Văn mẫu lớp 11: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật đưa ra cấu trúc và mẫu văn siêu xuất sắc. Điều này giúp học sinh lớp 11 có thêm nguồn tư liệu tham khảo để củng cố kiến thức và phát triển kỹ năng viết văn.
Để giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật, chúng ta cần nêu lý do lựa chọn giới thiệu tác phẩm, trình bày cảm nhận và quan điểm cá nhân về giá trị của tác phẩm, cùng với lý lẽ và bằng chứng thuyết phục; cũng như tạo ra sự tương tác và đối thoại thông qua việc đặt câu hỏi cho người nghe. Dưới đây là một bản dàn ý và bài giới thiệu xuất sắc nhất, mời các bạn đọc thử.
Giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật - Mẫu 1
Xin chào quý thầy cô và các bạn. Tôi là............, học sinh của trường.........
Khi nhắc đến Huy Cận, người ta thường liên tưởng đến một “tâm hồn thơ mơ mộng” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã tham gia vào việc sáng tác thơ về cuộc sống hiện đại với nỗi buồn nhân sinh, sự cô đơn và đau khổ trước những biến động của cuộc đời. Bài thơ Tràng Giang trong tập “Lửa Thiêng” (1940) là minh chứng điển hình cho phong cách thơ của Huy Cận, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại một cách độc đáo.
Vào một buổi chiều thu năm 1939, khi đứng bên bờ sông Chèm - phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, nhà thơ không kìm nén được cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà sâu sắc nên đã viết nên bài thơ Tràng Giang. “Tràng Giang” là một từ tiếng Hán Việt trang trọng, biểu tượng cho một con sông dài lớn. Nhưng nhà thơ không sử dụng “trường giang” (có nghĩa tương đương) để thay thế, vì âm vần “ang” không chỉ tạo ra âm thanh ngân vang mà còn tạo ra cảm giác của một dòng sông không chỉ dài mà còn rộng lớn. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” càng làm rõ thêm tình cảm chủ đạo của bài thơ. Đó là cảm xúc buồn bã của con người khi đứng trước một không gian bao la, mênh mông.
Từ tiêu đề và lời đề của bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã mở ra một không gian sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu của khổ thơ đầu tiên mở ra hình ảnh của dòng sông mênh mông.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài lên thêm với những đợt sóng “điệp điệp” liên tục vỗ vào bờ không ngừng, không ngớt. Những đợt sóng đó làm cho không gian sông nước trở nên rộng lớn, bao la hơn. Và trên nền sông nước mênh mông đó, hình ảnh của con thuyền nhỏ bé cứ “xuôi mái nước song song”. Sự đối lập giữa không gian mênh mông của dòng sông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé gợi lên trong ta cảm giác cô đơn, lạc lõng. Đặc biệt, khổ thơ đầu tiên còn để lại ấn tượng sâu sắc với hai câu thơ cuối cùng.
Thuyền trôi nước, buồn vạn lối
Từ ngàn xưa đến nay, hình ảnh thuyền và nước luôn kết hợp với nhau, nhưng ở đây, thuyền và nước dường như mang một nỗi buồn chia lìa. Cảnh vật này khiến cho trái tim trở nên “buồn vạn lối”. Đặc biệt, giữa không gian sông nước mênh mông, hình ảnh “cành củi cô đơn giữa dòng chảy” gợi lên trong lòng người đọc những suy tư sâu xa về cuộc sống, sự lạc lõng và không biết đi về đâu giữa hàng trăm dòng nước vô tận. Khổ thơ thứ nhất đưa ra tầm nhìn về dòng đời vô tận, trong khi hình ảnh thuyền và cành củi khô trở thành biểu tượng cho cuộc sống con người nhỏ bé, không chắc chắn. Tuy nhiên, nỗi buồn trong tâm hồn tác giả không nguôi.
Nếu trong khổ thơ đầu tiên, tác giả mô tả không gian sông nước mênh mông, thì ở khổ thơ thứ hai, anh ta mở ra không gian của một cồn nhỏ. Hai câu thơ đầu tiên đã tái hiện một không gian cô đơn, lạnh lẽo.
Cồn nhỏ trống vắng, gió rét lạnh,
Nghe xa xa tiếng chợ vắng vẻ
Bằng cách sử dụng ngôn từ đảo ngữ và từ “trống vắng”, “lạnh lẽo”, tác giả tạo ra một bức tranh của một cồn nhỏ hoang vắng, lạnh lẽo và buồn bã. Cùng với đó, sự trống trải và yên bình của không gian được thể hiện qua câu thơ “nghe xa xa tiếng chợ vắng vẻ”. Câu này có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, có thể là việc phủ nhận âm thanh của chợ buổi chiều hoặc là sự gợi nhớ âm thanh yếu ớt của chợ xa xa.
Tuy nhiên, dù hiểu theo bất kỳ cách nào, câu thơ vẫn mang đến trong lòng độc giả cảm giác buồn bã, hoang vắng và trống rỗng, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu tiên trong khổ thứ hai gợi lên hình ảnh cồn nhỏ trống trải, lạnh lẽo, thì trong câu thứ ba và câu thứ tư, không gian đó mở ra với một sự rộng lớn, làm cho cảnh vật vốn đã hoang vắng trở nên càng cô đơn và yên bình hơn.
Nắng chiếu, trời cao, sông mênh mông
Trời rộng, sông dài, bến vắng vẻ
Trong hai câu thơ này, tác giả sử dụng “mênh mông” thay vì “rộng” vì từ “mênh mông” không chỉ mô tả không gian mà còn tạo ra một cảm giác, một tâm trạng, không chỉ gợi lên hình ảnh của một không gian rộng lớn và sâu thẳm mà còn gợi lên cảm giác cô đơn, trống vắng tận cùng của con người trước sự bao la, hoang vắng của cảnh vật. Như vậy, trong hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ, nỗi buồn của tác giả lan rộng khắp mọi nơi, trên mỗi khung cảnh rộng lớn và mênh mông. Và cuối cùng, trong khổ thứ ba của bài thơ, tác giả quay trở lại với không gian của dòng sông với khung cảnh mênh mông, cô đơn và thiếu vắng sự sống của con người.
Bèo trôi đi, hàng trăm nối nối
Sông mênh mông không thấy chuyến đò qua
Không cầu đợi, không một lời thân mật
Bờ xanh lặng lẽ nhận lấy ánh vàng
Hình ảnh “bèo trôi đi, hàng trăm hàng” một lần nữa đẩy người đọc vào cuộc sống, sự trôi nổi không biết đi về đâu, về chốn nào. Khổ thơ này, với việc sử dụng nghệ thuật phủ nhận lặp lại, nhấn mạnh sự hoang vắng và thiếu sự sống của cảnh vật. Thường thì, chúng ta thường thấy thuyền và cầu là biểu tượng của sự kết nối, giao tiếp giữa con người và con người, giữa nơi này và nơi khác, nhưng ở đây “không một chuyến đò”, “không một cây cầu”.
Ở đây, dường như không có gì kết nối hai bờ sông với nhau, thiếu đi dấu vết của sự sống, hình bóng con người và hơn hết là tình người, sự giao hòa, mối thân mật giữa con người với nhau. Có lẽ vì vậy mà hai bờ sông vẫn kéo dài, vẫn chạy dài mãi mà không bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở đây những bờ xanh, những bãi vàng liên tiếp nhau – một bức tranh đẹp nhưng yên bình và cảm xúc buồn.
Dưới đây là bài trình bày của tôi về bài giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật, xin cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía thầy/cô và các bạn.
Giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật - Mẫu 2
Xin chào cô và các bạn. Tôi là …, rất vui được gặp mọi người. Dưới đây là ý kiến của tôi về bài giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật 'Mùa xuân chín'.
Các bạn thân mến, chắc hẳn mỗi người trong chúng ta đã từng đọc hoặc học về một bài thơ về mùa xuân đúng không? Chúng ta đã học đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' (trích 'Truyện Kiều' - Nguyễn Du) và bài thơ 'Mùa xuân nho nhỏ' của nhà thơ Thanh Hải. Hôm nay, tôi sẽ giới thiệu với các bạn một bài thơ khác cũng nói về mùa xuân, trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống. Đó là bài thơ 'Mùa xuân chín' của tác giả Hàn Mặc Tử.
Đọc tiêu đề bài thơ, ta cảm nhận sự kết hợp tinh tế giữa danh từ 'mùa xuân' với động từ chỉ trạng thái 'chín'. Điều này khiến ta tưởng tượng về khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và đầy sức sống. Cảm xúc trong bài thơ lan tỏa từ cảnh vật đến tâm trạng con người. Cảm xúc ấy được thể hiện rõ ràng qua hình ảnh và ngôn từ tinh tế.
Trong khổ thơ đầu tiên, hình ảnh như 'làn nắng ửng', 'khói mờ tan', 'bóng xuân sang' đã tạo ra bức tranh mùa xuân ấm áp. Thông qua biện pháp nhân hóa 'gió trêu tà áo biếc' kết hợp với từ láy 'sột soạt' và phép đảo ngữ 'Sột soạt gió trêu tà áo biếc', nhà thơ thể hiện sự tinh tế trong quan sát khi mùa xuân đến. Gió không chỉ là một vật không hồn mà trở nên sống động với âm thanh tình cảm, đang trêu chọc áo biếc. Đồng thời, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác 'bóng xuân sang' cũng miêu tả dáng điệu nhẹ nhàng của mùa xuân.
Trong một nền thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân, hình ảnh con người như 'Bao cô thôn nữ hát trên đồi' xuất hiện. Tiếng hát này khiến nhân vật cảm thấy tiếc nuối trước vẻ đẹp của người con gái '- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc cuộc chơi'. Biện pháp ẩn dụ 'xuân xanh' kết hợp với các từ láy 'hổn hển', 'vắt vẻo' và biện pháp nhân hóa 'tiếng ca vắt vẻo', so sánh 'hổn hển như lời nước mây' tạo nên vẻ duyên dáng của người con gái. Vẻ đẹp ấy hòa trong tiếng hát trầm bổng, thiết tha như tô đậm khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống.
Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tâm trạng chùng xuống của nhân vật trữ tình - 'khách xa'. Từ láy 'bâng khuâng' tạo nên cảm xúc lâng lâng, xen chút buồn tiếc nuối. Nhưng rồi, nhân vật trữ tình lại có sự chuyển biến đột ngột trong cảm xúc khi 'sực' nhớ làng và '- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc theo bờ sông trắng nắng chang chang?'. Câu hỏi cuối bài thơ cùng đại từ nhân xưng không cụ thể 'chị ấy' phác họa nỗi niềm cô đơn, hụt hẫng cùng tấm lòng nhớ quê hương của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Đọc bài thơ 'Mùa xuân chín', ta thấy nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật như cách sắp xếp ngôn từ và hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp với nhiều biện pháp nhân hóa, cách gieo vần chân ('vàng-sang, 'trời-chơi',...). Bài thơ vẽ nên bức tranh mùa xuân từ âm thanh, hình ảnh, màu sắc sống động của thiên nhiên và con người. Đọc bài thơ, ta không khỏi bị lòng trước tình yêu thiên nhiên tha thiết và khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Trước mắt là bài thuyết trình của tôi về việc giới thiệu về một tác phẩm nghệ thuật. Xin cảm ơn sự chú ý của quý thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía quý thầy/cô và các bạn.