Phú sông Bạch Đằng được biết đến là một trong những bài thơ có cấu trúc đơn giản nhưng vô cùng lôi cuốn, với bố cục chặt chẽ và ngôn ngữ linh hoạt mang lại cảm giác hùng vĩ và bình yên. Sự kết hợp giữa yếu tố nghệ thuật và nội dung đã làm nên thành công của tác phẩm. Dưới đây là 3 bài văn mẫu phân tích sâu về giá trị nghệ thuật độc đáo của Phú sông Bạch Đằng, mời bạn cùng theo dõi.
Thảo luận về giá trị nghệ thuật độc đáo qua Phú sông Bạch Đằng
I. Khai quát
- Tổng quan về thể loại văn học thể phú: Xuất phát từ Trung Quốc cổ, thể loại văn này đã được nhập khẩu vào Việt Nam từ rất sớm, và từ thời Trần trở đi đã trở nên phổ biến.
- Giới thiệu vị trí quan trọng của tác phẩm: Bạch Đằng Giang phú được coi là tác phẩm nổi bật nhất trong thể loại văn học thể phú của Việt Nam thời trung đại.
II. Phần chính
1. Đặc điểm nghệ thuật của thể loại văn thể phú.
- Thể loại văn này thường kết hợp cả văn vần và văn xuôi
- Nó thường được sử dụng để mô tả cảnh vật, phong tục, kể chuyện, thảo luận về đời sống.
- Bố cục của nó thường bao gồm 4 phần: mở đầu, giải thích, bình luận và kết luận.
- Thể phú cổ thường không cần phải có phần đối chiếu và không nhất thiết phải kết thúc bằng thơ.
2. Sự thể hiện các giá trị nghệ thuật của thể loại văn thể phú qua tác phẩm “Bạch Đằng giang phú.”
a. Cấu trúc và bố cục
- Cấu trúc: Đơn giản nhưng chặt chẽ, tuân thủ theo lối kể chuyện đặc trưng của thể loại văn phú.
- Bắt đầu là sự giới thiệu của tác giả, hướng dẫn chúng ta đi theo cuộc hành trình của người khách và kết thúc tại sông Bạch Đằng, nơi người khách chia sẻ những quan sát và suy nghĩ về con sông.
- Tại đây, người khách gặp gỡ các bậc lão thành, được họ kể về những chiến công hào hùng trên dòng sông Bạch Đằng trong quá khứ.
- Cả hai bên thảo luận và bình luận về những chiến công đó.
- Bố cục theo đặc điểm của bài phú cổ gồm 4 phần:
- Mở đầu: Cảm nhận của nhân vật Khách trước sông Bạch Đằng
- Giải thích: Lời kể về những chiến công hùng tráng trên sông Bạch Đằng qua lời của các bậc lão.
- Bình luận: Nhận định, đánh giá của các cha anh về những chiến công đó
- Kết thúc: Suy ngẫm về lòng yêu nước sâu sắc.
b. Hình thức ngôn từ.
- Có sự xen kẽ linh hoạt giữa lời văn của người dẫn chuyện, lời nói của Người Khách và lời kể của các bậc lão. Đôi khi, lời của họ luân phiên, tạo ra một bức tranh văn hóa phong phú và sâu sắc.
- Sử dụng các loại ngôn từ xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi, tạo nên một bức tranh ngôn từ đa dạng và sinh động.
+ Các câu văn vần:
“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/Nơi mà ai đi qua cũng ghi nhớ”
“Qua cửa Đại Than vượt bến Đông Triều/Đến sông Bạch Đằng thuyền lướt một chiều”....
+ Các đoạn văn xuôi: “Nơi đây là địa bàn của cuộc chiến Trùng Hưng Nhị Thánh, nơi mà Ô Mã bị bắt/Cũng là đất địa của thời Ngô chúa tiêu diệt Hoằng Tháo”....
- Sử dụng các loại câu văn có độ dài khác nhau
- Sử dụng lối văn mạch lạc, tạo ra cách diễn đạt hình tượng đặc sắc
“Bờ lau ven bờ, bến rêu rạc rời/Sông trôi gãy cầu, đồi đá lún sụt”,...
- Cuối bài phú là một đoạn thơ, là minh chứng cho đặc điểm của thể loại phú.
c. Lối diễn đạt.
- Sử dụng ngôn từ tự nhiên, không cầu kỳ nhưng vô cùng sống động.
- Người Khách mô tả về sông Bạch Đằng không bằng những từ ngữ rườm rà mà là thông qua những hình ảnh sinh động, đặc trưng để diễn tả về vẻ đẹp cụ thể của dòng sông: hùng vĩ, thơ mộng nhưng u ám, hoang lạnh
- Các bậc lão kể về những chiến công mà không mất đi tính chất hoành tráng bằng việc sử dụng ngôn từ hào nhoáng, vẫn có thể thể hiện được sự oai hùng, dũng mãnh
- Sử dụng ngôn từ trang nghiêm, tôn lên tính chính trị
d. Xây dựng các hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
- Hình ảnh của sông Bạch Đằng không chỉ đẹp tự nhiên mà còn là bằng chứng lịch sử.
- Hình tượng “khách”: Trong văn phú, khách thường được mô tả như những người cứng nhắc, kiểu cách, nhưng trong sáng tạo của Trương Hán Siêu, hình tượng khách được thể hiện rất đa dạng, sống động, vừa tự do, vừa say mê với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên, đồng thời cũng biết xót xa trước cảnh tượng hoang tàn của cuộc sống, tự hào về những chiến công lịch sử, yêu quý thiên nhiên và đất nước.
- Hình ảnh của các bậc lão: Họ là những người trọng tình, hiếu khách, tự hào về những chiến công của dân tộc, và có khả năng nhìn nhận lịch sử một cách chính xác và sâu sắc.
III. Kết luận
- Tóm tắt lại những giá trị nghệ thuật của thể loại phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.
- Xác nhận vị trí quan trọng của tác phẩm: Dù có nhiều tác phẩm viết theo thể loại phú khác sau này, nhưng vẫn chưa có tác phẩm nào vượt qua được bài phú của Trương Hán Siêu.
Phát biểu về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài Phú một cách súc tích
Giá trị ý nghĩa nội dung của bài phú: Phú Sông Bạch Đằng đã phản ánh lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước trước những chiến công trên sông Bạch Đằng và ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp thông qua việc tôn trọng vai trò và vị trí của con người trong lịch sử.
Giá trị nghệ thuật: Bài Phú sử dụng những chi tiết mang tính biểu tượng được lựa chọn kỹ lưỡng, mang tính cổ điển kết hợp với kỹ thuật xen kẽ các phong cách, đặc biệt là việc sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” và nhân vật “các bô lão”, một nhân vật thể hiện hiện tại và một nhân vật là minh chứng lịch sử, đồng thời trong từng nhân vật đều chứa đựng tâm trạng cá nhân của tác giả, một tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu thương với lịch sử, với quê hương. Đồng thời, đây cũng là một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao của thể loại phú trong văn học trung đại Việt Nam.
Phân tích giá trị nghệ thuật của thể phú - Mẫu 1
Chế Lan Viên đã viết: “Muốn biết giá trị của sông Bạch Đằng, chỉ cần xem xét mọi con sông khác, muốn thể hiện ý nghĩa của nó, hãy sử dụng bài thơ”. Sông Bạch Đằng đã là nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,… và không thể không kể đến Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú – một tác phẩm điển hình về nghệ thuật của thể phú.
Đặc điểm nghệ thuật đáng chú ý là Bài phú sông Bạch Đằng được viết theo kiểu cổ điển, dựa trên cấu trúc đối thoại: khách - chủ, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sống động. Nhân vật khách có thể là tác giả tự thân và những nhân vật tập thể là các bô lão địa phương sống bên bờ sông Bạch Đằng mà khách gặp trên hành trình, tuy nhiên cũng có thể hiểu rằng những nhân vật bô lão chỉ mang tính hư cấu, là sự thể hiện tâm trạng tình cảm của tác giả thành những nhân vật trung thành. Vì vậy, thông qua đối thoại giữa khách và bô lão địa phương, bài phú đã thể hiện sự say mê, những trải nghiệm, suy tư về đất nước, về dân tộc.
Phần một nổi bật là hình tượng nhân vật khách với tư thế ung dung, phóng khoáng, mang trong mình hoài bão lớn lao :
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Cái tráng chí bốn phương của tác giả chính là được đi ngao du sơn thủy bốn phương, bởi vậy, hàng loạt địa danh trong nước cũng như nước ngoài đã được tác giả liệt kê: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… Đặc biệt khung cảnh sông Bạch Đằng đã khiến nhân vật khách ngậm ngùi, nuối tiếc, đứng lặng giờ lâu trong sự suy tưởng. Trong bối cảnh đó các vị bô lão xuất hiện bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách kể với nhân vật khách biết bao chiến tích oanh liệt, hào hùng trên sông Bạch Đằng: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã/ Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao, với khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta, trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc về chính nghĩa, hung đồ hết lối, vết nhục còn mãi đến muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Tác phẩm kết thúc là lời khẳng định vai trò to lớn của con người đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đặc biệt hai câu cuối của tác phẩm: Giặc tan muôn thuở thăng bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao, khách và các bị bô lão vừa biện luận, vừa khẳng định chân lí giữa địa linh và nhân kiệt thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Câu ca kết thúc bài thơ đã nêu cao vai trò, vị trí của con người, vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với lối phú cổ thể, đối đáp khách và các vị bô lão, Trương Hán Siêu đã làm cho bài phú của mình thêm sinh động, hấp dẫn, khiến cho cái nhìn về dòng sông Bạch Đằng lịch sử được bao quát và khách quan hơn trong sự phản ánh của hai đối tượng chủ và khách.
Không chỉ vậy, từ ngữ, hình ảnh trong bài phú thường mang tính chất khoa trương, kì vĩ, diễm lệ. Vẻ đẹp kì vĩ đó trước hết được thể hiện trong vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng hết sức thơ mộng của dòng sông: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu. Không gian vô cùng rộng lớn, những lớp sóng nối tiếp nhau xô vào bờ, nhưng không gian ấy cũng hết sức thơ mộng với nét uyển chuyển mềm mại của đuôi trĩ. Đuôi trĩ ở đây có thể hiểu: hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông như những cái đuôi của con trĩ thướt tha. Không gian rộng lớn, trời – nước – đất như hòa vào cùng một sắc màu, bởi thế mà nó càng trở nên thơ mộng, diễm lệ hơn. Ngoài ra, Trương Hán Siêu còn sử dụng những hình ảnh kì vĩ để gợi tả cuộc đại thủy chiến trên sông Bạch Đằng, tác giả sử dụng bút pháp khoa trương, dựng lên những hình ảnh lớn lao, hùng tráng: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói ; Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi, những hình ảnh thơ kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ. Hơn thế, các hình ảnh này còn được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt/ mờ, trời đất/ đổi, báo hiệu một trận chiến cam go, đầy quyết liệt, thử thách. Nhưng cuối cùng chính nghĩa đã giành được chiến thắng vẻ vang, kẻ giặc phải chịu nỗi nhục muôn đời không rửa hết.
Ngoài ra cũng không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, tiết tấu đối với sự thành công tác phẩm. Bài phú sử dụng lối văn biền ngẫu với những câu văn dài ngắn, đan xen nhau vô cùng linh hoạt, điều này khiến cho bài văn trở nên giàu nhịp điệu, tiết tấu trở nên linh hoạt hơn. Trong phần mở đầu tác phẩm, nhịp điệu thơ nhanh, nhưng vẫn hết sức nhịp nhàng vừa diễn tả được cái hùng tâm tráng trí bốn phương của nhân vật khách khi đi ngao du sơn thủy bốn phương nhưng đồng thời cũng lại thấy được vẻ đẹp nên thơ của khung cảnh. Nhưng ngay đoạn sau đó giọng thơ trầm xuống, nhịp điệu chậm để đứng lặng giờ lâu trước khung cảnh: Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô/ Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu / Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. Với đoạn thuật lại chiến công của dân tộc lời thơ cô đọng, súc tích nhưng vẫn diễn tả đầy đủ không khí trận chiến sinh động: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi. Ở đây lời văn không còn nhịp nhàng như đoạn thơ trên mà có sự đan xen những câu văn dài ngắn khác nhau, diễn tả được không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện tâm trạng của tác giả. Đoạn văn kết bài giọng văn trở nên thâm trầm, sâu sắc nhận định về ba nguyên nhân làm nên chiến thắng của dân tộc : địa lợi – đất hiểm ; Nhân hòa – nhân tài giữa cuộc điện an ; thiên thời – được trời ủng hộ và nhấn mạnh vào yếu tố con người tạo nên sự thành công cho cuộc chiến.
Phú sông Bạch Đằng là một tác phẩm thơ đơn giản nhưng hấp dẫn, có cấu trúc chặt chẽ và phong cách văn xuôi linh hoạt, từ hùng tráng đến trầm lắng và sâu sắc. Ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh hùng vĩ và sâu sắc đã làm cho tác phẩm trở nên đặc biệt và thành công.
Phân tích về giá trị nghệ thuật của thể loại phú - Mẫu 2
Điểm nghệ thuật nổi bật đầu tiên của bài phú sông Bạch Đằng là việc sử dụng lối văn cổ điển, thể loại phú thường đi kèm với cấu trúc đối đáp: chủ - khách, tạo ra sự hấp dẫn và sinh động cho câu chuyện. Nhân vật khách có thể là tác giả hoặc các nhân vật địa phương mà tác giả gặp trên đường, nhưng cũng có thể được hiểu là biểu tượng của tâm trạng và suy nghĩ của tác giả. Dưới hình thức của cuộc trò chuyện giữa khách và các nhân vật địa phương, bài phú truyền đạt cảm xúc, kinh nghiệm và suy tư về đất nước và dân tộc.
Trong bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi vẻ hùng vĩ của sông Bạch Đằng, một dòng sông lịch sử liên quan đến nhiều anh hùng và chiến công oanh liệt trong cuộc chiến chống xâm lược. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã góp phần xây dựng truyền thống anh dũng.
Trương Hán Siêu mô tả sông Bạch Đằng bằng cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh sâu sắc. Những ẩn dụ và tưởng tượng mới về dòng sông lịch sử được diễn đạt qua những câu thơ tinh tế và đẹp đẽ. Mấy chục năm sau chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng (năm 1288), nhà thơ đến thăm dòng sông với tâm trạng xúc động và nhớ mãi.
Cũng không thể bỏ qua vai trò quan trọng của giọng điệu và tiết tấu đối với thành công của tác phẩm. Bài phú sử dụng lối văn biền ngẫu, xen kẽ giữa câu văn dài và ngắn, tạo ra sự linh hoạt, làm cho văn bản trở nên phong phú và tiết tấu linh hoạt hơn. Trong phần đầu của tác phẩm, nhịp điệu thơ nhanh, nhưng vẫn mềm mại để diễn tả tinh thần hùng tráng bốn phương của nhân vật khách khi khám phá vẻ đẹp tự nhiên của khung cảnh. Tuy nhiên, ngay sau đó, giọng văn trầm lắng hơn, nhịp điệu chậm lại để tôn vinh khung cảnh: Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô/ Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu/ Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. Với đoạn miêu tả về chiến công của dân tộc, lời thơ đầy súc tích nhưng vẫn đầy đủ không khí của trận đánh: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Ở đây, lời văn không còn mượt mà như đoạn thơ trước đó mà thay vào đó là sự xen kẽ giữa câu văn dài và ngắn, diễn tả được sự hào hùng, căng thẳng của trận đấu và thể hiện tâm trạng của tác giả. Kết thúc bài thơ, giọng văn trở nên sâu sắc hơn, nhấn mạnh vào ba nguyên nhân tạo nên chiến thắng của dân tộc: địa lợi - đất hiểm; Nhân hòa - nhân tài giữa cuộc chiến; thiên thời - sự ủng hộ của trời và nhấn mạnh vào vai trò của con người trong chiến thắng.
Trương Hán Siêu, một nhà văn uyên bác, từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên - Mông. Các tác phẩm của ông thường phản ánh tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. 'Phú sông Bạch Đằng' chính là một ví dụ điển hình.
Phân tích về giá trị nghệ thuật của thể loại phú - Mẫu 3
Trong văn học thời Trung Đại, thiên nhiên thường được miêu tả phong phú. Các nhà văn, nhà thơ thường tìm đến thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của họ. Cao Bá Quát dùng thiên nhiên để thể hiện nỗi đau khổ không thể nào diễn đạt. Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng thiên nhiên để bày tỏ đạo lý cao quý trước sự vật chất. Trong 'Phú sông Bạch Đằng', Trương Hán Siêu mang lại một cái nhìn mới về thiên nhiên trong tâm trạng của mình.
Với đặc tính cơ bản của loại thể phú cổ, Bài phú Sông Bạch Đằng có cấu trúc gồm 4 phần (mở đầu, giải thích, nhận xét, kết luận) và sử dụng hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật 'khách' và các nhân vật 'các bô lão' được tác giả sáng tạo ra. Tuy nhiên, điểm mạnh của toàn bộ bài thơ chính là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật 'khách' được thể hiện rõ từ lúc bắt đầu đến khi nghe kể về những chiến công hùng hồn trên dòng sông đó của các bô lão. Do đó, nhiều người đánh giá rằng cấu trúc của bài phú giống như một bài thơ hơn là một bài viết miêu tả cảnh đẹp, kể chuyện thông thường.
Sự tráng chí bốn phương của tác giả được thể hiện qua việc đi dạo sơn thủy khắp nơi, do đó, nhiều địa danh trong và ngoài nước đã được tác giả liệt kê: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… Đặc biệt, khung cảnh của sông Bạch Đằng đã khiến nhân vật 'khách' cảm thấy nuối tiếc, đứng ngồi không yên trong suy tư. Trong tình huống đó, các bô lão xuất hiện với thái độ nhiệt tình, hiếu khách, kể về những chiến công oai hùng, hào hùng trên sông Bạch Đằng: Đây chính là nơi của trận chiến Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã/ Cũng là nơi mà xưa kia, Ngô chúa đánh bại Hoằng Thao, với tinh thần hùng hậu, quả cảm của dân tộc, trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt nhưng cuối cùng, chiến thắng thuộc về sự công bằng, sự dũng cảm hết cỡ, và vết nhục ấy sẽ còn mãi với thời gian: Hiện nay dòng sông vẫn chảy mãi/ Nhưng sự nhục nhã của quân thù không thể rửa sạch. Tác phẩm kết thúc bằng lời khẳng định vai trò to lớn của con người trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, hai câu cuối của bài thơ: Kẻ thù tan biến mãi mãi nơi hòa bình/ Vì lý do nào, đất địa hiểm bổn phận cao quý, khách và các bô lão không chỉ biện luận mà còn khẳng định sự quan trọng của yếu tố con người. Câu kết thúc bài thơ đã nêu cao vai trò, vị trí của con người, vừa tỏ lòng tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao quý. Với lối thơ cổ điển, đối đáp giữa khách và các bô lão, Trương Hán Siêu đã làm cho bài phú của mình trở nên sống động, hấp dẫn, làm cho cái nhìn về sông Bạch Đằng lịch sử trở nên tổng quát và khách quan hơn trong phản ánh của hai nhân vật chủ và khách.
Ảnh hưởng của các câu văn không còn là về sự oai hùng, hào hoa nữa mà trở nên trầm lắng, bâng khuâng. Có lẽ, trước sông Bạch Đằng, một tâm hồn tự do như khách cũng nhớ lại quá khứ huy hoàng của ông cha mình. Thông qua hình tượng của nhân vật 'khách' được tác giả mô tả sống động, ta có thể nhìn thấy cái 'tôi' của tác giả - một tinh thần tự do, trang trải, một kẻ hiên ngang, nặng lòng về lịch sử dân tộc.
Bài phú Sông Bạch Đằng là một tác phẩm có cấu trúc đơn giản nhưng rất hấp dẫn, với bố cục chặt chẽ và lối viết linh hoạt, khi hào hùng thì cũng sảng khoái, tha thiết khi trầm lắng. Ngôn ngữ được sử dụng linh hoạt, với những hình ảnh kì vĩ, hùng vĩ, nhưng cũng đầy nặng nề, lôi cuốn. Sự kết hợp giữa yếu tố nghệ thuật và nội dung đã tạo ra thành công cho tác phẩm.