Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu được viết một cách rõ ràng và dễ hiểu, giúp việc tự học và mở rộng kiến thức trở nên dễ dàng hơn, từ đó cải thiện kỹ năng học môn Ngữ văn và chuẩn bị tốt hơn cho học tập. Đồng thời, hãy khám phá thêm thông tin thuyết minh về các tác phẩm văn học.
Dàn ý thuyết minh về tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý số 1
I. Khai mạc:
- Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
- Ông để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm văn học có giá trị.
- Ông cũng là người có lòng yêu nước cháy bỏng, lòng căm ghét kẻ thù sâu sắc.
- Ông luôn ca ngợi tinh thần kiên định trước kẻ thù, trung thành với Tổ quốc và nhân dân.
II. Thân bài:
* Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu:
- Ông ra đời vào năm 1822 và qua đời năm 1888.
- Quê hương của ông: xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Quê của mẹ: làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
- Vào năm 1843 (21 tuổi), ông thi đỗ vào học viện. Sau 6 năm, ông mù mắt.
- Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định làm giáo viên và hành nghề y, chữa bệnh cho người dân.
- Khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia vào phong trào kháng chiến bằng cách cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc chiến lược và viết thơ để khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân.
- Khi Nam Kỳ rơi vào tay kẻ thù, ông sống tại Ba Tri, Bến Tre. Ông mãi mãi trung thành với Tổ quốc và nhân dân cho đến khi qua đời.
* Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Đình Chiểu là một trong những danh nhân văn học vĩ đại của dân tộc. Ông đã để lại một di sản văn hóa vô cùng quý báu:
- Truyện Lục Vân Tiên
- Dương Từ – Hà Mậu
- Chạy giặc
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Thơ điếu Trương Định
- Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
III. Kết luận:
- Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng cho chúng ta học tập.
- Các tác phẩm của ông mang đậm giá trị văn hóa, truyền đạt tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm cứu nước, ca ngợi những con người sẵn lòng hy sinh vì dân, vì nước.
- Ông đã truyền đạt cho chúng ta những bài học quý giá về đạo đức, ý chí kiên cường phi thường, lòng thù hận đối với kẻ thù và tình yêu quê hương.
- Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông sẽ mãi mãi sống trong lòng người Việt.
Dàn ý số 2
I. Khởi đầu:
- Nêu vấn đề:
- Nguyễn Đình Chiểu là một trong những danh nhân văn học vĩ đại của dân tộc.
- Ông đã để lại cho chúng ta một di sản văn chương vô cùng quý báu
- Ông đã để lại một di sản văn chương to lớn
II. Phần chính
* Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu:
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) sinh tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định
- Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ.
- Học giỏi, lòng hiếu thảo, cuộc đời ông rực rỡ với lòng nhân ái, tình yêu nước và lòng thương dân.
- Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định giảng dạy và chữa bệnh cho người dân.
- Cuộc đời cá nhân của ông đầy bi thương: mù mắt, vận may không mỉm cười...
* Sáng tạo văn học:
- Nguyễn Đình Chiểu tỏa sáng trong dòng văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
- Tác phẩm của ông gồm có:
+ Các tác phẩm đáng chú ý:
'Truyện thơ Lục Vân Tiên', 'Dương Từ Hà Mậu', và 'Ngư tiều y thuật vấn đáp'.
+ Xuất sắc trong việc sáng tác thơ và văn phẩm: 'Chạy giặc”, 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc',...
-> Tác phẩm của ông lan truyền tri thức về đạo đức con người, thúc đẩy tinh thần yêu nước, khích lệ lòng dũng cảm giữa dân tộc, tôn vinh những người sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước. Ngài đã truyền cho chúng ta những bài học quý giá về đạo lý nhân sinh, ý chí kiên cường phi thường, lòng hận thù kẻ thù và tình yêu quê hương.
II. Kết luận
- Nguyễn Đình Chiểu vẫn tỏa sáng như một vì sao trên bầu trời của dân tộc.
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 1
Nguyễn Ðình Chiểu đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ văn học cuối thế kỷ XIX, tên tuổi của ông là biểu tượng cho lòng yêu nước của nhân dân miền Nam và tác phẩm văn thơ của ông là những trang sách vĩnh cửu khen ngợi cuộc đấu tranh dũng cảm của nhân dân ta chống lại kẻ xâm lược phương Tây ngay từ những ngày đầu tiên chúng xâm nhập lãnh thổ của chúng ta.(*)
Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và qua đời ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Cuộc sống của Nguyễn Ðình Chiểu trải qua những biến động gia đình và biến cố quốc gia đầy gay go đã ảnh hưởng đến ý thức của ông.
Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha tham gia chiến đấu. Từ một cậu bé con của quan lại, bỗng dưng trở thành một đứa trẻ bình dân sống trong cảnh hoạch định, báo thù, giết người. Trưởng thành, bị mù mắt, bị gia đình giàu có phản bội, danh dự công danh đều mất. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng luôn gắn bó với nhân dân. Mặc cho số phận mù lòa, Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến bộ thành công bằng sự kiên nhẫn và cống hiến của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết sách và chữa bệnh cho dân. Luôn quan tâm đến chiến sự, ông đảm nhận ba nhiệm vụ của ba nhà tri thức để giúp đỡ dân làng.
Nguyễn Ðình Chiểu được biết đến với nhiều phẩm chất và lòng kiên nhẫn, chỉ có lòng kiên nhẫn phi thường và lòng quyết tâm kiên cường mới giúp ông vượt qua những khó khăn cá nhân và thời đại để đứng vững trước cơn sóng gió lịch sử mà không bao giờ nản lòng, chán nản. Nguyễn Ðình Chiểu là hình mẫu của nhiều phẩm chất cao quý của con người. Trong hành vi cá nhân, Nguyễn Ðình Chiểu là tấm gương lỗi lạc về lòng hiếu thảo và lòng nhân từ. Tất cả những đặc tính này cùng tạo nên phẩm chất của một học giả yêu nước Việt Nam tiêu biểu trong giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XIX.
Văn chương không phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðình Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là một nhà văn mà còn là một giáo sư, một bác sĩ và một nhà tư tưởng. Tuy nhiên, văn chương của ông đã đủ lớn để tạo nên một sự nghiệp riêng. Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết khi ông mù, và hầu hết tác phẩm của ông đều viết bằng chữ Nôm. Dựa trên nội dung, có thể chia thành hai giai đoạn sáng tác: Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên, có tính tự truyện. Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có người cho rằng tác phẩm này viết trước khi Pháp xâm lược, nhưng cũng có ý kiến trái lại, tác phẩm được sửa đổi để phù hợp với hoàn cảnh. Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu về các loại thuốc và nghề thuốc nhưng luôn mang tinh thần yêu nước.
Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… đặc trưng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ viếng Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột không xác định thời điểm sáng tác. Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người được nhiều người tôn trọng. Kẻ thù đã cố gắng chiêu dụ ông nhưng ông kiên quyết từ chối mọi lời đề nghị. (Có nhiều lần ông bất bỏ hợp tác với kẻ thù).
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học sâu sắc về lòng yêu nước, về việc sử dụng bút mực như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu không bao giờ phai nhạt theo thời gian. Ông không chỉ có quan điểm văn chương mà còn đề cao quan điểm riêng của mình về văn hóa. Quan điểm của ông về văn chương khác biệt với nhà nho, cũng như với quan điểm thông thường lúc đó. Nhà nho cho rằng Ðạo là của trời, còn Ðồ Chiểu có quan điểm khác:
Ðạo trời không cần xa
Đây chính lòng người nghĩ ra
Mặc dù đạo của trời được tôn trọng, nhưng thực tế là đạo của người mới thật sự quý giá. Đây là quan điểm tổng quát trong văn chương của Nguyễn Ðình Chiểu. Quan điểm văn chương của ông không được công bố rộng rãi nhưng lại là một quan điểm tiến bộ, gần gũi với văn hóa dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến bộ và tình thương nhân loại.
Thuyết minh về Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 2
Ai cũng mong muốn được nhìn thấy thiên đường ít nhất một lần, được bước vào và chiêm ngưỡng những kỳ quan tuyệt vời mà trần thế không có. Tôi đã được dẫn đi thăm “thiên đường” - nơi dành cho những người tài năng và nhân đức - và càng may mắn hơn khi gặp gỡ một trong những nhà thơ Nôm nổi tiếng của văn học Việt Nam thời Pháp thuộc, cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đã để lại những tác phẩm lớn giá trị và góp phần vào sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
Một hôm, sau khi chuẩn bị xong bài cho ngày mai, tôi ngủ ngon lành. Đột nhiên, có ai đó nắm chặt tay tôi, kéo tôi chạy về phía một cánh cửa lớn bằng vàng tỏa ánh sáng chói chang, kỳ ảo. Sau khi bước qua cánh cửa, sức kéo biến mất và tôi không tin vào mắt mình: trước mắt là một khu vườn lộng lẫy với muôn loài cây đẹp và kỳ diệu mà tôi chưa từng thấy. Khi tiến sâu vào rừng, tôi ngạc nhiên và thích thú với vẻ đẹp của mọi thứ: từ những chú chim với bộ lông sặc sỡ, chú hươu trắng muốt, đến những chú bướm lấp lánh,… Tiếp tục tiến vào, tôi nghe thấy tiếng hát vui vẻ. Tò mò, tôi tiến gần hơn và phát hiện ra một mái vòm nhỏ, nơi một số ông lão và cô gái đang uống rượu, làm thơ, và chơi đàn. Trong số họ, tôi chú ý đến một ông lão có đôi mắt nhắm nghiền. Ông làm thơ rất hay, mộc mạc và gần gũi. Khi nghe mọi người gọi ông là “cụ Đồ Chiểu”, tôi mới nhận ra rằng ông chính là cụ Nguyễn Đình Chiểu, tác giả của nhiều bài thơ nổi tiếng. Bỗng, một trong hai tiên nữ phát hiện tôi, và tất cả mọi người đổ dồn ánh mắt về phía tôi. Tôi phải xin lỗi và giải thích vì sao tôi ở đó. Sau khi nghe giải thích của tôi, mọi người mời tôi tham gia hội tao đàn của họ.
“Em đã từng đọc về những tác phẩm của ông và rất thích và ngưỡng mộ tài năng cũng như tinh thần yêu nước của ông qua những bài thơ đó. Hôm nay lại được may mắn gặp và trò chuyện với ông, ông có thể kể về cuộc đời văn chương của mình không?
Cụ Đồ Chiểu cười nhẹ và kể:
- Ta ra đời năm 1822, tại làng Tân Thới. Cha mẹ đặt tên ta là Mạnh Trạch, lớn lên ta lấy hiệu Trọng Phủ, Hối Trai để viết thơ. Nhưng mọi người thường gọi ta là cụ Đồ Chiểu. Phụ thân ta là Nguyễn Đình Huy, thơ lại văn hàn ty ờ Gia Định, nhưng sau cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi, ông bị cách chức cùng ta và mẫu thân là Trương Thị Thiệt về quê ở Thừa Thiên. Tại đó, ta được người bạn của cha nhận nuôi và học hành. Sau này, ta lấy vợ là Lê Thị Điền, người có tài có đức.
Không chỉ em mà các tiên nhân khác cũng bị cuốn vào câu chuyện của cụ Chiểu, mọi người im lặng lắng nghe cụ kể lại, không gian yên tĩnh đến lạ. Ngừng một chút, cụ lại tiếp tục:
- Chúng tôi và các bạn cùng trang lứa rất may mắn khi được sống trong thời kỳ đất nước độc lập, dân chúng an nhàn. Còn tôi, khi ra đời gặp phải thời kỳ loạn lạc, triều đình bất lực, dân làng bị áp bức, bóc lột khắp nơi, rồi sau này, khi Pháp xâm lược, cuộc sống lại càng cực khổ trăm phần.
Khi kể đến đây, giọng cụ tràn ngập phẫn nộ và căm giận. Em càng hiểu rõ hơn về cụ - một người với tấm lòng yêu nước tha thiết.
- Sau khi hoàn thành học vấn, năm 22 tuổi, tôi trở lại Gia Định để tham dự kỳ thi Tú tài và đã đỗ. Ba năm sau đó, tôi ra Thừa Thiên thi tiếp nhưng chưa kịp quay lại hoặc nhận tin thân mẫu đã qua đời, tôi bỏ thi, vội vã trở về chịu tang mẹ. Thật không may, trên đường trở về, tôi mắc phải bệnh đau mắt và từ đó mù lòa.
25 tuổi mất mẹ, cùng lúc mù lòa, tai họa ập đến với cụ vô cùng đau lòng! Em cảm thấy tiếc nuối cho số phận của một người tài nhưng cuộc đời gặp phải nhiều sóng gió! Tất cả mọi người lắng nghe, cụ tiếp tục kể:
-Kể từ khi mất khả năng nhìn, tôi bắt đầu học nghề thuốc, đồng thời cũng mở trường dạy học và đôi khi viết văn. Tôi tiếp tục sống yên bình như vậy. Sau đó, tôi kết hôn. Từ đó, vợ tôi trở thành ánh sáng của tôi, giúp tôi đọc và viết. Có thể nói, một phần thành công của tôi ngày hôm nay là nhờ có vợ. Năm 1862, khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam bộ, tôi cùng vợ lánh xa chiến trường đến Bến Tre. Mặc dù mù lòa, không thể cầm vũ khí chống giặc, nhưng tôi vẫn tham gia các hoạt động bí mật, liên lạc với các lãnh đạo yêu nước như Trương Định, Đốc binh Là,… Đồng thời, tôi tiếp tục viết văn và coi đó như một vũ khí để đấu tranh, ủng hộ Cách mạng. Dù sống trong bóng tối, tôi cảm thấy hài lòng với cuộc sống của mình. Rồi, năm 1888, tôi qua đời và được đưa đến thiên đàng, sống trong chốn tiên cảnh này, sáng tác văn thơ cùng các tiên nhân.
Nghe về cuộc đời của ông, nhiều người không khỏi kính phục. Một tiên nhân nghe câu chuyện đã không thể kìm lòng, bày tỏ:
- Ngài thực sự là một người xuất sắc, vừa có tài văn thơ vừa có tấm lòng yêu nước. Tôi từng nghe, khi Pháp đề nghị cấp đất, cấp tiền, muốn mua chuộc ngài - người được lòng tin và tôn trọng của dân chúng – ngài đã kiên quyết từ chối. Câu nói “Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?” đầy ý nghĩa, quyết đoán của ngài đã được lan truyền, thêm vào tình yêu nước và tinh thần quật khích của dân chúng.
- Đúng vậy! Đúng vậy! - Một người khác phản hồi - Những bài thơ của ngài, dù trước hay sau khi Pháp xâm lược, đều rất xuất sắc, ý nghĩa. Trước khi Pháp thuộc, có truyện thơ dài Lục Vân Tiên, sau có các loại văn tế như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định,…thơ Đường luật: Chạy Tây, Mười hai bài điếu Trương Định,. . ngoài ra còn có Thảo thử hịch, Ngư Tiều y thuật vấn đáp,…. Riêng truyện thơ Dương Từ - Hà Mậu thì không rõ là sáng tác trước hay sau thời Pháp xâm lược. Tuy nhiên một điều chắc chắn là những bài thơ của ngài đã đóng góp không ít vào sự phong phú của văn học Việt Nam.
Các tiên nhân đều bày tỏ ý kiến sôi nổi, khiến em cũng hứng khởi, muốn thêm phần bình luận:
- Cụ Chiểu đã viết một trong những truyện thơ đáng nhớ nhất của văn học Việt Nam - Lục Vân Tiên. Câu chuyện kể về tình yêu giữa Lục Vân Tiên, một anh hùng hào kiệt với tinh thần nghĩa hiệp, và Kiều Nguyệt Nga - một cô tiểu thư nhẹ dạ cùng những khó khăn và thử thách họ phải vượt qua để cuối cùng được ở bên nhau. Đọc tác phẩm này, người đọc cảm thấy thân thuộc, gần gũi, mang chất trữ tình, và đây thực sự là một trong những tác phẩm tôi yêu thích nhất trong văn học Việt Nam.
- Thật sự, cụ Chiểu đã đóng góp rất nhiều cho văn học, đặc biệt là trong việc cổ vũ cho phong trào Cách mạng. Những bài thơ của cụ không chỉ là nguồn động viên lớn lao cho nhân dân, mà còn là vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù.
Chúng ta hãy học theo tinh thần chí công
Trong từng câu thơ, nồng nàn tình xuân hồn nước Việt.
Cụ Chiểu là một trong những người đã đặt nền tảng cho sự phát triển của chữ Nôm và đóng góp quan trọng vào văn học Việt Nam ngày nay. Những tác phẩm của cụ trở thành di sản quý báu, đem lại sự phong phú và ý nghĩa cho cuộc sống của mọi người, đồng thời là biểu tượng của sự quật cường trong cuộc chiến chống giặc của dân tộc.
Cuộc trò chuyện sôi nổi đã khiến tôi quên mất thời gian. Bỗng tôi nghe tiếng chuông báo thức quen thuộc vang lên. Mọi thứ bỗng tối lại và tôi tỉnh giấc. Thì ra, đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng qua giấc mơ đó, tôi hiểu thêm về Nguyễn Đình Chiểu: một con người mù lòa từ khi còn trẻ, đã trở thành một nhà giáo, một thầy thuốc và một nhà thơ. Tấm lòng yêu nước của ông là điều tôi ngưỡng mộ. Được trò chuyện với ông, dù chỉ trong giấc mơ, cũng khiến tôi rất hạnh phúc. Và khi trở lại thực tại, tôi nhớ ngay câu nói của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khi ông nói về Nguyễn Đình Chiểu: “Trên trời có những vì sao sáng, nhưng con mắt của chúng ta phải tinh tường mới thấy, và càng nhìn thì càng sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.
Báo cáo về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu - Biểu mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, hiện thuộc phường Cầu Kho, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Cha ông, Nguyễn Đình Huy, là người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ ông là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Trong tuổi trẻ, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến những biến cố xã hội loạn lạc. Cụng bao gồm cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định, gây ra nhiều ảnh hưởng đến gia đình ông. Cha ông bỏ trốn ra Huế và ông được gửi cho một người bạn để tiếp tục học vấn. 8 năm ở Huế đã giúp ông hiểu rõ hơn về thực trạng xã hội và học hỏi văn hóa dân tộc.
Năm 1843, ông thi đỗ tú tài tại Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở lại Huế học hành, nhưng trước khi kịp thi thì nhận được tin mẹ qua đời. Trên đường trở về quê, vì buồn bã và mệt mỏi, ông mắc bệnh và mất khả năng nhìn.
Sau khi đưa tang mẹ, ông bắt đầu dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn tại Gia Định. Qua việc gắn bó với nhân dân, ông hiểu hơn về dân tộc mình. Trong thời gian này, ông sáng tác truyện thơ đầu tiên của mình, Lục Vân Tiên, nổi tiếng về đạo nghĩa và đã được phổ biến rộng rãi. Một trong những học trò của ông, Lê Tăng Quýnh, đã kết hôn với em gái của ông, Lê Thị Điền. Khi Pháp chiếm Gia Định, ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc.
Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu và gia đình bỏ thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những người yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và lực lượng kháng chiến. Khi biết tin Trương Định hy sinh (19-8-1864), nhà thơ viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) làm từng gốc hương sư, bạn thân với ông, lời nói rất cảm động, như lời thề tạc vào đá: 'Tinh thần hai chữ pha sương tuyết, khí phách ngàn thu rỡ núi non'. Khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi mất ba tỉnh miền Tây, ông viết thơ điếu họ Phan với nhiều ý nghĩa phê phán.
Trong thời gian đó, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương cho những người bạn, đồng đội đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Nổi bật là tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh. Tất cả tâm huyết của nhà thơ như đổ vào những câu thơ đau lòng: 'Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức'. Dân địa phương kể lại rằng ông tự mình làm lễ tế cho những người anh hùng Lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, nước mắt ông trào ra và ông gục xuống nằm bất tỉnh.
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp được viết vào cuối đời với một bút pháp già dặn hơn và một niềm tâm sự sâu lắng, xót xa hơn trước cảnh đất nước bị 'dưa chia, khăn xé', nhưng không hề tuyệt vọng.
Bến Tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng lại là nơi ông chọn để sống, hoạt động trong suốt 26 năm đầy biến cố phức tạp vào cuối đời và đã gởi xác tại đây. Người kể lại rằng trong ngày đưa tang, cả khu đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa với khăn tang của bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những người ông chữa khỏi bệnh và những người đã chịu ơn hoặc vì mến mộ, cảm phục một tâm hồn và một nhân cách lớn.
Hơn một phần tư thế kỷ sống trên đất Bến Tre, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nhân dân ở đây một ảnh hưởng lớn và một di sản tinh thần vô cùng quý báu, góp phần tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của một vùng đất anh hùng. Thơ văn của ông đã thấm sâu vào tâm hồn của nhiều thế hệ người dân Bến Tre và còn mãi vẹn nguyên, biến thành một sức mạnh giúp họ vượt qua mọi thách thức gay go và khốc liệt nhất.
Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 4
Trong văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một nhà văn lớn của dân tộc ta với những tác phẩm văn chương vĩ đại mang giá trị sâu sắc của văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay còn được biết đến với tên cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình quý tộc tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và qua đời vào năm 1888. Mặc dù là một nhà văn lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại trải qua nhiều gian truân, lận đận. Là đứa con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ thứ, cuộc sống của ông từ nhỏ đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian nan. Khi Nam Kì bị xâm lược, cha ông đã gửi ông ra Huế ở cùng nhà của một người bạn. Sau 8 năm ở đây, học hành và làm việc, ông trở về miền Nam để chuẩn bị cho kỳ thi hương. Năm 1843, ông thi đỗ tú tài, lúc đó mới 21 tuổi. Năm 1846, ông quay lại Huế để ôn thi hội. Ba năm sau, khi ngày thi sát kỳ, ông nhận tin mẹ qua đời. Ông vội vàng trở về quê chịu tang, từ bỏ kỳ thi. Trên đường về, ông mắc bệnh. Với đường xa xôi, thời tiết khắc nghiệt, bệnh tình của ông càng trở nên nặng thêm, thêm vào đó là nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn quá nhiều khiến ông bị mù cả hai mắt. Từ đó, giấc mơ về danh vọng đã tan biến, thân phận của ông còn mang thêm nỗi khuyết tật. Dường như cuộc sống, tương lai của ông đã kết thúc ở đây, cánh cửa cuộc đời như đóng lại. Thế nhưng, ông không từ bỏ, bằng nghị lực và ý chí mạnh mẽ của bản thân, ông vượt qua mọi khó khăn, gian nan biến nỗi đau thành động lực để tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận của mình. Sau đó, ông trở về Gia Định, dạy học và cung cấp thuốc chữa bệnh cho những người dân.
Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, sự kiên định trước mặt kẻ thù. Mặc dù không thể nhìn thấy ánh sáng, không thể tham gia trực tiếp vào cuộc chiến ngoài chiến trường nhưng ông luôn thảo luận về vấn đề quốc gia với Đốc binh và gửi thư cho Trương Định. Khi di cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục trao đổi với những người yêu nước và thường viết những bài thơ phục vụ cho cuộc chiến, truyền động viên cho tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ ngoài chiến trường. Mặc dù bị thực dân Pháp lôi kéo mua chuộc nhiều lần nhưng ông luôn kiên quyết từ chối và tiếp tục tham gia vào cuộc chiến.
Trước khi ra đi, ông đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm quan trọng, chứa đựng nhiều tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm như “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần xây dựng tên tuổi của ông. Đặc biệt, “Lục Vân Tiên” là một tuyệt phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời nhiều biến động, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng là cuộc đời của ông ngoài thực tế. Dưới bút tài của ông, mỗi nhân vật từ chính đến phụ, từ tốt đến xấu trong truyện đều được miêu tả một cách tinh tế, đa dạng. Các tác phẩm của ông mang đến cho độc giả những giá trị đạo đức, những nguyên tắc sống làm người trong cuộc sống hàng ngày.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ mãi là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và những bài thơ của ông sẽ luôn ghi dấu sâu trong lòng mỗi người con Việt. Ông và tác phẩm của mình sẽ luôn sống mãi với thời gian trong trái tim của người Việt.
Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 5
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) có tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ. Sau khi mất khả năng nhìn, ông còn được biết đến với hiệu là Hối Trai. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, quê ở Thừa Thiên. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo chủ nghĩa Nho giáo nên từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu đã được giáo dục về đạo đức. Năm 1843, ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông đi Huế để chuẩn bị thi tiếp.
Vào năm 1849, trước khi tham dự kỳ thi, ông nhận được tin mẹ qua đời, buộc phải bỏ dở kế hoạch và trở về Nam để chịu tang. Trên đường về, vì cả vất vả và nỗi buồn mẹ, Nguyễn Đình Chiểu khóc đến mức mắt đau rồi mù. Mặc cho số phận không mấy thuận lợi, ông mở trường dạy học và cung cấp thuốc chữa bệnh cho người nghèo; đồng thời sáng tác thơ để bày tỏ tình yêu nước và sự căm ghét quân xâm lược và tầng lớp phong kiến phản bội. Nguyễn Đình Chiểu đã giữ vững phẩm chất của một người theo đạo Nho chính hiệu và lòng yêu nước, tận tâm với dân cho đến hơi thở cuối cùng.
Trong cuộc đời cá nhân, Nguyễn Đình Chiểu đã phải đối mặt với nhiều tai họa. Ở tuổi trẻ, ông nuôi ước mơ cao cả làm việc vì quốc gia, nhưng số phận không mấy ưu ái khiến ông không thể thực hiện được ước mơ đó. Mẹ mất, ước mơ sự nghiệp dang dở, hôn nhân sắp cưới tan vỡ, và cuối cùng, ông mất khả năng nhìn... Đối với một người bình thường, sẽ rất khó để đối diện với hàng loạt biến cố không may xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn như vậy, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua tất cả bằng nghị lực phi thường và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
Cuộc đời của nhà thơ mù Đồ Chiểu luôn liên kết chặt chẽ với cuộc sống của nhân dân lao động nghèo khổ. Ông không chỉ dạy chữ và dạy đạo mà còn chữa bệnh cho cơ thể và tâm hồn của dân. Trái tim ông đập theo nhịp của trái tim dân chúng, thông cảm và chia sẻ nỗi đau, sự bất công và nô lệ trong bối cảnh đất nước bị chiếm bởi kẻ thù ngoại xâm. Nhờ điều đó mà ông nhận ra những phẩm chất cao quý ẩn chứa trong hình thức lao động của người dân. Tất cả những điều này tạo ra tầm cao trong tư duy, tình cảm và sự nghiệp sáng tác của ông. Tấm lòng nhân ái sâu lắng, rộng lớn của Nguyễn Đình Chiểu đã được đền đáp một cách chân thành, nồng nhiệt. Nhân dân Nam Bộ dành cho ông tình yêu và sự tôn kính đặc biệt. Ngày tiễn đưa ông về với tổ tiên, cả cánh đồng Ba Tri trắng xóa vì hàng ngàn người mến mộ. Tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu sẽ sống mãi trong trái tim của nhân dân Nam Bộ và của cả nước.
Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã sâu sắc, làm nổi bật hình ảnh của những người lao động chân chất mà ông luôn yêu quý, kính trọng. Hình ảnh của người dân Nam Bộ, tôn trọng nhân nghĩa và khí phách kết tinh trong các nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực..., trong nhân vật ông Ngư, ông Tiều mà ai cũng biết. Lục Vân Tiên can đảm, nghĩa hiệp: 'Làm ơn dễ nhận ơn.' Ông Ngư cống hiến mình trong Cơn Hoạn nạn: 'Dốc lòng nhân nghĩa chờ đợi đền ơn.' Kiều Nguyệt Nga kiên trinh, trung trực... Đó là những nhân vật tư tưởng của tác giả nhưng cũng là hình tượng được dân chúng Nam Bộ thờ phụng. Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng sâu rộng đến tinh thần cộng đồng, điều này đã khiến nó trở thành nguồn cảm hứng của hàng ngàn người Nam Bộ. Mọi người thích thú khi nghe những bài thơ, câu chuyện về Lục Vân Tiên, bởi trong đó chứa đựng nhiều bài học về đạo lý. Đằng sau những câu chuyện minh họa cho tư tưởng, triết lý Nho giáo sâu sắc đó là những bài học đạo đức về tình thân, tình bạn, tình yêu, lòng nhân ái, sự cứu giúp và lòng chia sẻ giữa con người với con người. Đó là đạo lý truyền thống đẹp đẽ của dân tộc đã tồn tại từ hàng ngàn năm.
Khi thực dân Pháp xâm lược Lục Tỉnh Nam Kỳ, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển hướng thành tư tưởng yêu nước chống lại xâm lược. Nguyễn Đình Chiểu đã viết những bài thơ chân thành để thể hiện quan điểm của mình:
Thà làm hèn nhưng giữ danh dự của gia đình,
Còn hơn sống trong sự xấu hổ trước hậu quả không lường trước.
Thà làm hèn nhưng không gieo rắc những bất trung,
Còn hơn sống trong sự xấu xa tan nát trong lòng người khác.
Thà làm hèn nhưng đặt sự quan trọng vào lòng trung thành,
Còn hơn sống trong sự hèn nhát thay đổi mọi thứ để cầu lợi.
Thái độ mạnh mẽ và quyết liệt chống lại kẻ thù của ông đã làm cho nhân dân tin tưởng và kính trọng. Điều đáng trân trọng ở ông là cả tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng yêu nước đều hướng tới nhân dân lao động.
Qua một số tác phẩm nổi tiếng như Chạy Tây, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp… Nguyễn Đình Chiểu đã rõ ràng thể hiện lập trường, quan điểm của mình là ủng hộ nhân dân để chỉ trích và phê phán triều đình nhà Nguyễn nhút nhát đầu hàng, bán rẻ bộ sưu tập của tổ tiên để lại, quay lưng làm ngơ trước tình hình khốn cùng của dân đen, con đỏ.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
(Chạy Tây)
Trong bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, nhà thơ căm thù gọi lũ xâm lược là quân tả đạo, đi khắp nơi lan truyền mùi tanh hôi của tinh chiến và tật xấu. Dân chúng phẫn nộ muốn xông ra phản kích, tấn công kẻ thù cho thoải mái. Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ thờ ơ, không trách nhiệm của phần lớn quan vị nhà Nguyễn. Quân Pháp xâm lược nước ta đã ba năm và chiếm đóng Nam Bộ đã hơn mười tháng, dân chờ đợi lãnh đạo như chờ đợi mưa, mong chờ đến khi mệt mỏi nhưng không thấy triều đình phản ứng gì. Yêu nước, căm thù quân xâm lược, những người dân thấp kém vốn khổ cực, sống trong bế tắc đã tự nguyện nổi dậy đối mặt với trách nhiệm quan trọng để giải cứu quê hương, giúp đỡ đồng bào.
Từ những mái tranh nghèo, họ vượt ra ngoài đối mặt với chiến trường, sử dụng vũ khí như rơm con cúi, lưỡi dao phay, ngọn tầm vông… những công cụ quen thuộc trong cuộc sống lao động hàng ngày. Những người nông dân anh hùng tỏa sáng trên trận địa, không cần sự ra lệnh, không sợ vũ khí của kẻ thù. Họ khiến quân giặc kinh sợ và kinh hãi. Những vũ khí sơ khai trong tay họ cũng góp phần vào chiến thắng: Rơm con cúi đốt cháy nhà giáo, gươm dao phay cũng cắt đứt đầu quan phản bộ.
Trong trận chiến không công bằng, gần ba chục anh hùng đã hy sinh. Sự hy sinh vì tinh thần cao cả của họ đã làm xúc động cả đất trời và lòng người: Đoài sông Cần Giuộc, cỏ cây trải dài mấy dặm đau lòng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ cùng nức nở uất ức. Điều an ủi lớn nhất đối với gia đình họ là họ đã sống và chết theo quan niệm cao cả, vinh quang hơn là sống nhục nhão theo truyền thống của ông cha từ lâu. Nguyễn Đình Chiểu đã nhấn mạnh:
Sống với tư cách của quân tả đạo, đối mặt với hương vị buồn, đổ mồ hôi, chỉ thấy thêm nỗi đau; sống như lính mã tà, chia sẻ rượu đắng, nếm miếng bánh mì khô, càng thêm bi thương.
Thà rằng quăng mình xuống giữa sóng gió, về theo dấu vết tổ tiên cũng vẻ vang; còn hơn là sống trong nỗi đau đầu Tây, ở trong địa vị nhỏ nhen rất khốn khổ.
Bút của Nguyễn Đình Chiểu đã lồng lộn cảm xúc yêu quý, kính trọng, vẽ nên bức tranh ca tụng truyền kỳ, đã đắp nên bức tượng tôn kính về những nông dân anh hùng yêu nước, đã làm sáng tỏ lòng dũng cảm tự nguyện hi sinh để bảo vệ quê hương khỏi ngoại xâm, khẳng định truyền thống dũng mãnh, không khuất phục của dân tộc Việt Nam.
Trong triết lý của Nguyễn Đình Chiểu, nước và dân là một. Tình thương nhân dân sâu sắc chính là nền móng vững chắc của tình yêu nước mãnh liệt, dâng trào trong lòng ông. Suốt cuộc đời gắn bó, giao lưu với nhân dân, ông đã khám phá ra trong họ những phẩm chất quý giá, những tư tưởng giản dị nhưng vĩnh hằng và đó là nền tảng cho triết lý sống của chính mình.
Với những đóng góp vĩ đại cho dân tộc và văn học nước nhà, Nguyễn Đình Chiểu luôn xứng đáng với lòng tin yêu và sự kính trọng của nhân dân. Trong bài nhận xét về Nguyễn Đình Chiểu, nhà phê bình văn học Hoài Thanh viết: 'Sự gắn bó sâu sắc với quần chúng là nét đặc trưng nổi bật trong cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu, là yếu tố chính hình thành con người và sự nghiệp văn chương của ông.'
Thuyết minh về Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 6
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), người quê ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Ông sinh ra trong một gia đình truyền thống nhà nho, cha ông là người gốc Thừa Thiên - Huế. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, khi ông ra Huế học để chuẩn bị thi tiếp, nhận được tin mẹ qua đời, ông phải bỏ thi để về thăm tang mẹ. Trên đường về, Nguyễn Đình Chiểu mắt đau nặng và rồi mù. Trở về quê, mặc dù đối diện với số phận khắc nghiệt, nhưng nhà thơ mở trường dạy học, chữa bệnh cho dân và cùng các lãnh đạo nghĩa quân lên kế hoạch chống giặc, sáng tác những bài thơ gai góc phản ánh sự hận thù cháy bỏng, ý chí chiến đấu.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một ví dụ về nghị lực, lòng yêu nước và tinh thần kiên cường trước kẻ thù xâm lược. Mặc dù bị khuyết tật, ông luôn là một người thầy tận tâm, một bác sĩ có lòng yêu người và một nhà thơ tài năng. Ông đã làm việc và cống hiến hết mình ở mọi vị trí.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, vì vậy tư tưởng đạo đức và nhân nghĩa của ông mang dấu ấn của triết lý Nho giáo. Mặc dù vậy, ông cũng là một nhà trí thức dân tộc, sống trong thôn xóm, gần gũi với 'dân ấp, dân lân' với tâm hồn chất phác và thuần khiết, vì vậy tư tưởng đạo đức của ông mang những nét dân dã đặc trưng của người nông dân. Nguyễn Đình Chiểu thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa là tình yêu thương con người, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn; là những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người trong xã hội, tình cha mẹ, tình bạn bè, tình thương yêu và sự hiệp nghĩa sẵn sàng cứu giúp,...
Trong Truyện Lục Vân Tiên, những nhân vật mẫu mực hầu hết đều là những người dân bình thường, sinh sống trong những vùng quê nghèo khó (như Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; các ông Ngư, ông Quán, ông Tiều, bà lão dệt vải,...). Tâm hồn của họ chân thành, không vụ lợi, luôn sẵn lòng giúp đỡ những người gặp khó khăn. Trước đó, nhân nghĩa thường chỉ được coi là một phạm trù của những người quý tộc, những nhân vật ở tầng lớp cao hơn. Nguyễn Trãi cũng đã hướng nhân nghĩa về phía nhân dân. Ông kêu gọi các quan quyền phải coi trọng nhân nghĩa với dân, trong thời chiến, sử dụng nhân nghĩa để đánh bại quân giặc, trong thời bình, thực hiện nhân nghĩa trong việc cai trị, quản lý dân. Nhưng chỉ khi đến Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm nhân nghĩa mới thực sự được mở rộng đến tầng lớp dân. Điều này giải thích tại sao nhân dân, đặc biệt là cư dân vùng đất mới Nam Kì, đã chào đón tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu một cách nồng nhiệt.
Nguyễn Đình Chiểu viết thơ văn yêu nước vào thời điểm đầu tiên trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược của Pháp để bảo vệ tổ quốc. Đó là giai đoạn khó khăn nhưng cũng vĩ đại của dân tộc (theo Phạm Văn Đồng). Đất nước dần trở nên mờ nhạt trước mắt nhà thơ. Các phong trào chống Pháp thất bại, người yêu nước liên tiếp hy sinh trên chiến trường. Tuy nhiên, 'Súng giặc nổ, lòng dân rộn ràng'. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã làm sáng tỏ chân lí đó. Ông khóc lóc cho tổ quốc khi bắt đầu gặp gỡ cảm xúc đau buồn:
Khóc là khóc cho đất nước trong tình trạng rối loạn, hướng tới tương lai không rõ ràng; than là than thảm hại cho biên cương mất mát, trong lúc không có ai đứng ra bảo vệ; buồn là buồn cho những góc sân hoang phế, trong khi thị trấn trẻ trâu ngơ ngác.
(Tịch văn Trương Định)
Ông nổi giận và mắng mỏ kẻ thù mặt dày:
Trải dài mảnh đất của chúng ta, nhưng đền đáp cho tổ quốc chỉ là một đống rau ơn;
Ở nơi xa lạ, chỉ còn lại một bát cơm và chiếc áo manh, ông cha chúng ta đã sống như vậy.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Ông tận tâm khen ngợi những người quân sĩ như Trương Định đã dốc lòng vì đất nước, vì nhân dân:
Vì lòng dân không nghe theo sự chỉ dẫn của chính phủ, họ phải chịu đựng sự ngăn cản xa xôi;
Phải chịu sức ép từ quân thù, gánh vác gánh nặng của cuộc sống ở nơi xa xôi.
(Văn tế Trương Định)
Ông dựng tượng đài bất tử về những dân làng, người dân: 'Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn theo giúp cơ bình' (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc). Ngay cả khi thế giới đã 'chuyển đổi bề mặt đất', Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ niềm tin vào ngày mai: 'Một trận mưa làm sạch núi sông' (Xúc cảnh), vẫn duy trì thái độ bất khuất trước kẻ thù: 'Cuộc sống thà gắn cả hai mắt - Tâm hồn đều theo con đường đạo' {Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đáp ứng tốt những yêu cầu của cuộc sống và cuộc chiến đấu trong thời đại đó. Nó có tác dụng khích lệ tinh thần và ý chí cứu nước của dân tộc.
Sắc thái Nam Bộ độc đáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu hiện rõ ở từng nhân vật trong tác phẩm của ông. Mỗi người dân Nam Bộ có thể thấy mình trong các nhân vật của ông qua lời nói, cử chỉ mộc mạc, chất phác, cũng như tấm lòng nặng nề tình yêu và nghĩa khí. Họ sống tự do, không bị ràng buộc bởi quy tắc hay nghi lễ, sẵn lòng hy sinh cho nghĩa vụ của mình. Họ thẳng thắn, mộc mạc nhưng rất giàu lòng tử tế và tình thương. Đó là những đặc điểm riêng biệt của vẻ đẹp chung của người Việt Nam.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Trãi có nhiều điểm tương đồng trong tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Trãi đã thể hiện sự nhân nghĩa dựa trên quyền lợi của nhân dân, nhưng đến Nguyễn Đình Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa đã được mở rộng đến gần gũi hơn với nhân dân. Đó thực sự là một bước tiến lớn trong tư duy.
Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 7
Nguyễn Đình Chiểu là một người yêu nước chân thành, là một nhà văn, nhà thơ tài hoa, và cũng là một bác sĩ tận tâm với nhân dân. Mặc dù mắc bệnh mù ở cả hai mắt từ sớm, nhưng ông không bao giờ ngừng sáng tạo và đã để lại nhiều tác phẩm vĩ đại. Có thể nói rằng tài năng văn chương của Nguyễn Đình Chiểu như một cây thụ lớn mát dài trải ra trên bầu trời văn học Việt Nam thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu sinh vào năm 1822 ở tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho có nguồn gốc từ Thừa Thiên Huế. Cha của ông là Nguyễn Đình Huy, Tổng trấn Gia Định Thành, và mẹ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới.
Trong thời thơ ấu, Nguyễn Đình Chiểu học chữ từ thầy đồ trong làng. Khi cha ông bị sa thải, ông được cha gửi cho một người bạn làm Thái phó ở Huế để tiếp tục học. Nguyễn Đình Chiểu ở Huế từ khi 11 tuổi (1833) đến khi 18 tuổi (1840), sau đó trở về Gia Định. Sau đó, ông lại đi ra Huế chờ thi năm 1849. Năm 1848, mẹ của Nguyễn Đình Chiểu qua đời ở Gia Định. Khi nhận được tin, ông bỏ thi và dẫn em trai trở về Nam để chia buồn. Trên đường về, do quá buồn vì mẹ mất và gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, Nguyễn Đình Chiểu mắc bệnh nặng và mù cả hai mắt. Khi tang mẹ kết thúc, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học và chữa bệnh. Trong thời gian này, ông bắt đầu sáng tác văn chương.
Khi quân Pháp tấn công Gia Định vào đầu năm 1859, Nguyễn Đình Chiểu cảm thấy rất đau đớn khi thấy những gì mà quân Pháp đã làm với dân làng. Ông làm bài thơ 'Chạy giặc' để thể hiện tình cảm xót thương của mình.
Cuộc tấn công của quân Pháp vào đồn Cần Giuộc của nghĩa quân đã thất bại, và nhiều nghĩa sĩ đã hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định, tuyệt vọng trước bi kịch này. Khi Nguyễn Đình Chiểu và gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc) để về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể chịu đựng được, ông làm bài thơ 'Từ biệt cố nhân' để tiễn biệt bạn bè thân thiết. Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, chữa bệnh, và sáng tác văn chương để phục vụ cuộc chiến đấu anh dũng của dân Nam Kỳ suốt hơn 20 năm, dù đã mất khả năng nhìn.
Mặc dù mù lòa nhưng với tình yêu nước và lòng thương xót đối với những người dân đang chịu khổ, Nguyễn Đình Chiểu đã viết nhiều bài văn tế. Ông qua đời vào năm 1888 tại Ba Tri, ở tuổi 66. Hàng chục vạn người từ mọi miền đất nước đều đến tưởng nhớ ông. Lễ tang của ông được tổ chức lớn tại Nam kỳ với sự tham gia của lục tỉnh. Đám tang của ông được coi là sự kiện lớn nhất trong thời gian đó.
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà văn, thầy thuốc, và chiến sĩ, gương mẫu về nghị lực và đạo đức, không ngừng chiến đấu cho lẽ phải, cho quyền lợi của nhân dân. Ông sống theo đạo nghĩa, dù bị mù tối và đối mặt với biến loạn, vẫn giữ được phẩm cách cao quý. Không chỉ là người con hiếu thảo và người thầy mẫu, Nguyễn Đình Chiểu còn là một nhà thơ yêu nước, để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ đầu tiên thành công trong việc xây dựng hình ảnh của người nông dân Việt, tôn vinh anh hùng Nam Bộ trong cuộc chiến chống Pháp. Ông tôn trọng tư tưởng Nho gia, nhưng điều đáng chú ý là tư tưởng ấy chứa đựng đạo đức và trách nhiệm xã hội, khởi đầu cho một thời kỳ văn chương sử thi mới.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương cao đẹp. Thơ văn của ông là ánh sáng của đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước và thành tựu nghệ thuật Nam Bộ.