Văn mẫu lớp 11: Dàn ý thuyết minh về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du cung cấp một mẫu dàn ý chi tiết và đầy đủ nhất để các bạn học sinh tham khảo.
Tham khảo dàn ý thuyết minh về Đọc tiểu Thanh kí sẽ giúp các bạn học sinh có thêm nhiều tài liệu hữu ích, giúp họ củng cố kiến thức, làm chủ ngôn ngữ để viết bài thuyết minh về một tác phẩm văn học. Bên cạnh đó, các bạn cũng có thể xem thêm dàn ý thuyết minh về các tác phẩm văn học khác.
Dàn ý thuyết minh về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí
I. Phần mở đầu
1. Nguyễn Du – nhà văn vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhà thơ hiện thực và nhân đạo vĩ đại nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà còn được biết đến với những bài thơ viết bằng chữ Hán tinh tế.
2. Bộ thơ “Thanh Hiên thi tập” là tuyển tập những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện lòng bi thương sâu sắc của Nguyễn Du đối với số phận của con người – nạn nhân của hệ thống phong kiến.
3. Trong số các tác phẩm của Nguyễn Du, Độc Tiểu Thanh kí nổi bật với sự tương tư sâu sắc, thể hiện triết lý nhân đạo cao cả của nhà thơ, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
II. Phần chính
A/ Phương hướng phân tích :
1. Độc Tiểu Thanh ký có ý nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký” của cô gái Tiểu Thanh. Đó là một câu chuyện có thật, diễn ra ở thời đại Minh (Trung Quốc) cách đây 300 năm. Tiểu Thanh là một cô gái tài năng và xinh đẹp, nhưng bị ghen tuông bởi vợ cả và bị trục xuất đến sống ở Cô Sơn gần Hồ Tây. Buồn bã, cô mắc bệnh và qua đời, để lại một tập thơ. Tuy nhiên, vì ghen tuông, vợ cả đã đốt cháy tập thơ đó, chỉ còn lại một số bài thơ được gọi là “phần dư”. Câu chuyện của Tiểu Thanh đã gây ra sự đau đớn sâu sắc trong lòng Nguyễn Du.
2. Sự kiện này là nguồn cảm hứng chính trong toàn bài thơ, được thể hiện qua hình thức của thể loại thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự tiếc nuối cho số phận bi thảm của Tiểu Thanh, mà còn là sự than thở về cuộc sống khó khăn của chính mình. Dù là những cảm xúc về một cuộc đời bi kịch từ cách đây ba trăm năm, nhưng thực tế cũng là tâm trạng của nhà thơ trước thời cuộc.
B/ Chi tiết :
1. Hai câu mở đầu : Hai câu đầu tiên của bài thơ giúp người đọc hình dung ra bức tranh của nhà thơ trong khoảnh khắc gặp gỡ với cảm xúc của Tiểu Thanh :
Hồ Tây nước trong veo khơi sâu
Chỉ thơm hương ngọc vẻ độc đào
(Tây Hồ vẻ đẹp kết hợp với gò hoang
Thổn thức bên bờ sông, mảnh giấy phai màu)
a) Hai câu thơ dịch đã tránh việc mất đi ý nghĩa gốc, nhưng cũng làm giảm súc tích của câu thơ gốc bằng cách sử dụng từ ngữ phong phú hơn. Nguyễn Du không muốn mô tả cảnh đẹp của Tây Hồ mà chỉ mượn sự biến đổi của không gian để thể hiện một cảm nhận về sự thay đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt này không chỉ mô tả thực tế mà còn gợi lên ý nghĩa tượng trưng. “Tây Hồ vẻ đẹp” (vườn hoa Tây Hồ) gợi nhớ cuộc sống yên bình của Tiểu Thanh ở vườn hoa gần Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Quốc. Tuy nhiên, ý nghĩa tượng trưng được cụ thể hóa qua mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Trong quan điểm của Nguyễn Du, mọi biến động của thế giới đều có thể gây xúc động. Điều này đã được thể hiện trong “nỗi niềm bãi bể nương dâu” mà chúng ta đã biết từ Truyện Kiều. Nhìn về quá khứ để nhớ lại, câu thơ kể lại một câu chuyện đau lòng về vẻ đẹp chỉ còn lại trong quá khứ.
b) Trong không gian u tối ấy, con người hiện ra với hình dạng cô đơn, như làm bừa hết cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Như một mình, nhà thơ đang trầm ngâm đọc một cuốn sách (chỉ một cuốn thư). Một mình đối diện với tiếng lòng của Tiểu Thanh cách đây 300 năm, câu thơ cho thấy cảm xúc trang trọng và tôn trọng đối với sự trăn trở của Tiểu Thanh. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự trầm tư sâu sắc trong sự cô đơn. Cách diễn đạt này cũng phản ánh sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là biểu hiện của sự thương cảm với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như bản dịch, mà là nước mắt lặng lẽ thấm vào trong tâm hồn nhà thơ.
2. Hai câu thực :
Hai câu sau đã làm rõ cảm giác buồn thương ngậm ngùi trong hai câu đề :
Son phấn mang hồn linh, văn chương kề bên phần dư
(Son phấn vẫn giữ thần sắc dù đã chôn vùi, văn chương vẫn lưu lại dù đã bị thiêu đốt)
a) Nhà thơ sử dụng hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả những đau đớn về cả thể xác và tinh thần mà Tiểu Thanh phải trải qua, thể hiện qua những dòng thơ. Theo quan điểm cổ xưa, “son phấn” – vật dụng trang điểm của phụ nữ có tinh thần (thần) bởi nó liên quan đến việc làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ đều nhấn mạnh vào bi kịch của cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc sống chỉ biết tìm kiếm niềm vui trong son phấn và văn chương để xoa dịu nỗi đau khổ.
b) Sử dụng các đối tượng vật lý để ám chỉ đến con người. Gắn liền với những vật dụng vô tri vô giác là những từ ngữ như “thần” và “mệnh”. Sự nhân cách hóa này thể hiện sự đau đớn sâu sắc của nhà thơ về nỗi khổ của con người thông qua số phận của Tiểu Thanh. Sự kết thúc bi thảm của Tiểu Thanh là kết quả của sự ghen tuông và đố kỵ với tài năng của người khác. Dù chỉ là những vật dụng vô tri vô giác, chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân: son phấn mất đi vẻ đẹp, văn chương bị thiêu đốt. Hai câu thơ đã thể hiện sự tàn nhẫn của những con người không nhân từ trước những tài năng. Đồng thời, nó cũng thể hiện nhận thức nhạy bén của Nguyễn Du về cuộc sống của những người có tài năng, liên quan đến quan niệm “tài năng và số mệnh” trong triết học Nho. Vật vẫn còn đó, làm sao có thể không phải con người! Vượt lên trên ảnh hưởng của quan niệm về số phận là lòng từ bi sâu sắc của Nguyễn Du.
3. Hai câu nhận xét :
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tóm tắt thành một cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến:
Nỗi oan khuất trời cổ trách nhiệm
Phong vận kỳ oan tự cư
(Hận oán bao năm vẫn hỏi trời
Khóc thương vận phong tự chịu)
a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không chỉ thuộc về riêng nàng mà còn là phần của những người có tài năng từ thời đại cổ xưa. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một niềm oán hận không bao giờ dứt. Trong tâm trí của ông, có lẽ Nguyễn Du còn nhớ đến những nhà văn tài hoa khác như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người mà ông vẫn ngưỡng mộ – và những tài năng khác phải chịu số phận không công bằng. Câu thơ giúp ta hiểu rõ hơn về cuộc sống của những nạn nhân của chế độ phong kiến, thể hiện sự phẫn nộ và bức xúc của nhà thơ về thực tế xã hội, đồng thời cũng thể hiện sự tuyệt vọng của Nguyễn Du.
b) Khóc người để thương chính mình, cảm xúc này đã tạo ra câu thơ đẹp đẽ “phong vận kỳ oan tự cư” (Tự cho mình cũng là một trong số những kẻ chịu oan trái đất). Đây là biểu hiện của lòng trắc ẩn chân thành của Nguyễn Du, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo lớn lao và sâu sắc của ông.
c) Không chỉ một lần nhà thơ thể hiện điều này. Ông đã từng nhập vai thành nàng Kiều để khóc thay cho nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách tự tin: “Thời nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách ông nhìn nhận con người và suy ngẫm về bản thân, trong văn học cổ điển Việt Nam trước đây có lẽ hiếm ai diễn đạt sâu sắc như vậy. Tự đặt mình vào cùng cảnh ngộ với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã chia sẻ trái tim của mình cùng với nhân loại. Tâm sự chung của những người mang trọng ân “kỳ oan” được thể hiện mạnh mẽ, làm cho người đọc không khỏi xúc động. Đó không chỉ là tâm sự của Nguyễn Du mà còn là tâm trạng chung của các nhà thơ thời đó.
4. Hai câu kết :
Kết thúc bài thơ là suy tư của Nguyễn Du về thời đại:
Bất biết ba trăm năm lẻ nữa
Dòng đời ai khóc Tố Như đâu
(Không biết sau ba trăm năm nữa
Người đời có còn nhớ đến Tố Như không)
a) Rơi lệ cho Tiểu Thanh cách đây ba trăm năm, từ trái tim chân thành của tâm hồn đồng điệu, suy tư dẫn dắt nhà thơ suốt ba trăm năm sau với một nỗi niềm khó lòng giải tỏa. Tiểu Thanh được nhớ đến với tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du, người tìm đến để dỗ dành những oan khiên bằng những giọt nước mắt đồng cảm. Cũng như nhà thơ, cảm nhận mình đơn độc trong hiện tại. Câu hỏi của hậu thế chứa đựng một khao khát gặp gỡ tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Điều này cũng thể hiện trong tâm trạng của Khuất Nguyên - “người đời say mê, chỉ có một mình ta tỉnh”, theo cách nói của Nguyễn Du cách đây hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, theo cách của Nguyễn Du cách đây một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phủ bóng mây phồn”)
b) Người thơ biểu hiện chính mình qua tên chữ “Tố Như” không phải để “lưu danh thiên cổ” mà là biểu hiện của một nỗi lòng sâu sắc với cuộc sống. Câu thơ cũng là biểu hiện của nỗi đau thương của nhà thơ trước thời cuộc. Rơi lệ cho người xưa, nhà thơ tự rơi lệ cho bản thân, những giọt nước mắt lan tỏa tạo thành một hình ảnh Nguyễn Du, một cánh đồng cô đơn, khiến người đọc không thể không bị xúc động khi suy ngẫm về những nỗi đau sâu sắc và tinh thần bị đè nén của những người tài năng sống trong bóng tối của một xã hội ít quý trọng tài năng.
III. Kết bài
1. Hơn hai trăm năm đã trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn giữ mãi một tấm lòng chân thành và sâu sắc với con người. Đó là tình cảm không giới hạn, không bị thời gian phai nhạt, mà bắt nguồn từ gốc rễ “thương người như thương thân” của dân tộc.
2. Không cần phải đợi đến ba trăm năm nữa, ánh sáng của thời đại mới đã lưu truyền mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên Tố Như đã trở thành biểu tượng danh dự của dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã thay đổi, những niềm vui của dân tộc đã trỗi dậy trước cánh cửa của thế kỷ XXI, tuy nhiên chúng ta vẫn ghi nhớ và chia sẻ nỗi buồn của Nguyễn Du - nỗi buồn của quá khứ. Thời đại mới giải thoát những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, hòa nhập tinh thần nhân quả dân tộc ấy :
Hỡi Người xưa ơi bây giờ
Khúc hát vui cùng Người lại vang vọng