn câu sau thể hiện nỗi niềm của thi nhân trước mùa thu, nhưng thực chất là trước lòng mình và nghĩ về phận lưu lạc.
Phong phủ lá rừng vùng Quý Châu
Núi, mây hoá sương, trời ảo đầu.
(Rừng mơ mộng bướm bay tự do
Non cao hiu hắt gió thu loà.)
Trong thơ Đỗ Phủ, việc mô tả cảnh thu được thể hiện rất tinh tế và chân thực. Rừng phong chuyển màu đỏ, sương móc rơi như giọt lệ buồn khiến không khí trở nên u ám, tiêu điều hơn.
Cảnh mùa thu nhìn từ trên cao mang lại cảm giác xa lạ và cô đơn, tạo nên một không gian buồn bã và u tối trong lòng người.
Ở câu thứ hai, cái nhìn vẫn treo lơ lửng trên đỉnh núi. Ba từ “khí tiêu sâm” phát ra làm mọi thứ trở nên tối tăm khó lường. Bản dịch sử dụng hai từ “hiu hắt”, nhưng chưa đủ để thể hiện sự u ám, lạnh lẽo đó. Không gian bao phủ khắp Vu sơn, Vu giáp, làm cho núi, rừng, hẻm, đèo trở nên hiểm trở hơn bao giờ hết.
Cảnh núi non của Ba Thục hiện ra với nhiều tầng lớp, mây mù phủ kín cả núi rừng, liệu đó có phải là do mây tự nhiên hay tâm trạng u sầu của thi nhân đã tạo ra mây? Nhà thơ đã truyền tâm trạng u sầu của mình vào cảnh vật. Câu tiếp theo, cảnh vật vẫn lưu giữ màu sắc u tối của tác giả. Núi non khép lại, sông nước bát ngát mở ra:
Có sóng trời và lòng sông thẳm,
Mây đùn cửa ải xa xa.
(Trời sáo rợn, lòng sông sâu thẳm,
Mây trắng dày kín ải xa.)
Thi nhân giờ đây không chỉ thu cảnh vật vào lòng mà còn lồng ghềnh vào tâm hồn, từ đó tạo ra một bức tranh đầy mê hoặc và cảm động. Sự sâu thẳm và nỗi buồn bi thương của cảnh vật và con người được thể hiện rõ qua từng chi tiết mô tả. Con người cảm thấy nhỏ bé và bất lực trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên.
Về câu ba, mây mù lan tỏa khắp nơi: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Trước đây là sóng chạm trời, bây giờ là mây nối đất, cảnh vật chỉ có thể mô tả bằng hai từ “hùng vĩ”. Mây đặc như tiếp đất, vừa mô tả thực vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây che đi cả cửa ải, che đường về quê hương. Lòng người giờ đây cũng lẫn vào mây, cũng mập mờ khi nhìn về quê nhà.
Bốn câu đầu đã thể hiện được tâm hồn của cảnh vật. Khí thu ở đây vừa hùng vĩ vừa u tối của núi rừng, đơn độc, lẻ loi và mang màu u ám. Bức tranh vùng Quý Châu hiện lên trong tâm trí người đọc. Tác giả chỉ điểm chứ không mô tả, vì vậy sức hút càng mạnh mẽ hơn.
Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người thường là một. Cảnh núi non Quý Châu buồn đến vậy, liệu người ngắm có thể vui? Bốn câu sau mở ra bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân:
Khóm hoa cúc nở đầy nước mắt,
Thuyền buộc chặt mối tình quê nhà.
(Hoa cúc lưu luyến dòng lệ xưa,
Thuyền gắn bó với tình thân hữu.)
Đây có thể là hai câu thơ hay nhất trong toàn bộ bài thơ về mùa thu. Câu thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn thể hiện cảm xúc. Không còn là những đoạn văn ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của tự nhiên, tác giả quay về với hình ảnh khóm cúc trước mắt. Dùng cúc để gợi mùa thu, điều này không phải là mới mẻ trong thơ của Đỗ Phủ.
Tuy mùa cúc nở đẹp đẽ, nhưng trước mắt cảnh đẹp ấy, có lẽ chỉ có nỗi lòng bi thương của Đỗ Phủ. Hoa cúc nở rộ, nhưng trái tim người lại tan nát. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi quê hương của tác giả, khiến người ta nhớ về những mùa thu xưa? Từ cảnh đẹp này mà sinh ra nỗi đau, cúc cũng vì thế mà chảy lệ theo.
Tài năng của Đỗ Phủ nằm ở việc sử dụng hình ảnh để diễn đạt tâm trạng một cách sâu sắc. Trên bức tranh cúc, dưới dòng thơ, tác giả sử dụng hai chữ “cô chu”. Chỉ với hình ảnh con thuyền, đã đủ để gợi lên nỗi lưu lạc, nỗi nhớ nhung lắm rồi, chữ “cô” lại tạo ra cảm giác đơn độc, lạc lõng đầy xót xa.
Con thuyền mang nỗi lòng nhớ nhung, khao khát quay về, nhưng trước cảnh mây mù che phủ, không biết nó sẽ đi về đâu. Trái tim tác giả cũng bừng bừng như con thuyền cô đơn ấy. Bức tranh mùa thu chưa có động, chỉ có tĩnh mà chưa có động. Hai câu cuối, âm thanh vang lên như muốn thổi vào sự sống:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh giục kẻ sắc dao thước
Thành Bạch, chày vang ánh hào quang.)
Bóng chiều buông xuống, bao trùm cả cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Tiếng dao thước vá áo rét, tiếng chày vang giữa không gian chiều tà. Đó là âm thanh của cuộc sống nhưng nhỏ nhoi, không đủ để xua tan bầu không khí u ám và làm ấm lòng người.
Nó cũng đưa thi nhân về những người lính tại biên ải, loạn nước chưa dừng, chưa thể về bên gia đình. Tiếng đập vải trở nên chua chát. Cái lạnh của mùa thu bao trùm, cả tiếng chày giữa chiều tà. Âm thanh kết thúc bài thơ, để lại những suy tư cho hồn người đọc.
Bài thơ là hồn của cảnh vật và con người ở vùng Quý Châu. Thiên nhiên có đẹp, có hùng vĩ nhưng không làm lòng người phấn khởi. Vẫn là nỗi hoài niệm về chốn cũ, như một chiếc thuyền đơn độc lênh đênh hay tiếng đập vải giữa trời chiều. Đó là sự tài năng nghệ thuật trong cách sử dụng từ ngữ, tạo vế đối và đặt câu của Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ đã dùng trái tim để viết thơ, biến cảm hứng mùa thu thành những khúc nhạc của nhân loại. Thời gian có thể trôi qua, nhưng “Thu hứng” vẫn tồn tại ngoài sự hao mòn!
Phân tích Tuyển tập thơ hai-cư Nhật Bản
Nghe rằng: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, là nơi tìm đến của tinh thần, không đơn giản nhưng cũng không thiêng liêng... Thơ chân chính phải là nguồn dinh dưỡng tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn, không phải là loại ma túy tinh thần êm ái mà nguy hại”. Thực sự, nghệ thuật thơ sinh ra từ cuộc sống nhưng phát triển trong tâm hồn con người. Thơ nuôi dưỡng và giáo dục con người theo đúng cái nghĩa nhân văn của nghệ thuật. Thơ không chỉ là vẻ đẹp ngôn từ, mà còn là hạt giống của những điều tốt đẹp trong lòng độc giả. Thơ Haiku là một phần của truyền thống văn hóa Nhật Bản, đã tồn tại hàng thế kỷ và vẫn tiếp tục vang mãi qua thời gian.
Thơ là thể loại văn học phản ánh đời sống, “thi” và “nhân” gắn liền như một mối quan hệ không thể tách rời. Trong cuộc sống, thơ góp phần giáo dục và thức tỉnh ý thức con người với khả năng gợi cảm sâu và tạo ra những cảm xúc sâu sắc. Thơ Haiku, một phần của văn hóa Nhật Bản, chứa đựng triết lý nhân sinh và hình ảnh thiên nhiên phong phú dưới hình thức ngắn gọn, cô đọng.
Văn học Nhật Bản không chỉ đẹp về hình thức mà còn chứa đựng nhiều giá trị triết học sâu sắc trong thơ Haiku. Thơ không chỉ đơn giản là miêu tả, mà còn gợi hình ảnh và cảm xúc, mang lại sự nhẹ nhàng và hấp dẫn cho người đọc. Thơ Haiku góp phần làm phong phú và đa dạng văn hóa Nhật Bản.
Nhật Bản không chỉ là đất nước của những nét văn hóa truyền thống mà còn là nơi sinh ra những văn thơ ngắn gọn nhưng sâu sắc của Basho, Chiyô, Issa... Với văn hóa đa dạng và phong phú, thơ Haiku là một phần không thể thiếu trong hình ảnh của xứ sở mặt trời mọc.
Thơ Haiku có nhiều đặc tính độc đáo, và điều Bashô - một nhà thơ có công lớn trong việc hoàn thiện thơ Haiku - đặc biệt chú ý đến là sự tĩnh mịch, sâu xa không giới hạn của các hiện tượng tự nhiên, khi chúng được hiện diện một cách kỳ diệu và tinh tế. Cảm giác đó được gọi là Sabi - một tâm trạng cô đơn đặc biệt được Bashô thể hiện rất sâu sắc trong bài thơ:
“Trên cành cọ
Chim yến nghỉ
Chiều buông”
Bài thơ này giống như một bức tranh mùa thu với gam màu u ám, lạnh lẽo. “Cành cọ khô” và “chim yến nghỉ” dường như phản ánh đầy đủ những đặc điểm của một “chiều buông” u tịch. Lá cây thu rơi hết, chỉ còn lại vẻ gầy gò, khẳng khiu. Đó là không gian của chim yến nghỉ, với bóng tối và đôi mắt sắc lẹm. Giống như thơ của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta nghĩ đến một mùa thu lạnh lẽo, trong trẻo như trong câu:
“Ao thu lặng lẽ nước trong veo”
(Điếu thu - Nguyễn Khuyến)
Ở đây, Ba-sô hiện ra với một tình cảm khác, một bầu không khí thu vắng lặng, khiến lòng người ngập tràn cảm xúc u hoài. Dù vẻ bề ngoài mang nét u ám, nhưng tâm hồn không chứa đựng sự buồn chán hay bi ai.
“Mây vẫn bay, chim vẫn hót, trời đang u ám, lòng đang chia ly” - những từ này khắc sâu nỗi buồn trong trái tim.
Cảm nhận Sabi là trải nghiệm lớn lao, không chỉ là sự cô đơn và đau khổ cá nhân. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp đơn giản, tinh tế, và sự thanh nhã mà không cảm thấy u sầu.
Nếu nhắc đến Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến mặt trời mọc, kimono, và nền văn hóa thiền. Haiku như là biểu tượng cho sự thanh nhã và sâu sắc. Mỗi nền văn hóa đều có những đặc điểm riêng, không có sự so sánh giữa chúng.
Hoa triêu nhan trong thơ Haiku của Nhật được xem như một nghệ thuật tinh tế, khác biệt hoàn toàn so với triều đình Việt Nam. Bài thơ của nữ sĩ Chiyo là một ví dụ điển hình: “Ôi hoa triêu nhan, dây gầu vương bên giếng, đành xin nước từ nhà bên cạnh.”
Theo tinh thần Thiền, không chỉ con người mà cả thực vật cũng có thể hiểu được tâm tính Phật. Bài thơ này là biểu tượng của lòng từ bi Phật giáo và triết lý Thiền. Hoa triêu nhan, dù chỉ là cây leo, cũng được nhà thơ trân trọng và tôn trọng.
Bài thơ không cần giải thích, nhưng nó diễn đạt được nhiều hơn những dòng thơ ngắn. Đây chính là tinh thần của Thiền và là tình nhân văn của Phật giáo.
Một đóa triêu nhan nhỏ bé lại chứa đựng tình thương to lớn và cảm động. Sức sống mãnh liệt của nó là nguồn cảm hứng cho những bài thơ Haiku tuyệt vời.
Bài thơ của Issa với hình ảnh con ốc leo núi Phú Sĩ thể hiện sự kiên trì và quyết tâm của con người trong cuộc sống.
“Chậm rì chậm rì, kìa con ốc nhỏ, trèo núi Fuji” - một bức tranh tự nhiên đầy ý nghĩa trong bài thơ Haiku của Issa.
Belinxki, nhà phê bình văn học nổi tiếng, từng nói rằng nhà thơ cũng là nhà tư tưởng. Thông điệp sâu sắc và nhân văn trong bài thơ Haiku của nhà thơ Issa là minh chứng rõ ràng cho tuyên ngôn này.
Nhà thơ Issa qua bài thơ Haiku đã diễn đạt sự kiên nhẫn và nhân văn qua hình ảnh của chú ốc nhỏ, đồng thời tạo ra sự đối lập độc đáo và sâu sắc.
Bài thơ Haiku của Ba-sô với hình ảnh ếch nhảy vào ao và tiếng nước xa vọng lại một cách đầy ý nghĩa và tượng trưng.
Nhà thơ Issa đã tạo ra sự đối lập đặc biệt giữa cái nhỏ bé của chú ốc nhỏ và sự hùng vĩ của núi Phú Sĩ, thể hiện sức mạnh nội tại và khao khát vươn lên trong cuộc sống của con người.
Những bài thơ Haiku ngắn gọn nhưng sâu sắc và phong phú ý nghĩa đã tạo nên một nghệ thuật to lớn, đồng thời tôn trọng sự giản dị và đặc biệt của độc giả.
Nhà thơ rút lui nhanh chóng vì người đọc Nhật có sức tưởng tượng lớn.
Dù nhận xét của thi hào người Ấn có thể gây phản ứng, nhưng thực tế là bất kỳ ai cũng có thể thấu hiểu và yêu thích thơ Haiku.
Thơ Haiku đã trở về với đời sống như một người mẹ, mang trọng trách giáo dục và tái tạo xã hội.
Thơ Haiku Nhật Bản đã trở thành niềm tự hào của đất nước Phù Tang, lôi cuốn và ảnh hưởng rất nhiều người trên thế giới.
Thơ Haiku Nhật Bản vẫn thu hút độc giả bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc, là biểu tượng tinh thần của xứ sở hoa anh đào.