Văn mẫu lớp 11: Giới thiệu và làm rõ giá trị của một tác phẩm văn học hoặc một tác phẩm nghệ thuật mà bạn yêu thích là một trong những chủ đề rất thú vị trong chương trình Ngữ văn 11 sách Chân trời sáng tạo.
Đề cập và làm rõ giá trị của tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật cung cấp 2 bài văn mẫu rất hay, giúp bạn có thêm nguồn tư liệu quý báu để tham khảo và phát triển kỹ năng lập luận để giới thiệu một cách hấp dẫn. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác trong chuyên mục Văn 11 Chân trời sáng tạo.
Giới thiệu về tác phẩm Chữ người tử tù
“Chữ người tử tù” cũng nổi bật với những giá trị nghệ thuật mà tác giả đã xây dựng. Đặc biệt là nghệ thuật tạo tình huống truyện rất độc đáo, như cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong lao tù. Mặc dù trên thực tế, họ là kẻ thù, nhưng trên mặt trận nghệ thuật, họ lại là những tri kỉ. Tình huống truyện độc đáo đã giúp làm rõ tính cách của nhân vật và nhấn mạnh chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt, với cách miêu tả tinh tế và sự đan xen của mối quan hệ giữa các nhân vật. Nghệ thuật tạo cảnh cũng rất ấn tượng, khi tác giả sử dụng thủ thuật đối lập để miêu tả những cảnh 'chưa từng có', giúp làm rõ tính cách của nhân vật. Nguyễn Tuân còn thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ với việc sử dụng các từ Hán Việt đặc sắc, tạo nên một không gian lịch sử và trang trọng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một tác phẩm xuất sắc thể hiện sự tài hoa và uyên bác trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân được đánh giá là “một danh tác của văn học, một họa sĩ vĩ đại đi tìm vẻ đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thực hiện từ bỏ hiện thực, trở về quá khứ huyền bí, bộ truyện “Vang bóng một thời” là minh chứng rõ nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với việc tôn trọng thăng hoa viết chữ truyền thống.
“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm ban đầu xuất hiện trên tạp chí Tao đàn với tựa đề “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền đạt đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” đại diện cho cái đẹp, sức mạnh sáng tạo ra cái đẹp, cần phải được tôn vinh, ca ngợi. “Người tử tù” là biểu tượng của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ tiêu đề đã chứa đựng những mâu thuẫn, gợi lên những tình huống truyện phức tạp, làm tò mò độc giả. Thông qua đó, làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sức sống vĩnh cửu của cái đẹp trong cuộc sống.
Tác phẩm có các tình huống gặp gỡ độc đáo, kỳ lạ, diễn ra trong bối cảnh nhà tù, trong những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người có chí lớn và tài năng lớn nhưng không được công nhận. Địa vị xã hội của hai nhân vật cũng trái ngược nhau. Huấn Cao là người tử tù, muốn lật đổ trật tự xã hội hiện tại. Trong khi đó, quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật pháp, trật tự xã hội hiện tại. Nhưng ở mặt nghệ thuật, vị trí của họ lại hoàn toàn đảo ngược: Huấn Cao là người có tài nghệ thuật viết chữ đẹp, người sáng tạo ra cái đẹp, trong khi quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đây là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Với các tình huống truyện độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển mạch lạc, hợp lý đẩy lên cao trào. Qua đó, tôn vinh tính cách của nhân vật và làm nổi bật chủ đề của câu chuyện: Sức sống vĩnh cửu của cái đẹp, chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh biến cái đẹp thành sự thực.
Nổi bật trong tác phẩm là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai ai cũng biết. Tài năng của ông còn gắn liền với sự mong đợi, sự kính trọng của người dân. Có được chữ của Huấn Cao là điều mà mọi người mong ước, việc treo chữ của ông trong nhà là niềm hạnh phúc, niềm vinh dự lớn. Tài năng của Huấn Cao không chỉ giới hạn ở mức độ bình thường mà đã đạt đến đỉnh cao, siêu việt.
Không chỉ có tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên nhiên trong trắng: “Tính ông vốn khoan dung, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoan dung” ở đây có thể hiểu là sự kiêu hãnh về tài năng viết chữ, vì ông biết giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng nét chữ mà mình viết ra. Mỗi nét chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những nét chữ ấy để trao cho những trái tim trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không bao giờ sử dụng tài năng của mình để ép buộc ai đó: “Ta sinh ra không vì vàng ngọc hay quyền thế mà bắt mình phải viết ra câu đối”. Đặc biệt, tấm lòng rộng lượng ấy còn thể hiện trong việc ông trao chữ cho viên quản ngục: “Ta cảm thấy lòng biết ơn về sự hỗ trợ tài năng của các người. Chỉ cần một chút nữa, ta đã mất một tâm hồn quý trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người tôn trọng cái đẹp, cái tài.
Trong Huấn Cao, ta thấy vẻ đẹp của một con người mang nghị lực và lòng can đảm vượt trội. Ông là một người thạo văn chương nhưng không bao giờ theo lối mòn, dũng cảm đứng lên đấu tranh, đối đầu với thế lực. Bị bắt, ông vẫn giữ thái độ kiêng nhẫn, không để tâm đến lời đe dọa của quân lính áp giải tù. Khi bị hỏi bởi viên quản ngục, ông khinh thường, chỉ muốn nhà người đừng bao giờ bước chân vào đây. Ngay cả khi nhận tin tức tử thần, Huấn Cao vẫn bình thản, tươi cười.
Và đẹp nhất là cảnh viết chữ, ba khía cạnh đẹp đẽ của ông hiện ra và tỏa sáng. Trên tờ giấy trắng, chữ của Huấn Cao thể hiện quyết tâm, lòng dũng cảm của một con người với tinh thần cao quý. Ông tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt vời mà không quan tâm đến những thứ khác xung quanh. Khi quản ngục yêu cầu chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra lòng của quản ngục và viết một bức thư cuối cùng tặng quản ngục, biểu lộ lòng biệt nhỡn.
Viên quản ngục mang số phận bi kịch. Ông có tính cách dịu dàng, trân trọng sự thẳng thắn, nhưng lại phải sống trong một môi trường tù tội tàn nhẫn. Nhân cách cao quý của ông tương phản hoàn toàn với hoàn cảnh tù đày. Ông tự nhận thức về số phận của mình, về sự lạc lối, nhầm lẫn trong cuộc sống. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được tâm hồn cao quý, tâm hồn của một nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, nhưng việc này không dễ dàng. Ông là quản ngục, nếu yêu cầu chữ của kẻ tử tù Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp rắc rối. Hơn nữa, Huấn Cao không phải ai cũng sẵn lòng viết chữ cho người khác.
Trong những ngày cuối cùng của Huấn Cao, quản ngục có những hành động không thường, thể hiện sự tôn trọng và lòng biết ơn đối với người tử tù. Vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục và Huấn Cao thể hiện rõ nhất qua việc viết chữ. Họ tỏ ra tôn trọng, ngưỡng mộ và tổ chức một buổi xin chữ không giống ai. Ba con người, ba nhân cách cao quý chứng kiến những nét chữ xuất hiện, quản ngục ghi nhận từng đồng tiền để đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng bái, ngưỡng mộ vẻ đẹp. Trước những giảng giải của Huấn Cao, quản ngục bày tỏ sự tôn trọng bằng cách cúi đầu, “tôi xin thưa ngài là một người mê muội”.
Tác phẩm đã tạo ra những tình huống truyện độc đáo. Với việc xây dựng nhân vật rất đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên nhiên, tinh thần kiên cường và lòng trọng đại người tài. Đồng thời, tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã khơi gợi không khí của một thời cổ xưa. Phong cách viết chậm rãi, thong thả đã giúp tạo ra bầu không khí cổ điển cho tác phẩm. Sử dụng bút pháp đối lập một cách thành công và tài tình.
Trong truyện ngắn 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân đã thể hiện lòng tin vào sức mạnh của cái đẹp, cái thiên lương trước cái xấu xa và tàn bạo. Ông cũng biểu hiện lòng trân trọng với những giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện lòng yêu nước. Sử dụng nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc và ngôn ngữ tinh tế, ông đã đóng góp vào thành công của tác phẩm.
Giới thiệu về tác phẩm 'Truyện Kiều'.
Tài sản về vật chất có thể đến và đi, nhưng tài sản về tinh thần sẽ mãi mãi được ghi nhận. Không thể định giá được tài sản tinh thần vì nó là vô giá. Trong số những tài sản tinh thần của người Việt, không thể không nhắc đến 'Truyện Kiều'. Tác phẩm này như một viên ngọc quý mà mọi nhà văn, nhà thơ đều ước ao tạo ra.
Kiệt tác vĩ đại 'Truyện Kiều' được viết bằng chữ Nôm theo dạng truyện thơ. Với 3254 câu thơ lục bát, đây là một tác phẩm truyền thống của dân tộc. Mặc dù lấy cốt truyện từ cuốn tiểu thuyết 'Kim Vân Kiều Truyện' của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã có sự sáng tạo để tạo ra một Đoạn Trường Tân Thanh phản ánh văn hóa Việt Nam.
Cốt truyện xoay quanh cuộc đời của Thúy Kiều, một cô gái sinh ra trong một gia đình trung lưu. Thúy Kiều có một cuộc sống hạnh phúc bên cha mẹ và hai người em, Thúy Vân và Vương Quan, cho đến khi cuộc sống bắt đầu thay đổi.
Câu chuyện được phân thành ba phần, phần đầu tiên có tựa đề 'Gặp gỡ và đính ước'. Trong một ngày hội Đạp Thanh, ba chị em Thúy Kiều đi thăm mộ. Tại đây, Kiều gặp nấm mồ của Đạm Tiên và cảm thấy thương xót cho số phận của người con gái đó. Khi chuẩn bị rời đi, Kiều lại gặp Kim Trọng và dường như hai người đã ấn tượng với nhau ngay từ lúc gặp nhau đầu tiên. Sau đó, họ lén lút gặp nhau và đính ước.
Phần thứ hai có tên là 'Gia biến và lưu lạc'. Sau khi đính ước, Kim Trọng phải về quê để hộ tang chú. Đúng lúc này gia đình Kiều bị vu oan, cha và em trai Kiều là Vương Quan bị bắt. Để cứu cha và em, Kiều phải bán mình để có tiền chuộc. Trước khi ra đi, Kiều đã trao lại tình yêu của mình cho em gái Thúy Vân. Sau khi bán mình, Kiều bị Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh lừa vào lầu xanh. Tại đây, Kiều được Thúc Sinh cứu ra và cưới. Thúc Sinh là một người hào phóng trong làng chơi nhưng vợ hắn, Hoạn Thư, thì ghen tuông điên cuồng. Hoạn Thư đã âm mưu để hãm hại Kiều. Sau khi trốn thoát, Kiều đến nhờ vào cửa Phật và được sư Giác Duyên giúp đỡ. Nhưng do sư Giác Duyên tin vào lời Bạc Bà, Bạc Hạnh, Kiều đã bị giao nhầm cho kẻ xấu. Một lần nữa, Kiều lại rơi vào lầu xanh. Tại đây, Kiều gặp được Từ Hải, một người anh hùng kiên cường. Từ Hải không chỉ cứu Kiều mà còn giúp Kiều báo ân và báo oán. Nhưng Kiều, người thật thà, lại bị lừa một lần nữa. Tin vào lời Hồ Tôn Hiến, Kiều đã đẩy Từ Hải vào cái chết. Sau đó, Kiều bị bắt phải hầu rượu, đánh đàn trong tiệc mừng của triều đình và cuối cùng, bị ép gả cho một viên quan. Vì quá đau xót và tổn thương cho chính mình, Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn nhưng may mắn được sư Giác Duyên cứu giúp. Kiều tiếp tục sống nương nhờ vào cửa Phật.
Phần ba có tựa đề là 'Đoàn tụ'. Sau tang lễ, Kim Trọng quay về để tìm Kiều. Khi biết được điều này, Kim Trọng rất đau lòng. Anh đã kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên Kiều. May mắn, họ gặp lại nhau và Kiều quyết định 'Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bè' để thể hiện lòng biết ơn với người yêu cũ và bảo vệ danh dự của mình.
Về nội dung, 'Truyện Kiều' mang lại giá trị hiện thực và nhân đạo lớn lao. Đó là một bức tranh chân thực về xã hội đầy bất công và tàn bạo. Ở đó, con người bị vùi dập và tha hóa chỉ vì tiền bạc. Xã hội đó có quá nhiều con buôn giả dối, nhà chứa dơ bẩn và những kẻ tham ô. Phụ nữ trong xã hội đó bị đối xử tàn nhẫn và bất công, bị đè nén nhân phẩm, nhưng họ vẫn giữ được lòng tự trọng, tài năng và khao khát tự do và tình yêu.
Về mặt nghệ thuật, 'Truyện Kiều' thể hiện tinh hoa của ngôn ngữ và văn học dân tộc. Tác phẩm sử dụng thể thơ lục bát một cách tài tình. Khi đọc, ta cảm nhận được sự thân thuộc và gần gũi nhưng vẫn rất chuyên môn. Nghệ thuật sự kiện của tác phẩm đã phát triển vượt bậc.
Đến nay, Truyện Kiều đã được dịch sang hơn 20 ngôn ngữ và có hàng ngàn nghiên cứu về tác phẩm này. Không chỉ làm cho văn học Việt Nam được biết đến trên thế giới, Truyện Kiều còn giúp đất nước và con người Việt Nam trở nên quan trọng hơn trên trường quốc tế.
Truyện Kiều hoàn thiện về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Nhân vật trong tác phẩm như những con người thực sự. Điều đó làm nên giá trị tuyệt vời của tác phẩm này.