Thuyết minh về một tác phẩm văn học gồm 27 mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết rất chi tiết. Với 27 mẫu viết bài văn thuyết minh về một tác phẩm văn học được viết rất rõ ràng, sẽ giúp các bạn nhanh chóng nắm bắt kiến thức hơn và cũng tiết kiệm thời gian cho việc tìm kiếm.
TOP 27 bài thuyết minh về 1 tác phẩm văn học được viết rất hay, kỹ lưỡng, chất lượng. Qua đó các em hiểu rõ, biết cách làm bài văn thuyết minh về một tác phẩm mà em yêu thích. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện và nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 10 Kết nối tri thức.
TOP 27 bài Thuyết minh về tác phẩm văn học hay nhất
- Dàn ý thuyết minh tác phẩm văn học
- Thuyết minh Đọc tiểu Thanh kí
- Thuyết minh về tác phẩm Mùa xuân chín
- Thuyết minh Đọc tiểu Thanh kí
- Thuyết minh về bài thơ Đồng Chí
- Thuyết minh tác phẩm Chí Phèo
- Thuyết minh đoạn trích Hồi trống Cổ Thành
- Thuyết minh bài thơ Cảnh ngày hè
- Thuyết minh về Chuyện chức phán sự đền tản viên
- Thuyết minh về tác phẩm văn học - Truyện Kiều
Dàn ý thuyết minh về một tác phẩm văn học
1. Mở đầu:
+ Giới thiệu tên và tác giả của tác phẩm cần thuyết minh
+ Tóm tắt về chủ đề và những đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm.
2. Nội dung chính:
+ Trình bày chủ đề của tác phẩm cần thuyết minh
+ Phân tích tác dụng của một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
3. Kết luận:
+ Tổng kết lại chủ đề và giá trị của những đặc điểm về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
+ Chia sẻ suy nghĩ hoặc cảm xúc về tác phẩm, đồng thời rút ra bài học cho bản thân.
Thuyết minh về tác phẩm Mùa xuân chín
Hàn Mặc Tử (1912-1940) là bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí, một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Ông từng học trung học ở Huế, sau đó làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định và làm báo ở Sài Gòn. Ông phải trở về Quy Nhơn chữa bệnh vào năm 1936 và qua đời vào năm 1940 tại đây vì bệnh phong.
Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử được viết vào năm 1938, thuộc tập Đau thương, được coi là một trong những tác phẩm sáng tạo và tinh tế nhất của ông. Bức tranh thơm ngát mùa xuân được vẽ qua từng câu từ, từng hình ảnh, thể hiện sự tươi trẻ, huyền ảo của mùa xuân.
Tên của tác phẩm “Mùa xuân chín” mang đến cho người đọc cảm giác rất vui vẻ và huyền bí về một mùa xuân tuyệt vời.
Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ được mô tả rất sống động và đẹp đẽ, với sắc xuân tràn ngập khắp nơi.
“Trong ánh nắng sớm, mái hiên lấp lánh
Tấm vàng phản chiếu sắc xuân rực rỡ
Gió nhè nhẹ thổi lướt áo màu xanh biếc
Giữa bầu trời trong xanh. Bóng xuân hiện hữu”.
Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ được mô tả như một bức tranh tĩnh lặng và gần gũi. Đặc biệt, sự “sót soạt” của tiếng gió thổi vào áo, tạo nên âm thanh nhẹ nhàng, đẹp đẽ. Điều này làm nổi bật hơn vẻ đẹp tự nhiên, huyền ảo của mùa xuân. Bên cạnh đó, hình ảnh của giàn thiên lý sau ánh xuân tạo ra một cảnh sắc nét, lôi cuốn, khiến người đọc dễ dàng hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân.
Tác giả sử dụng từ ngữ sống động để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, như “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”, gợi lên hình ảnh một cảnh vật tràn đầy sức sống, giống như câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Sức sống của thiên nhiên cũng chính là sức sống của con người, đều hòa mình vào sức sống mãnh liệt của cuộc sống.
“Cả làng thôn nữ hát vang trên đồi
- Ngày mai trong bức tranh xuân xanh kia
Có người theo chồng, bỏ cuộc chơi”
Mọi người trong làng đều hòa mình vào không khí xuân, đồng thời cũng đang thể hiện sự hạnh phúc của cuộc sống. Hình ảnh những cô gái trẻ đầy sức sống, đẹp như mùa xuân, đang tận hưởng hạnh phúc của cuộc đời, kể cả hạnh phúc khi có một mái ấm gia đình. Tiếng hát của họ lan tỏa khắp nơi, mang theo khát vọng và niềm hạnh phúc của chính họ.
“Trong dòng nắng chiếu rọi bóng trúc
Lắng nghe lời vị và thơ ngây”
Trong vẻ đẹp xuân thời niên thiếu, họ ngồi trò chuyện dưới bóng trúc, chia sẻ tâm tình, lắng nghe nhau. Đây cũng là ước muốn, nỗi tiếc nuối của tác giả, có lẽ anh cũng đang mong chờ người yêu, mong muốn được sống hạnh phúc trong một mùa xuân, được yêu thương và hạnh phúc. Cuối cùng, tác giả biểu đạt nỗi nhớ với câu thơ buồn:
“Khách xa, gặp lúc xuân tươi
Trong lòng bồi hồi nhớ nhà
- Chị ấy, năm nay vẫn gánh bên sông
Dọc bờ sông trắng nắng chan hòa”.
Người khách, trong cảnh đẹp này, làm tác giả nhớ về quê hương. Anh nhớ những chi tiết quen thuộc và thân thương, mong muốn trở về, thăm người phụ nữ ấy. Những kỷ niệm về những ngày bình yên, ấm áp hiện lên trong tâm trí tác giả.
Dù sử dụng thể thơ thất ngôn Đường luật, nhưng tác giả đã làm cho lời thơ trở nên gần gũi, dễ hiểu. Với nhịp thơ 4/3, tác giả không chỉ mô tả được cảnh xuân mà còn diễn đạt tâm trạng của mình. Những hình ảnh trong thơ, kết hợp với những cảm xúc sâu lắng, tạo nên một bức tranh mùa xuân đặc biệt, ẩn chứa nỗi nhớ sâu thẳm của tác giả.
Vì vậy, bài thơ được coi là một tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, thể hiện rõ chất thi sĩ, tâm hồn bay bổng của người luôn khao khát sống và tận hưởng cuộc đời đẹp đẽ, tươi vui, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.
Thuyết minh về việc đọc tiểu Thanh kí
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du chứa đựng nhiều tâm sự về cuộc sống, con người. Đọc Tiểu Thanh kí là một ví dụ. Nguyễn Du muốn chia sẻ nhiều tâm tư với một người con gái sống cách đó hàng trăm năm, thể hiện dự cảm của mình về con người và cuộc sống, vượt qua thời gian.
Nguyễn Du được biết đến là một thi sĩ lớn của dân tộc, một người văn hóa vĩ đại, một nhà nhân đạo sâu sắc có cái nhìn sâu xa và lòng nhân ái bao la.
Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Thơ chữ Hán của ông đơn giản nhưng tinh tế và tài năng. Thơ Nôm của Nguyễn Du thực sự là một tuyệt phẩm. Ông sử dụng hai thể thơ dân tộc lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh) một cách tài tình. Thơ lục bát và song thất lục bát dưới bàn tay của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao, trở thành mẫu mực, cổ điển.
Tiểu Thanh là một người phụ nữ thông minh, tài năng, xinh đẹp nhưng lại gặp phải số phận không công bằng. Cuộc đời ngắn ngủi của nàng đầy biến cố. Những vần thơ cuối cùng của Tiểu Thanh, bị đốt dở, là minh chứng cho số phận không may mắn ấy, khiến Nguyễn Du, một người rất cảm động, không thể kìm lòng khi đọc nó. Nỗi đau lòng đã thúc đẩy thi nhân viết ra những dòng tuyệt phẩm trong Đọc Tiểu Thanh kí.
Đọc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao thượng, sâu sắc của Nguyễn Du. Bài thơ mở đầu bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến động thăng trầm của cuộc sống:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang.
Cảnh đẹp trước kia (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ này xuất phát từ một tục ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành nương dâu). Dù biết rằng: sinh - hoá, trụ - diệt,... là lẽ thường, là quy luật tự nhiên, nhưng sao vẫn thấy lòng xót xa? Đặc biệt là nơi đó liên quan đến cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh, một cuộc đời đầy bi kịch qua những vần thơ bỏ dở.
Đọc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai hé lộ: trong niềm thương tiếc sâu nặng, một mình người viếng đến thăm người đã khuất (độc điếu) qua một tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng đó chính là mảnh hồn của Tiểu Thanh còn lưu lại. Người chết đơn độc, người viếng cũng đơn độc, cùng chia sẻ nỗi đau, tìm kiếm hồn đau của mình. Câu thơ với cách diễn đạt sâu sắc đã vượt qua thời gian và cái chết để tìm thấu hiểu.
Hai dòng thơ mở ra nhiều tầng ý nghĩa:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
“Son phấn” tượng trưng cho vẻ đẹp, còn “văn chương” là biểu hiện của tài năng. Vẻ đẹp và tài năng trong cuộc đời là vĩnh cửu, không mệnh phải tan, nhưng vẫn bị “xôn xao sau hậu”, “lưu lại phần dư”, luôn bị đạp phá, khinh rẻ tàn bạo. Cuộc sống thực sự nhiều bất công, không trọn vẹn.
Hận thương của Tiểu Thanh là hận thương cho số phận, cho tất cả mọi người. Trong nỗi hận thù của Tiểu Thanh còn chứa đựng nỗi hận thù của hàng ngàn người và của Nguyễn Du chính mình. Đó là lòng thương người và lòng thương chính mình. Nỗi hận thù, nỗi đau khổ đó quá khó để trút đi (Cổ kim hận sự thiên nan vấn), chỉ có thể giữ trong lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ này là một kết luận chứa đựng triết lí đầy nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về lý do tại sao Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh với sự da diết như vậy? Nguyễn Du khóc cho người cũng như khóc cho chính mình.
Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi chứa đựng nỗi niềm suy tư, dự cảm sâu thẳm, đau đớn lan tỏa vào lòng người đọc qua các thế hệ:
Chẳng biết ba trăm năm nữa
Người đời có ai khóc cho Tố Như?
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
“Ba trăm năm nữa” đề cập đến một thời gian xa xôi sau khi tác giả qua đời, và cũng sau hơn ba trăm năm sau cái chết của Tố Như. Liệu sau này có ai khóc cho Tố Như, cùng Tố Như khóc cho mỗi số phận người dâu bể? Bài thơ với việc sử dụng hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố Như” ) đã mở ra một “tôi” đơn độc đến cùng cực, một “tôi” tự thương, tự đau. Nguyễn Du thương cho quá khứ, thương cho bản thân và nhiều số phận bất hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho những người sau này phải khóc vì mình (tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc về số phận con người.
Hãy đọc trực tiếp từ bản chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu đau thương cố nén của nó, bạn sẽ hiểu được tiếng lòng của thi nhân. Bài thơ vượt lên trên việc viếng thăm mộ cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn ngập đến hậu thế. Để hiểu và cảm nhận được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ, bạn cần phải đọc và cảm nhận sâu sắc, vì với tài năng của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc, mỗi từ đều có trọng lượng và sức mạnh để tạo ra những cảm xúc sâu trong lòng người.
Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều điều, nhưng những bài thơ được viết ra từ máu và nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được sáng tác bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du chắc chắn sẽ vẫn mãi vững vàng trong tâm trí người đọc.
Thuyết minh về bài thơ Đồng Chí
Chính Hữu, tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926, tại thành phố Vinh, Nghệ An, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng tháng Tám, ông học trung học ở Hà Nội; năm 1946 gia nhập Trung đoàn Thủ đô; 1950 phụ trách Đoàn văn công quân đội; 1953 - 1954 tham gia các chiến dịch Thượng Lào và Điện Biên Phủ; từ 1954 tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.
Bài thơ đầu tiên nổi tiếng của ông là 'Ngày về' (1947), thể hiện ý chí của người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương từ tay giặc Pháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chính Hữu gần như chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Ông sáng tác ít nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, đặc biệt với tập thơ 'Đầu súng trăng treo' (1966).
Bài thơ 'Đồng Chí', viết vào đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu tham gia chiến dịch Thu Đông 1947, đánh bại cuộc tấn công lớn của giặc Pháp vào Việt Bắc. Nhà thơ kể: 'Tôi bị ốm, sốt rét ác tính, nhưng không có thuốc. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm sóc tôi. Sự ân cần của đồng chí đó khiến tôi nhớ đến những lần mẹ, chị chăm sóc khi tôi bị ốm. Đó là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ 'Đồng Chí'. Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của người lính cách mạng, phần lớn xuất thân từ nông dân. Bài thơ cũng tạo ra hình ảnh chân thực, giản dị và cao đẹp của anh bộ đội trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi mà điều kiện sống còn rất khó khăn.
Bài thơ 'Đồng Chí' ra đời trong bối cảnh văn học mới chỉ mới hình thành vài năm, là một trong những thành công sớm nhất của thơ ca kháng chiến. Nó đã mở ra phương thức khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cuộc sống hàng ngày, chân thật và bình dị.
Thuyết minh về tác phẩm Chí Phèo
Chí Phèo của Nam Cao, mặc dù chỉ là một truyện ngắn nhưng lại là tác phẩm sớm nhất và đặc sắc nhất về đề tài nông dân của ông. Nếu Nam Cao được coi là 'nhà văn của nông dân' cùng với Ngô Tất Tố, thì Chí Phèo chính là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng của ông trong việc khắc họa cuộc sống của người dân quê.
Trong khi các truyện ngắn khác của Nam Cao chỉ tập trung vào một khía cạnh nhỏ của đời sống nông thôn, Chí Phèo mở rộng phạm vi để phản ánh không chỉ bức tranh sâu sắc về một làng quê mà còn về cả quá trình phát triển của nó qua thời gian. Làng Vũ Đại trong truyện có thể xem như một biểu tượng thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam thời bấy giờ.
Trong giai đoạn 1940 - 1945, văn học nông thôn vẫn là một chủ đề quan trọng. Các tác giả đã khai thác nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống nông thôn, từ phong tục tập quán đến mâu thuẫn trong gia đình và xã hội.
Trên nền văn học hiện thực của thời kỳ 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện tượng nổi bật. Giống như những tác phẩm khác như Tắt Đèn, Bước Đường Cùng, Giông Tố..., Chí Phèo cũng là một 'bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt'. Tác phẩm này đã tạo ra ấn tượng mạnh với đa dạng và phong phú của cuộc sống xã hội nông thôn.
Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo đã tập trung khai thác mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ và người nông dân, đặc biệt là nhân vật Bá Kiến - biểu tượng của phong kiến thống trị ở nông thôn.
Bá Kiến trong Chí Phèo được Nam Cao xây dựng một cách hoàn chỉnh, với nhiều nét tính cách rõ nét. Ông ta có vẻ ngoài 'rất sang', lối nói ngọt ngào nhưng sắc bén, và cả một 'cái cười Tào Tháo' - tất cả thể hiện sự gian trá của một người cường hào khôn ngoan.
Nam Cao đã vạch khổ cho nhân vật Chí Phèo, một người nông dân bị xã hội hủy diệt tâm hồn và bản ngã, phủ nhận giá trị và tư cách làm người. Chí Phèo sống cuộc đời tối tăm của thú vật, bị loại ra khỏi xã hội loài người, mặc dù anh ta vẫn cố gắng giao tiếp và đối thoại với xã hội nhưng chỉ nhận được sự im lặng đáng sợ.
Truyện Chí Phèo của Nam Cao không chỉ vạch khổ cho người nông dân về vật chất mà còn đi sâu vào tâm hồn, cho thấy sự tuyệt vọng, khốn khổ và cảm giác bị bỏ rơi của họ trong một xã hội đầy bất công và thù địch.
Nam Cao đã tập trung vào việc khai thác bản chất xã hội của nhân vật, đặc biệt trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Ông đã thể hiện sâu sắc các mối quan hệ xã hội ở nông thôn thông qua tác phẩm Chí Phèo.
Mở đầu của truyện đã thể hiện tính cách độc đáo của nhân vật Chí Phèo và tình trạng khốn khổ của một số phận. Chí Phèo là hiện tượng của sự áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam, nơi mà những người lao động bị đè nén thái quá phải chống trả bằng con đường lưu manh.
Chí Phèo là hình tượng điển hình về người nông dân, là biểu tượng cho hiện tượng xã hội bất công và tội ác ở nông thôn.
Hình ảnh Cái lò gạch cũ được sử dụng như một biểu tượng cho sự hiện tượng của Chí Phèo, gắn liền với chủ đề chính của tác phẩm. Mối tình giữa Chí Phèo và Thị Nở mang đến nhiều sự hấp dẫn, nhưng vẫn chứa đựng tư tưởng nhân đạo đầy nghiêm túc và độc đáo.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Nhưng sau gặp gỡ với Thị Nở, sự chăm sóc và lòng yêu thương của người phụ nữ khốn khổ đã giúp anh tỉnh táo và thức tỉnh bản ngã lương thiện của mình. Đoạn viết này thể hiện sự thức tỉnh của Chí Phèo và tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa rất xa xôi đã từng ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Cái hiện tại đáng buồn: già mà vẫn cô độc, cái tương lai còn đáng buồn hơn: đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo bao giờ cũng say, say tận, có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: hắn không biết rằng hắn là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say. Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn rất ngạc nhiên và hết sức xúc động Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho.
Như vậy là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái bản tính tốt ấy của anh Trần trụi giữa bầy sói, anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và sức hút phi thường đó còn được thể hiện rõ trong đoạn văn miêu tả tâm trạng bi kịch của Chí Phèo. Truyện ngắn này ngày càng hấp dẫn khi đi sâu vào nội tâm nhân vật, không chỉ vì cốt truyện hấp dẫn, tính kịch tính cao, mà còn vì sự phát triển đầy bất ngờ của tư duy trong tác phẩm.
Nhiều người coi Chí Phèo như một bi kịch về số phận, nhưng nếu nhìn kỹ, chính từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại cuộc sống nhưng bị từ chối, thì chỉ khi đó, Chí Phèo mới thực sự gặp bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối quyền được làm người.
Khi nhận ra xã hội không công nhận mình, Chí Phèo trải qua đau đớn vô cùng. Hắn lại uống rượu, nhưng điều đáng kinh ngạc là, hôm nay 'hắn càng uống càng tỉnh táo'. Thực ra, dù đã say, nhưng trong tâm trí Chí Phèo vẫn giữ được sự tỉnh táo: nỗi đau về thân phận, và 'hắn ôm mặt khóc rất đắng lòng'. Rồi như để trốn tránh bản thân, trốn tránh nỗi đau, hắn 'lại uống... lại uống... đến khi mất ý thức'. Rồi hắn cầm con dao và đi, vừa đi vừa chửi... như mọi khi. Nhưng hoàn toàn khác biệt: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ hết tội ác của kẻ thù, đã đến trước Bá Kiến 'trợn mắt, chỉ tay vào mặt' lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức tỉnh, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ lòng trung thành của Nam Cao với nông dân, khi thấy người nông dân trong tác phẩm phần lớn xấu xa. Nhưng chính ở những người khổ cực, có bộ mặt và tính cách không mấy 'đáng yêu' đó, thỉnh thoảng ý thức nhân phẩm lại mạnh mẽ hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài có vẻ lơ đãng, gàn dở nhưng lão đã yên bình tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong tình huống khó khăn như vậy. Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi sự nhục nhã đang chờ đợi ông hôm sau, và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương không lời, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện mà không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa gay gắt, chứa đựng phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thảm đầy ấn tượng, làm cho mọi người đều sững sờ và không ngừng suy tư...'Ai cho tôi lành lương?'. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống của mình? Đó là 'một câu hỏi lớn không có câu trả lời, không chỉ Bá Kiến không thể hiểu mà cả xã hội thời đó cũng chưa thể trả lời được. Câu hỏi này được đặt ra một cách đầy ám ảnh, không ngừng trong hầu như toàn bộ tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều tác phẩm của Nam Cao - đặc biệt là Chí Phèo - thuộc vào những trang văn hay nhất của văn học Việt Nam.
Thuyết minh đoạn trích Hồi trống Cổ Thành
Hồi trống Cổ Thành là một phần của hồi thứ 28 trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. La Quán Trung, sinh năm 1330 và mất năm 1400, sống và lớn lên vào cuối thời kỳ nhà Nguyễn đầu nhà Minh. Ông có kiến thức sâu rộng nhưng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng nho giáo, do đó tính cách của ông rất rõ ràng, yêu ghét rõ ràng. Tác phẩm của ông phản ánh tư tưởng nho giáo sâu sắc, với ông, tư tưởng trung quân ái quốc là điều cần thiết được đề cao. Ông nhìn nhận xã hội và chính trị một cách sắc bén và sâu sắc, nhưng không thể tự mình thực hiện, vì vậy ông đặt niềm tin vào tác phẩm. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về đoạn trích Hồi trống Cổ Thành.
Trước khi đi vào nội dung của đoạn trích, chúng ta cùng xem xét một số điểm về tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa. Tác phẩm này dựa trên sự kiện lịch sử thực tế, tập trung vào cuộc đối đầu giữa ba thế lực lớn Ngụy, Thục và Ngô. Tác phẩm có giá trị lịch sử và quân sự lớn, vạch trần tội ác và sự tàn bạo của giai cấp thống trị đối với dân chúng, đẩy họ vào cảnh khốn cùng và bế tắc, do đó trong họ luôn ẩn chứa ước mơ và khát vọng về các vị vua hiền tài có đủ tài năng để dẫn dắt, giải thoát họ khỏi cảnh áp bức, khốn cùng.
Hồi trống Cổ Thành là tên được đặt cho một phần của hồi 28, không phải là toàn bộ hồi 28, được trích từ Tam Quốc diễn nghĩa. Đoạn trích bắt đầu với hai câu thơ:
“ Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa, có nhiều nhân vật anh hùng, nhưng phải kể đến Quan Công và Trương Phi, hai nhân vật này đóng vai trò quan trọng trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành. Đoạn trích mô tả cuộc gặp gỡ, đoàn tụ và giải quyết xung đột giữa hai anh em Quan Công và Trương Phi, đồng thời ca ngợi lòng trung nghĩa và tài năng của cả hai.
Đoạn trích này được chia thành ba phần phù hợp với ba giai đoạn khác nhau. Phần đầu tiên mô tả cuộc gặp giữa Quan Công và Trương Phi. Phần thứ hai là điểm cao trào của xung đột và mâu thuẫn, tiếp theo là phần ba giải quyết mâu thuẫn, hai anh em đoàn tụ.
Cuộc gặp gỡ căng thẳng giữa Quan Công và Trương Phi diễn ra trong tình thế mâu thuẫn. Quan Công đang hộ tống hai người chị dâu đi gặp Lưu Bị và phải vượt qua các cửa ải của tướng Tào. Tào Tháo không cho Quan Công qua cửa ải vì ông xem Quan Công là người hữu dụng và muốn giữ lại cho sau này, nhưng cũng không cho phép bắt giữ Quan Công.
Trong bối cảnh khó khăn đó, Quan Công quyết định giải quyết vấn đề bằng cách giết hết các tướng giặc ở năm cửa ải. Khi đến Cổ Thành, ông biết Trương Phi đang ở đó và rất vui mừng, nhưng Trương Phi luôn nghi ngờ, nghĩ rằng Quan Công đến để bắt và đưa ông cho Tào Tháo. Mặc dù Quan Công và hai người chị dâu cố gắng giải thích, Trương Phi vẫn từ chối mở cửa thành, phỉ báng và đe dọa Quan Công.
Lúc đó, tướng giặc Tào Sái Dương đến, khiến nghi ngờ của Trương Phi tăng lên. Quan Công đã hứa sẽ chặt đầu Sái Dương để chứng minh vô tội. Khi Sái Dương bị chặt đầu sau ba hồi trống, Trương Phi mới tin. Sau khi giải thích, Trương Phi hiểu mọi chuyện và khóc, cúi lạy Quan Công.
Cổ Thành là cửa ải thứ sáu mà Quan Công phải vượt qua, thách thức lòng trung nghĩa. Ở năm cửa ải trước, kẻ thù là tướng giặc, Quan Công dễ dàng đưa ra quyết định diệt trừ, dù gặp nhiều khó khăn. Nhưng ở đây, vấn đề oan ức của Quan Công đặc biệt. Trước sự nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công nhún nhường và cầu xin hai người chị dâu phải phân trần giúp.
Quan Công không vượt ải vì tôn trọng lòng trung nghĩa, ông không coi người em là kẻ thù. Người ta gọi ông là người tuyệt nghĩa, nhưng lòng tín nghĩa với anh em, bạn bè cũng không nên xem nhẹ.
Tác giả muốn thể hiện tài năng và bản lĩnh của Quan Công, người luôn cẩn trọng với lòng trung nghĩa. Tính cách nóng nảy của Trương Phi được đẩy mạnh để tạo ra sự tương phản. Mặc dù đối lập nhau, cả hai đều là những người tài, mong muốn cống hiến cho đất nước.
Đoạn trích gợi lên không khí chiến trận kịch tính giữa Quan Công và Trương Phi. Mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương cũng là yếu tố quan trọng giúp cao trào đạt đỉnh điểm, nó là chìa khóa mở ra nút thắt mâu thuẫn.
Hồi trống là thử thách các bậc trượng phu, là công cụ để Trương Phi phán xét Quan Công. Ba hồi trống cũng là dấu hiệu cho sự hóa giải mọi hiềm khích giữa hai anh em, là ba hồi trống đoàn tụ gia đình.
Đoạn trích này mang đến cảm giác hấp dẫn, lôi cuốn, khiến người đọc như đang chứng kiến mọi sự kiện diễn ra trước mắt. Hồi trống Cổ Thành được xây dựng như một vở kịch chính thống, với nhân vật tự bộc lộ tính cách và bản lĩnh thông qua lời nói và hành động.
Tạo dựng tình huống truyện đầy kịch tính là nghệ thuật, cao trào của truyện được tạo ra từ các mâu thuẫn liên kết với nhau, chúng tác động và thúc đẩy nhau, đưa cao trào đến đỉnh điểm thỏa mãn người đọc.
Hồi trống Cổ Thành trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là bức tranh lịch sử, thể hiện tư tưởng Nho giáo về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tác phẩm này còn được xem là nghệ thuật đánh trận dụng binh với sức ảnh hưởng lớn.
Thuyết minh bài thơ Cảnh ngày hè
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Bài thơ 'Cảnh ngày hè' là bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của ông.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' mở đầu bằng sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè.
Tôi nhớ những ngày thơ ấu học trường, Ngồi dưới bóng cây hòe mát rượi. Những bông hoa lựu đỏ rực hiên nhà, Còn hoa sen hồng đã tiễn mùi hương bay xa. Tiếng cười náo nhiệt ở chợ cá làng Ngư phủ, Và tiếng ve râm ran dưới những tán cây lầu tịch dương.
Nguyễn Trãi tận hưởng những khoảnh khắc ung dung của ngày hè khi ẩn mình, khi không còn ai chú ý đến ông nữa. Bức tranh mùa hè được tô điểm bởi sắc màu rực rỡ: màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của sen, và ánh nắng chiều lấp lánh. Tất cả hòa quyện tạo nên bức tranh mùa hè rất sống động. Nguyễn Trãi không chỉ cảm nhận mùa hè qua mắt mà còn qua tai và cảm nhận tâm hồn của một nghệ sĩ. Ông ngửi thấy mùi hương của sen, và nghe thấy tiếng 'lao xao' của làng chài, 'dắng dỏi' của tiếng ve. Bức tranh mùa hè trở nên sinh động và độc đáo hơn với âm thanh và hương vị. Mặc dù là cảnh hoàng hôn, khi mặt trời đã lặn nhưng mọi thứ vẫn đầy sức sống với những từ ngữ như 'đùn đùn', 'giương', 'phun', 'tiễn', 'lao xao', 'dắng dỏi'. Những từ ngữ này cũng thể hiện lòng trung hiếu và sự ấm áp, muốn lan tỏa yêu thương ra khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, Nguyễn Trãi không tuân theo quy tắc văn học cung đình nữa mà miêu tả cảnh mùa hè với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống hàng ngày.
Hai câu cuối của bài thơ chứa đựng tâm tư và suy nghĩ của Nguyễn Trãi:
'Giống như vua Ngu Thuấn với cây đàn, Tôi mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người.'
Dù tận hưởng cảnh ngày hè với tư thế thoải mái trong một ngày nghỉ nhưng Nguyễn Trãi vẫn không quên lo lắng cho nhân dân và đất nước. Ông nghe thấy tiếng ồn ào, tiếng râm ran của làng chài. Ông quan tâm đến cuộc sống của mọi người. Vì vậy, ông ước mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn để mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' tuân thủ thể thơ thất ngôn bát cú của Đường luật nhưng không theo bố cục: Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Điều này tạo nên nét đặc sắc của một nhà thơ kiệt xuất của Việt Nam. Bài thơ còn chứa hình ảnh hoa lựu gợi nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Du:
'Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông'
Câu thơ của Nguyễn Du tập trung vào tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi thể hiện sự nhiệt huyết. Điều này là minh chứng cho tài năng về thơ văn của Nguyễn Trãi.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn về nghệ thuật. Nó thể hiện vẻ đẹp tinh thần của Nguyễn Trãi, người yêu thiên nhiên, yêu quê hương. Hơn nữa, ông cũng là người có tài năng và lòng nhân ái, luôn quan tâm đến nhân dân và đất nước. Ông mong muốn dùng tài năng của mình để mang lại hạnh phúc cho mọi người, làm cho đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi là một bài học cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước và ý chí cống hiến cho đất nước.
Thuyết minh về Chuyện chức phán sự đền tản viên
Dàn ý thuyết minh về Chuyện chức phán sự đền tản viên
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu vắn tắt về tác phẩm.
II. Nội dung chính:
a. Tác giả:
- Nguyễn Dữ, còn được biết đến với các tên gọi khác như Nguyễn Dư hoặc Nguyễn Tự, sinh và mất vào khoảng đầu thế kỷ XVI, quê gốc ở tỉnh Hải Dương.
- Ông được coi là người đã giới thiệu khái niệm 'truyền kỳ' vào văn học Việt Nam.
- Nguyễn Dữ chỉ để lại một tác phẩm duy nhất là Truyền kỳ mạn lục, bao gồm 20 truyện kỳ khác nhau.
b. Khái niệm truyền kỳ:
- Truyền kỳ là thể loại văn xuôi trung đại kết hợp yếu tố huyền bí và ảo diệu. Trong đó, sự tương tác giữa thế giới của con người với cõi âm, cõi tiên, và sự hiện diện của thần thánh, ma quỷ không chỉ làm cho tác phẩm hấp dẫn mà còn phản ánh các quan niệm cốt lõi trong triết lý của tác giả.
c. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục:
- Truyện kỳ mạn lục gồm 20 truyện viết bằng chữ Hán, xuất hiện khoảng nửa đầu thế kỷ XVI với nhiều yếu tố huyền bí, ảo diệu.
- Nội dung chính của Truyền Kỳ Mạn Lục là phản ánh thực tế xã hội phong kiến đương thời thối nát, thể hiện sự đồng cảm với số phận khốn khổ của người dân, đặc biệt là phụ nữ. Tác phẩm ca ngợi phẩm cách, đạo đức, trí tuệ của con người, ủng hộ quan điểm 'lánh đục về trong' của danh sĩ đương thời, cũng như phản ánh ước mơ, niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện.
d. Tóm tắt Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tự tóm tắt).
e. Nội dung cốt lõi của tác phẩm:
* Sự kiên định chính nghĩa của nhân vật Ngô Tử Văn:
- Sự kiên định chính nghĩa của Ngô Tử Văn được thể hiện qua thái độ và hành động quả cảm khi đốt đền của yêu quái, đương đầu với lời đe dọa của ác thần.
- Ngô Tử Văn bình tĩnh đối mặt với việc bị bắt về cõi âm ti, đối diện với quỷ ác và không gian rùng rợn.
- Sự chính trực, ngay thẳng, dũng cảm của Ngô Tử Văn được thể hiện qua cuộc đấu tranh, làm sáng tỏ sự oan ức của mình trước Diêm Vương.
- Kết quả: Ngô Tử Văn giành chiến thắng, mang lại yên bình cho nhân dân, minh oan cho mình, trả lại ngôi đền cho Thổ thần và được bổ nhiệm làm tiên, trở thành chức phán sự đền Tản Viên.
=> Khẳng định niềm tin chắc chắn sẽ đánh bại tà ác. Ngô Tử Văn cũng là biểu tượng của tinh thần anh hùng của dân tộc Việt Nam, chiến thắng kẻ thù xâm lược, tôn vinh lòng dũng cảm, sức mạnh của nhân dân trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm và đấu tranh chống lại sự ác độc.
* Ngụ ý phê phán:
- Tướng giặc khi sống làm quân xâm lược, khi chết trở thành yêu quái quấy rối dân lành. Hành động từ đầu đến cuối của họ chứa đựng ý đồ xâm lược tàn bạo, xứng đáng bị trừng phạt, tiêu diệt.
- Phản ánh sự bất công trong xã hội phong kiến thối nát, qua việc tướng giặc hối lộ thánh thần, trong khi lực lượng thi hành công lý như Diêm Vương lại bị mù mắt.
f. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, bắt đầu bằng tình tiết mới lạ, xây dựng cao trào truyện đầy kịch tính logic, với các khúc mắc và cách giải quyết hợp lý, làm hài lòng người đọc.
- Yếu tố kỳ ảo được thêm vào một cách khéo léo để làm nổi bật chủ đề và nội dung của câu chuyện, đồng thời mô tả rõ ràng tính cách của nhân vật.
III. Kết bài:
- Tóm tắt và đánh giá.
Thuyết minh về Chuyện chức phán sự đền tản viên - Mẫu 1
Trong kho tàng văn học Việt Nam, có nhiều tên tuổi nổi tiếng. Một trong số đó là Nguyễn Dữ, người đã để lại dấu ấn với 'Truyền kỳ mạn lục'. 'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' ca ngợi tính cách dũng cảm, kiên cường, chính trực của Ngô Tử Văn - một trí thức Việt Nam.
'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' thuộc thể văn xuôi truyền kỳ, viết bằng chữ Hán. Văn xuôi truyền kỳ sử dụng yếu tố kỳ ảo để phản ánh hiện thực cuộc sống, với nhân vật đa dạng như người, ma quỷ, thần thánh,...
'Truyền kì mạn lục' xuất hiện vào thế kỷ XVI, thời điểm xã hội Việt Nam đang suy thoái, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị. Nguyễn Dữ viết bộ truyện này để phản ánh tình hình xã hội và thể hiện quan điểm sống của mình.
Nội dung truyện kể về Ngô Tử Văn, một người chính trực, dũng cảm. Chàng châm lửa đốt đền để trừ hại cho dân, sau đó bị tên hung thần đe dọa.
Sau khi đốt đền, Tử Văn bị sốt và thấy tên hung thần đòi trả lại đền. Chàng bị đe dọa sẽ bị bắt xuống âm phủ.
Vào chiều tối, Thổ thần tỏ ra cảm phục trước hành động dũng cảm của Tử Văn, mách bảo về tung tích và tội ác của tên hung thần, đồng thời chỉ dẫn cách đối phó.
Vào đêm, khi bệnh trở nặng, Tử Văn thấy hai tên quỷ sứ đến bắt chàng xuống âm phủ. Trước Diêm Vương, Tử Văn tố cáo tội ác của tên hung thần với đầy đủ chứng cứ. Cuối cùng, công lý được khôi phục, Diêm Vương trừng trị tên hung thần (đem nhốt vào ngục Cửu U), cho Thổ thần được phục chức, sai lính đưa Tử Văn về trần gian. Một tháng sau, Tử Văn nhận được sự cảm ơn từ Thổ thần và được tiến cử giữ chức phán sự đền Tản Viên.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên phản ánh gian tà của những kẻ 'chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Nguyễn Dữ lên án bộ phận quan lại đương thời, tố cáo mạnh mẽ hiện thực đầy bất công, và bênh vực cho kẻ gian tà. Truyện kết thúc có hậu, thể hiện truyền thống nhân đạo, chính nghĩa của nhân dân.
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Dữ kết hợp khéo léo yếu tố ảo và thực trong truyện để truyền tải nội dung. Thế giới âm cung, bóng ma, người chết sống lại, cõi âm và dương đều làm nên yếu tố kỳ ảo cho câu chuyện, nhưng cũng đồng thời mang yếu tố thực của một câu chuyện cụ thể. Kỳ ảo và hiện thực kết hợp khiến câu chuyện hấp dẫn, sâu sắc.
Với cốt truyện kịch tính, nhân vật sắc nét, ngôn ngữ trau chuốt, truyện ca ngợi nhân vật Ngô Tử Văn, một trí thức Việt kiệt xuất, nhân cách cao đẹp, niềm tin vào công lý.
Với những giá trị ấy, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trở thành một tác phẩm nổi bật trong thời kỳ văn học trung đại Việt Nam, góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Dữ. Rất nhiều năm sau, tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị.
Chuyện chức phán sự đền tản viên - Mẫu 2
Cùng với các thể loại truyện cổ tích, truyền thuyết, truyền kỳ cũng là một trong những thể loại được yêu thích trong văn học dân gian Việt Nam. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ cũng là một trong số những truyền kỳ phổ biến mang nội dung như vậy.
Nguyễn Dữ, còn được gọi là Nguyễn Dư hoặc Nguyễn Tự, sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, quê ở tỉnh Hải Dương. Ông được xem là người đã đưa khái niệm 'truyền kỳ' tiến vào văn học của Việt Nam, mở ra một hướng đi cho thể loại này trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông để lại duy nhất tác phẩm Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyền kỳ khác nhau.
Khái niệm truyền kỳ là để chỉ các tác phẩm văn xuôi trung đại có các yếu tố hoang đường kì ảo, với sự xuất hiện của thánh thần, ma quỷ làm tăng sức hấp dẫn của tác phẩm, đồng thời góp phần phản ánh các nội dung cốt lõi trong quan niệm của tác giả.
Truyền kỳ mạn lục là một tập truyện gồm có 20 truyện khác nhau được viết bằng chữ Hán, chứa nhiều yếu tố hoang đường kì ảo. Tác phẩm được đánh giá cao về giá trị nhân đạo, hiện thực sâu sắc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong số 20 truyện của tập Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện vạch trần hiện thực xã hội phong kiến đương thời, ca ngợi vẻ đẹp phẩm cách, đạo đức, trí tuệ của con người, và phản ánh ước mơ, niềm tin của nhân dân về chân lý cái thiện luôn chiến thắng cái ác.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên thể hiện sự kiên định chính nghĩa của nhân vật Ngô Tử Văn, và ngụ ý phê phán sâu sắc cái ác trong xã hội. Tác phẩm cũng ca ngợi tinh thần dân tộc trong cuộc chiến với giặc ngoại xâm.
Truyện kể về việc Ngô Tử Văn đấu tranh chống lại yêu quái chiếm đền của Thổ thần, và cuộc đấu tranh của chàng trong cõi âm ti để minh oan cho bản thân. Cuối cùng, chàng sống lại, trở về đền Tản Viên giữ chức phán sự.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, xây dựng truyện đầy kịch tính lô-gíc, và khéo léo đưa yếu tố kì ảo hoang đường vào để nổi bật chủ đề. Truyện cũng đem đến cảm giác khách quan với quan điểm, tình cảm của người viết thông qua hành động của nhân vật.
Thuyết minh về Chuyện chức phán sự đền Tản Viên - Mẫu 3
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một tác phẩm thành công trong việc xây dựng hình tượng người trí thức Việt Nam cương trực chống lại cái ác và gian tà, góp phần làm nên sức sống của Truyền kì mạn lục.
Tác giả Nguyễn Dữ sống vào cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, là người Gia Phúc, Hồng Châu, Hải Dương. Ông thi đỗ Hương tiến và từng làm quan ở Thanh Tuyền, nhưng sau rút lui về ẩn dưỡng mẹ già. Truyền kì mạn lục được cho là được viết trong thời gian ông ở chốn lâm tuyền.
Truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên thuộc thể loại truyền kỳ, mang đậm chất dân gian, hiện thực và nhân văn sâu sắc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được rút từ tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời ở nửa đầu thế kỉ XVI. Tác phẩm vạch trần hiện thực xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi tinh thần dân tộc và phẩm chất của người trí thức.
Nhân vật chính trong truyện là Ngô Tử Văn – một người kiên định, chính trực, không thể chịu đựng được sự gian tà. Tức giận với tên quái là tướng giặc họ Thôi đã chiếm đền của Thổ Công để làm hại dân lành, Tử Văn đã đốt ngôi đền đó. Sau đó, Tử Văn mắc bệnh và qua đời. Trong giấc mơ, chàng đã gặp bách hộ họ Thôi đến đòi xây lại ngôi đền, nếu không hắn sẽ kiện tới Diêm Vương. Thổ Công cũng xuất hiện để nói rõ sự thật và chỉ cho chàng cách đối phó với yêu quái. Tử Văn đã mất, linh hồn chàng đưa xuống gặp Diêm Vương. Ở đó, Tử Văn đã khẳng định quyết tâm của mình để vạch trần bộ mặt giả dối của tên tướng giặc. Mặc dù bị đe dọa, vu cáo, sỉ nhục, nhưng Tử Văn vẫn kiên cường để bảo vệ cho lẽ phải. Cuối cùng, Tử Văn nhận được chức phán sự ở đền Tản Viên, trở thành người bảo vệ công lý.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên ca ngợi Ngô Tử Văn – một người trí thức Việt yêu nước, dũng cảm, chính trực, chống lại gian tà, bảo vệ thổ thần đất Việt. Hành động của chàng không chỉ là sự liều lĩnh mà còn là sự cương trực muốn vì dân mà trừ hại. Đồng thời, hành động đó còn mang tinh thần dân tộc cao cả, bảo vệ cho đền thờ của một vị tướng đã có công với nước. Tính cách ngay thẳng của Ngô Tử Văn được thể hiện nhất quán trong nhiều tình huống thách thức. Thái độ ủng hộ của tác giả với Tử Văn được bộc lộ trực tiếp ở lời kết cuộc tác phẩm: kẻ sĩ phải dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu để bảo vệ công lý.
Tác phẩm cũng thể hiện ước mơ công lí, niềm tin vào chiến thắng của cái thiện với cái ác. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc có một kết thúc có hậu như trong chuyện cổ tích: người thiện cuối cùng chiến thắng, kẻ gian bị nhốt vào ngục Cửu u. Nhận chức phán sự, Tử Văn trở thành người bảo vệ công lý, điều mà nhân dân luôn mong muốn.
Đặt trong bối cảnh lịch sử của thời Nguyễn Dữ, khi chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn, nội chiến Lê – Mạc xảy ra, truyện còn phản ánh thực tế sâu sắc. Thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện phần nào phản ánh thế lực cường quyền phong kiến hãm hại dân lành. Đồng thời, truyện cũng lên án lũ giặc ngoại xâm đã chết vẫn còn quấy nhiễu nhân dân.
Thuyết minh về tác phẩm văn học - Bình Ngô Đại Cáo
Dàn ý thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo
I. Mở bài:
- Tổng quan về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, bao gồm tác giả, giá trị nghệ thuật và nội dung.
II. Thân bài:
- Đặt vấn đề chính: Nhân nghĩa là cốt lõi, với ý nghĩa chính là bảo vệ dân và loại trừ bạo lực. Nhân nghĩa không chỉ giới hạn trong phạm vi tư tưởng Nho giáo mà còn mở ra làm thế nào để đảm bảo cuộc sống bình yên cho toàn bộ cộng đồng. Ngoài ra, tác phẩm còn khẳng định rằng dù là một nước nhỏ nhưng Việt Nam vẫn có thể tự hào về:
+ Văn hoá lâu đời và phong phú.
+ Địa lý đa dạng và đẹp mắt.
+ Phong tục tập quán đa dạng và độc đáo.
+ Lịch sử và hệ thống chính trị đặc biệt.
- Bản cáo trạng chiếu sáng sự tàn ác của kẻ thù: Giặc Minh tàn bạo lợi dụng tình hình hỗn loạn để thực hiện hành vi đê tiện. Họ không chỉ tàn sát và tra tấn dã man mà còn cướp đoạt mạng sống của dân lành một cách tàn bạo (minh chứng).
- Đánh giá kết quả kháng chiến:+Xây dựng hình ảnh anh hùng bình dân với tinh thần yêu nước và thương dân, căm ghét kẻ thù sâu sắc, mang trong mình lý tưởng cao cả (so sánh với Trần Quốc Tuấn để thấy rõ lòng căm hận đối với giặc và lòng tin kiên định).
+ Mô tả những chiến công oanh liệt và hùng tráng (minh chứng).
- Tuyên bố hòa bình mở ra thời kỳ mới.
* Nghệ thuật:
- Sử dụng từ ngữ tự nhiên, phong phú.
- Sử dụng biện pháp so sánh, lấy ví dụ về sự vô biên của trúc Nam Sơn để nói về sự vô biên của tội ác của giặc Minh, lấy ví dụ về sự vô tận của nước Đông Hải để nói lên sự dơ bẩn vô cùng của chúng.
- Phong cách tạo hình nhân vật.
- Sử dụng liệt kê, so sánh và đối lập để tạo nên một bản anh hùng ca về những chiến công hùng hậu.
III. Kết bài:
- Tóm tắt nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 1
Trong văn học ca ngợi truyền thống yêu nước của Việt Nam, 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được đánh giá cao, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, luôn được người Việt yêu thích và tự hào.
'Bình Ngô đại cáo' do Nguyễn Trãi viết khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của Lam Sơn thắng lợi, Minh phải rút quân về nước, nước ta bảo toàn được độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và cũng là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của Việt Nam thời trung đại.
'Bình Ngô đại cáo' được viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo chính sách, sự kiện quốc gia, công bố trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa là bài cáo tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi để chỉ giặc Minh). Bài cáo có cấu trúc chặt chẽ, viết theo lối biền ngẫu, sử dụng hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc.
Đoạn thứ hai của bài cáo phơi bày, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: 'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ'; 'Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm'. Đoạn văn ngập tràn ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu 'Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội', 'Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu', 'lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều'…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước 'Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống', biết đoàn kết lòng dân 'Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào', dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành 'Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh'và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội 'Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông', giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài cáo kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
'Đại cáo bình Ngô' của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…'
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 2
Nguyễn Trãi là một tác giả lớn của văn học trung đại Việt Nam, để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Tuy nhiên, văn chương của ông cũng chịu số phận thăng trầm như con người – phải trải qua nhiều biến cố. Trong số đó, “Bình Ngô đại cáo” viết sau chiến thắng năm 1427, tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống xâm lược, đặc biệt nêu cao giá trị văn hóa của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hùng hồn và lời văn sâu sắc, tác phẩm trở thành một tác phẩm vĩ đại.
Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản, viết theo thể cáo – thường dùng để thông báo sự kiện quan trọng của quốc gia, dân tộc. Nguyên tác viết bằng chữ Hán, và được dịch sang tiếng Việt ngày nay. Tác phẩm giữ một vị trí quan trọng về phương diện lịch sử lẫn phương diện văn học. Ức Trai viết tác phẩm vào đầu năm 1428, sau chiến thắng, nước ta bảo toàn độc lập, hòa bình.
Bài cáo xoay quanh các cảm hứng như: chính nghĩa, căm thù giặc xâm lược, khởi nghĩa Lam Sơn, độc lập dân tộc và tương lai đất nước. Với bốn cảm hứng đó, bài cáo thường được chia thành bốn phần. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa. Phần 2 là tố cáo tội ác của giặc. Phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm nền tảng để triển khai nội dung bài cáo. Tiếp thu từ tinh thần Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu ra một luận đề có tính dân tộc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Với Nguyễn Trãi, ưu tiên hàng đầu là “trừ bạo” để nhân dân được sống trong yên bình, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng, để cai trị thiên hạ, cần phải tuân theo “nhân nghĩa” trước tiên. Cuộc chiến của dân tộc ta chống xâm lược là một hành động nhân nghĩa, phù hợp với nguyên lý chính nghĩa. Sau đó, tác giả khẳng định sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, sự tồn tại này được củng cố từ lịch sử:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Ở phần thứ hai - cảm hứng căm thù giặc xâm lược, Nguyễn Trãi biểu đạt lòng uất hận cao cả, viết ra một bản cáo trạng đầy sức mạnh với trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tàn bạo. Thông qua việc phân tích tế nhị “phù Trần diệt Hồ”, tác giả sâu sắc đi vào những hành động không nhân, diệt chủng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Tội ác của chúng được ghi lại vô cùng, vô hạn:
“Trúc Nam Sơn không đủ chứa tội ác khủng khiếp
Nước Đông Hải không đủ rửa sạch ô uế bẩn”
Ở phần 3, với nguồn cảm hứng phong phú, Nguyễn Trãi đã mô tả lại quá trình khó khăn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Những khó khăn ban đầu đã dẫn đến chiến thắng sau này. Cảm hứng anh hùng lan tỏa khắp đoạn văn. Những chiến công hùng vĩ được mô tả sôi nổi. Nhạc điệu sảng khoái, hào hùng như sóng biển:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi không che giấu niềm vui chung của dân tộc, truyền đạt lời tuyên bố của Lê Lợi về sự vững bền của nền độc lập:
“Từ đây, độc lập vững bền
Giang sơn từ đây thay đổi
Quyết tâm đến cùng, không lùi bước
Hòa bình sáng ngời, không xa xôi”
Từ đó, ta thấy được tương lai huy hoàng, rạng ngời của quê hương non sông. Hiện thực hiện nay là kết quả của những nỗ lực đau khổ trong quá khứ “Mãi mãi thời bình vững vàng”. Lời kết thúc “Xa gần ai cũng biết/ Niềm vui chia sẻ” thể hiện sự hân hoan, tự hào và niềm tin vào ngày mai, vào tương lai của đất nước.
Bản tuyên ngôn đã thành công trong việc thể hiện đặc điểm của thể loại. Đồng thời, sự thay đổi linh hoạt trong từng phần, từ sự uất hận đến sự hào hùng mãnh liệt, từ sự cuồn cuộn như sóng biển trong văn học - lịch sử, để lại ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, về truyền thống của Nguyễn Trãi đã làm cho tác phẩm trở nên thuyết phục, hấp dẫn hơn.
“Bình Ngô đại cáo” được xem là tuyên ngôn về độc lập của dân tộc, lên án tội ác của giặc Minh và khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Mặc dù đã trải qua nhiều biến cố, nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn còn nguyên cho đến ngày nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự, nhà chính trị, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được ghi nhận trong lòng người Việt.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 3
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả lớn, tiêu biểu của văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được lòng yêu nước, lòng nhân ái và tình yêu thiên nhiên của tác giả. “Bình Ngô đại cáo” thể hiện sâu sắc tư tưởng đó của Nguyễn Trãi.
Trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, sau khi đánh bại quân Minh, Vương Thông đã buộc giặc phải rút quân về nước, đem lại độc lập cho đất nước. Nguyễn Trãi đã viết 'Bình Ngô đại cáo' như một tuyên ngôn độc lập.
'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được viết bằng thể cáo, một thể loại văn học lớn, thể hiện sự chặt chẽ và thuyết phục. Đây là tác phẩm tuyên bố độc lập của dân tộc.
Tác phẩm được chia thành bốn phần, với cấu trúc rõ ràng. Nguyễn Trãi nêu lên luận đề chính nghĩa và tái hiện lại những tội ác của kẻ thù một cách sinh động.
Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, tác giả vạch rõ tội ác của kẻ thù, đồng thời làm nổi bật ý chí và lòng căm thù của nhân dân.
Tác giả tái hiện chiến đấu của quân và dân ta với nhiều khó khăn, vất vả và sự tất thắng cuối cùng. 'Bình Ngô đại cáo' là tác phẩm kết thúc bằng lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc.
Bài cáo 'Bình Ngô đại cáo' để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi thành công về nghệ thuật, kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và văn chương, cùng với giọng điệu linh hoạt, đa dạng.
'Bình Ngô đại cáo' là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam, là tuyên ngôn độc lập của dân tộc anh hùng, bất khuất.
Thuyết minh về 'Bình Ngô đại cáo' - Mẫu 4
Trích từ 'Nước Đại Việt ta' của Nguyễn Trãi: 'Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có'.
Nước và lửa luôn đối lập nhau, tạo thành ngữ 'khác nhau như nước với lửa'.
Dẫu biết rằng nước có thể dập lửa, nhưng khi lửa mạnh cháy lớn, nước lại có hạn thì biết cái nào át cái nào? Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam. Thế mới biết mạnh yếu là vô chừng, mạnh yếu còn phụ thuộc vào hoàn cảnh phụ thuộc vào thời gian. Đất nước ta cũng vậy, có lúc mạnh nhưng cũng có lúc yếu. Nhưng dù mạnh hay yếu, thời nào dân tộc ta cũng không thiếu những anh hùng hào kiệt. Và anh hùng hào kiệt chính là những người đã làm nên đất nước. Với quan niệm nhân văn đúng đắn và tiến bộ ấy, trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”), Nguyễn Trãi đã khẳng định đất nước ta:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Nhưng cũng không ít khi do vua quan hưởng lạc nên nước ta suy yếu để kẻ thù phương Bắc lăm le dòm ngó. Song đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong áng hùng văn của mình là nước ta không đời nào không có anh những anh hùng hào kiệt. Ta có thể nhận thấy điều đó qua thực tế dựng nước giữ nước bốn ngàn năm của dân tộc.
Từ buổi sơ khai lịch sử trước công nguyên, chúng ta đã được nghe nhắc đến những vị nữ nhi nhưng không phế “thường tình”chút nào đó là Bà Trưng, Bà Triệu – những vị anh hùng đã có công đánh đuổi quân thù giành lại độc lập cho đất nước. Hay Ngô Quyền trí dũng song toàn đã từng đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng lịch sử vào năm 938. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.
Đó là chuyện xưa, còn ngày nay thì sao? Người xứng đáng để dân tộc ta ngưỡng mộ đầu tiên phải kể đến Hồ Chủ Tịch vĩ đại, người đã chèo lái con thuyền Việt Nam cập bến vinh quang. Không chỉ giỏi về quân sự, Người còn là nhà ngoại giao, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được nhiều người nể phục. Trợ thủ đắc lực bên cạnh Bác phải kể đến đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà quân sự đại tài đã chỉ huy thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ khiến nhân nhân dân thế giới phải khâm phục nể vì. Trong lĩnh vực y học ta không thể không nhắc tới bác sĩ Tôn Thất Tùng đã thành công trong cấy ghép gan khô và trở thành bác sĩ mổ gan giỏi nhất thế giới. Về lĩnh vực âm nhạc, gần đây ta có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với hơn 600 ca khúc các loại, được mệnh danh là Mô-da của Việt Nam.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta có thể tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được trao giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.
Những người tài cao chí lớn sẽ làm cho dân tộc ta vẻ vang, cho đất nước vẻ vang. Trần Hưng Đạo đã lãnh đạo quân ta đánh bại quân Mông Nguyên khiến châu Á gần như bị chúng chiếm đóng hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo dân ta đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật, để lại dấu ấn rạng danh đất nước. Giáo sư Ngô Bảo Châu đã nói rằng ông cảm thấy tự hào khi cầm trên tay hộ chiếu Việt Nam.
Để giúp đất nước, tuổi trẻ chúng ta cần trở thành những người tài cao chí lớn. Để làm điều đó, từ bây giờ chúng ta cần phải học hành, tìm hiểu những kiến thức mới phù hợp với thời đại. Nhờ những công lao của những người như Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng ta có quyền tự hào ngày hôm nay.
Đã 600 năm trôi qua kể từ vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi đã ra đi với bức tượng anh hùng vì cứu nước. Câu nói 'Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có' vẫn đúng cho đến ngày nay.
Giới thiệu về tác phẩm Truyện Kiều
Truyện Kiều là một tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam, được viết bởi Nguyễn Du vào thế kỷ 19. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ viết theo thể lục bát, thể thơ đặc trưng của dân tộc.
'Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn...' là những câu thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam, thể hiện sự quan trọng của Truyện Kiều đối với văn học nước nhà.
Những câu thơ trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? của Tố Hữu khẳng định giá trị trường tồn của Truyện Kiều trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều không chỉ là câu chuyện của Thúy Kiều mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, nghị lực và tình yêu thương.
Truyện Kiều có tên là Đoạn trường tân thanh, ý chỉ tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Nguyễn Du lấy cảm hứng từ hai câu chuyện cổ Trung Quốc để đặt tên cho tác phẩm của mình, thể hiện sự đau khổ, hy sinh và tình mẫu tử trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều với mục đích mang đến một cái nhìn mới về vẻ đẹp và tinh thần của người phụ nữ Việt Nam. Tác phẩm không chỉ đơn thuần là một bài thơ dài mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, thể hiện sự sáng tạo và tâm hồn sâu sắc của tác giả.
Truyện Kiều kể về cuộc đời đầy bi thương của Thúy Kiều sau khi cô bị bán mình chuộc cha. Truyện tập trung vào sự lưu lạc của Kiều và những đau khổ, hy sinh mà cô phải chịu đựng để bảo vệ trinh tiết và tình yêu của mình.
Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều để phản ánh sự thối nát của xã hội phong kiến và sức mạnh của tiền bạc. Tác phẩm là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của người thống trị và lòng nhân ái của con người.
Truyện Kiều cũng là câu chuyện về sự truân chuyên, lênh đênh của một người con gái tài sắc. Kiều luôn khao khát được sống hạnh phúc và trở về nhà, nhưng số phận luôn đẩy cô vào những tình huống đau thương, đen tối.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm ước mơ về tình yêu tự do và công lý. Câu chuyện về Kiều và những nỗ lực, hy sinh của cô để tìm kiếm hạnh phúc cá nhân cũng như công bằng xã hội được thể hiện rất rõ trong tác phẩm.
Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều không chỉ để kể câu chuyện bi thương của một người phụ nữ mà còn để gửi gắm ước mơ về tình yêu tự do và công bằng xã hội. Từng chi tiết trong tác phẩm đều thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của tác giả trong việc phê phán xã hội phong kiến thời đó.
Truyện Kiều cũng là biểu hiện tinh thần và tâm hồn sâu xa của Nguyễn Du, với sự hiểu biết sâu rộng về con người và cuộc sống. Nguyễn Du đã đặt trái tim mình vào từng câu chữ, từng cung bậc cảm xúc của nhân vật, để đem đến cho độc giả một tác phẩm đầy cảm xúc và ý nghĩa.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một thế giới văn học phức tạp, phong phú, thể hiện sự đầu tư và tâm huyết của tác giả. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện của Thúy Kiều mà còn là tác phẩm của chính Nguyễn Du, với tâm hồn được khám phá và thể hiện qua từng dòng văn.
Để hiểu rõ hơn về tác phẩm văn học, bạn có thể tải file tài liệu để tham khảo Thuyết minh về tác phẩm văn học. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học kinh điển mà còn là một tác phẩm mang tính nhân văn sâu sắc, đáng để tìm hiểu và suy ngẫm.