Văn mẫu lớp 11: Một bài văn ngắn giới thiệu về một tác phẩm thơ Hán của Nguyễn Du mang đến 2 mẫu văn mẫu cực kỳ tuyệt vời, giúp các học sinh tự học và nâng cao kiến thức, kỹ năng về việc diễn đạt và minh chứng ngày càng hoàn thiện.
TOP 2 mẫu văn giới thiệu về một tác phẩm thơ Hán của Nguyễn Du siêu hay dưới đây sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nhiều tài liệu tham khảo và sẵn sàng hơn khi học. Ngoài ra, hãy khám phá thêm nhiều tài liệu khác trong chuyên mục Văn 11 để mở rộng tri thức.
Giới thiệu một bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du - Mẫu 1
Đề tài về người phụ nữ ít được nhà thơ thời trung đại đề cập đến, tuy nhiên, đại thi hào Nguyễn Du lại viết về người phụ nữ với lòng trân trọng và tình yêu thương vô điều kiện. Bên cạnh kiệt tác thơ Nôm 'Truyện Kiều' nói về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, bài thơ 'Độc Tiểu Thanh kí' là một tác phẩm xuất sắc bằng chữ Hán về đề tài này.
Nguyễn Du sáng tác một bài thơ trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc cho triều Nguyễn. Tác phẩm chữ Hán mang tên 'Độc Tiểu Thanh kí' đã mở ra nhiều phương diện để hiểu. Một số cho rằng đó là Nguyễn Du đọc truyện về cuộc đời của Tiểu Thanh, cảm thấy thương xót cho số phận của người phụ nữ tài năng nhưng bị số phận không mấy may mắn mà viết bài thơ này. Có ý kiến khác cho rằng Nguyễn Du đã đọc tập thơ của Tiểu Thanh và cảm phục, tiếc nuối cho cuộc đời của cô. Dù hiểu theo cách nào thì ta vẫn thấy rõ ràng đó là tấm lòng tràn đầy tình thương và sự hiểu biết về cuộc sống của nhà thơ.
Tiểu Thanh là một cô gái thông minh, xinh đẹp, có tài thơ ca, sống vào thời đầu của triều Minh ở Trung Quốc, cách Nguyễn Du 300 năm. Cô bị gia đình ép gả cho một nhà quyền lực. Vì ghen ghét của vợ cả, cô bị đẩy ra sống một mình ở Cô Sơn, gần khu vườn hoa Tây Hồ. Hằng ngày, cô chỉ biết sống với thơ, sau đó cô mắc bệnh và qua đời trong cô đơn khi chỉ mới 18 tuổi. Số lượng thơ văn mà cô để lại đã bị vợ cả đốt gần hết, chỉ còn lại một số bài mà sau này được người ta thu thập lại và gọi là 'phần dư'.
Tâm trạng chính trong bài thơ là sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận của Tiểu Thanh. Từ sự đồng cảm sâu sắc đó, ông nhận ra những bất công trong cuộc đời và cảm thông với người khác, cũng như cảm thông với chính bản thân mình. Trong bài thơ, ta được dẫn dắt đến một không gian ấn tượng, là nơi mà Tiểu Thanh từng sống:
'Tây Hồ hoa rực rỡ, cảnh đẹp hóa thành tiểu đề
Đầu bút viết về đây, nhấn chìm vào dòng suối'
(Tây Hồ hữu tình, đẹp như cổ tích
Thởi gian cạn dần, chỉ còn giấy và bút)
Một từ 'tẫn' đã đủ mạnh mẽ để gợi lên sự ám ảnh trong tâm trí của độc giả. Bản dịch thơ chưa thể truyền đạt hết ý nghĩa của từ 'tẫn' này. Nó không chỉ đơn giản là 'hóa gò hoang', mà là biểu hiện của sự phá hủy, tàn phá. Một từ 'tẫn' đã đề cập đến sự đối lập đáng kinh ngạc giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ của Tây Hồ, từng là nơi đẹp đẽ, hữu tình, bây giờ chỉ còn là một vùng đất hoang vắng, phủ đầy sự tiêu điều.
Câu thơ mang đến cảm giác xót xa không tưởng! Độc giả có thể tưởng tượng được rằng ngày xưa, khi Tiểu Thanh còn sống, nơi đây là một thắng cảnh tuyệt vời, nhưng bây giờ, người đẹp đã ra đi, cảnh đẹp cũng đã tan biến. Đứng trước cảnh tượng đó, Nguyễn Du bỗng cảm thấy niềm buồn tràn đầy, càng xót xa hơn khi đứng bên cửa sổ với tập sách của Tiểu Thanh.
'Độc điếu' chỉ sự cô đơn, lẻ loi của nhà thơ khi vượt qua thời gian và không gian để nhớ lại quá khứ, để thổn thức và khóc lóc cho Tiểu Thanh. Mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, trong cuộc sống với biết bao gian truận, tên tuổi của một người phụ nữ tài năng nhưng bất hạnh trong thời kỳ Minh có lẽ cũng sẽ dần bị lãng quên. Câu thơ như là một tiếng thở dài chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm của Nguyễn Du trước số phận đau thương của một người con gái. Hai câu thơ này thực sự là biểu tượng của sự biểu đạt:
'Trang điểm có thể che đi vẻ đẹp của hậu quả
Văn chương, mặc dù không có số mệnh, vẫn tồn tại với phần dư'
(Lớp son phấn vẫn còn tồn tại sau khi thần chôn
Văn chương vẫn tồn tại dù không còn số mệnh)
Khi nói đến 'son phấn' và 'văn chương', ta ngay lập tức nghĩ đến vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Vẻ đẹp của cô không gây ra bất kỳ tội lỗi nào, nhưng lại bị ganh ghét, tài năng của cô cũng bị lấn át và không được đánh giá cao. Hai câu thơ thể hiện sự thương cảm của nhà thơ đối với tài năng và vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Cô đã phải ra đi khi còn rất trẻ, và sáng tác của cô đã bị đốt cháy hầu hết, chỉ còn lại 'phần dư'.
Dù đã sống cách đó 300 năm, nhưng Nguyễn Du vẫn có thể cảm thông với những bất công mà Tiểu Thanh phải trải qua. Câu thơ cũng phản ánh triết lý 'tài mệnh tương đố' của Nguyễn Du. Trong tác phẩm của ông, chúng ta thường thấy những phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng lại gặp nhiều thử thách, bi kịch như Đạm Tiên, Kiều. Vì vậy, Nguyễn Du cũng đúc kết thành những câu thơ mang tính chất trừu tượng cao:
'Phận đời phụ nữ đầy đau khổ
Mệnh trời vốn là điều chung'
(Trích từ Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Hoặc:
'Nghẹn lòng với số phận của phụ nữ
Đời sinh ra liệu có ngờ đâu?'
(Tạm dịch từ Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Một điểm đặc biệt của bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh kí' là nhà thơ đã truyền đạt một thông điệp nhân đạo độc đáo. Điều này rõ ràng trong hai câu 5 và 6 của bài thơ:
'Tâm trạng đau xót trước sự trắc trở từ trời cao
Vận mệnh khắc nghiệt, gặp phải nỗi oan trái'
(Mối hận thù vĩnh viễn nối từ thời vô thường
Công bằng không tồn tại, mỗi kẻ phải tự chịu trách nhiệm)
Nguyễn Du cảm thấy mình như cùng đi trên thuyền với những nhân tài bất hạnh và thốt lên trong lòng nỗi đau xót. Câu hỏi là: Tại sao những người tài giỏi lại phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách? Có lẽ không có câu trả lời, liệu những người có tài luôn mang theo 'án phận' bất hạnh? Trong kiệt tác 'Truyện Kiều', nhà thơ đã nói 'Tài năng khiến trời đất ghen', sau đó là 'Bầu trời quen với việc má hồng ghen tỵ'.
Nếu sống trong một xã hội khác, những người tài năng như Tiểu Thanh có lẽ sẽ không phải chịu nhiều bất công, không bị áp đặt như thế. Câu thơ phản ánh hy vọng của Nguyễn Du rằng những người có tài sẽ được tôn trọng. Kết thúc bài thơ là tâm trạng uất ức, đau lòng của Nguyễn Du:
'Không biết sau ba trăm năm nữa
Người dân đất nước sẽ ai khóc Tiểu Thanh?'
(Chẳng biết ba trăm năm sau
Người dân nơi này sẽ ai nhớ Tiểu Thanh?)
Dù đã xa cuộc đời 300 năm, nhưng vẫn có người hiểu và cảm thông với Tiểu Thanh. Nhà thơ tự hỏi liệu sau 300 năm nữa có ai hiểu mình không? Một câu hỏi đầy sức cuốn hút khi nghĩ về số phận của những người tài sau một thời gian dài sẽ ra sao? Kết thúc bài thơ là mong muốn có được một người bạn đồng hành trong cuộc đời này của đại thi hào.
Dù đã ba thế kỷ trôi qua, tên tuổi Nguyễn Du cùng những tác phẩm vĩ đại của ông vẫn mãi được ghi nhớ. Điều này chứng tỏ rằng tài năng và giá trị của những nhà văn tài hoa luôn được tôn trọng và yêu mến dù thời gian trôi qua. Điều này tạo nên giá trị nhân văn cao quý cho bài thơ.
Bằng tám câu thơ chữ Hán thất ngôn bát cú, sử dụng ngôn từ uy nghiêm và tinh tế, Nguyễn Du đã mạnh mẽ lên án sự bất công của xã hội phong kiến đối với phụ nữ tài sắc. Bài thơ gợi lại sự đau lòng và đồng cảm của độc giả trước số phận đáng thương của phụ nữ. Từ đó, chúng ta hãy trân trọng và yêu mến, có ý thức bảo tồn những giá trị văn hóa, tài năng của cả người xưa và người nay.
Giới thiệu về bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du - Mẫu 2
Độc Tiểu Thanh kí được xem là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, được in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ này trước hoặc sau khi được triều đình cử sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ luôn liên quan đến câu chuyện về Tiểu Thanh, một phụ nữ tài sắc vẹn toàn sống vào thời đại nhà Minh. Với số phận éo le, nàng phải làm vợ lẽ cho một thương gia giàu có ở Hàng Châu, Chiết Giang. Bị vợ cả ghen ghét, nàng bị giam cầm trong một ngôi nhà riêng biệt trên núi Cô Sơn. Nàng viết những bài thơ để ghi lại nỗi đau của mình. Không lâu sau, Tiểu Thanh qua đời, với tuổi đôi mươi. Mặc dù đã mất, vợ cả vẫn ghen ghét và đốt hết tập thơ của nàng. May mắn thay, một số bài được ghi lại bởi người khác và được gọi là Phần dư (đốt còn sót lại), kể lại câu chuyện bi kịch của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ đó, lòng tràn đầy thương cảm với cô gái tài sắc bạc mệnh, đồng thời ông cũng thể hiện nỗi lo lắng, đau đớn trước số phận bất hạnh của nhiều người tài hoa khác trong xã hội xưa, trong đó có cả chính ông.
Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ cảnh đẹp biến thành gò hoang,
Thổn thức bên dòng sông chỉ còn giấy tàn.
Son phấn có ma thuần hóa vẫn mang hận thù,
Văn chương không mệnh bị đốt nhưng vẫn vẹn nguyên.
Sự hận kim cổ của trời đã không hỏi,
Người mang án phong lưu chấp nhận tự ôm.
Không biết ba trăm năm sau,
Người xưa ai sẽ khóc cho Tố Như đâu?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Cảnh đẹp Tây Hồ biến thành nơi hoang vu,
Xót xa bên dòng nước chỉ còn mảnh giấy tan tác.
Son phấn vẫn còn mang nỗi oan trái,
Văn chương vẫn sống dù đã bị đốt cháy.
Sự hận của trời không ai giải đáp,
Án phong lưu phải tự gánh chịu.
Sau ba trăm năm không biết,
Người xưa ai sẽ khóc cho Tố Như?
Tiếp cận Tiểu Thanh ba trăm năm sau khi nàng ra đi, lòng của nhà thơ Nguyễn Du tràn ngập nỗi tiếc nuối trước bi kịch cuộc đời đau buồn:
Cảnh đẹp Tây Hồ biến thành gò hoang,
(Thành phố Tây Hồ đẹp đẽ biến thành đống đổ nát,)
Câu thơ đánh thức trí tưởng tượng mạnh mẽ. Phong cảnh xưa đẹp đã biến thành đống đổ nát, tan tác không còn gì. Trên gò hoang ấy, nằm chôn vùi cả một quá khứ huy hoàng của nàng Tiểu Thanh. Khi nhắc đến cảnh đẹp Tây Hồ, tác giả có thể muốn nói về những con người đã từng sinh sống ở đây, nhất là Tiểu Thanh. Cuộc sống của cô gái tài sắc này cũng chỉ còn lại những câu chuyện về mình. Cảnh tượng đó khiến lòng nhà thơ xao xuyến với những hồi ức về một cuộc đời bi thương:
Còn lại một tấm giấy còn sót sót giữa hai đống tro tàn.
(Thổn thức bên bờ sông, nhìn mảnh giấy tàn.)
Những bài thơ của Tiểu Thanh thể hiện tâm trạng của cô như thế nào?
Chắc chắn là nỗi buồn đau cho số phận, nỗi đau thương cho cuộc đời dang dở và hơn hết là nỗi đau lòng vì tình yêu không được đáp lại. Tiếng lòng của Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng của Nguyễn Du, điều này đã gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ. Nhà thơ gửi lời thương tiếc đến Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là lời thương tiếc cho chính mình – một trong những người cùng chia sẻ số phận trong thế giới phong vận.
Nguyễn Du cảm thấy như linh hồn của Tiểu Thanh vẫn còn tồn tại ở khắp mọi nơi. Nàng qua đời khi còn rất trẻ, trong cô đơn và đau khổ. Sự oan uổng của nàng sẽ không bao giờ tan biến?
Sơn phấn có thần, chôn vẫn mang hận,
Văn chương vô mệnh, lụy phần dư:
(Sơn phấn mang hồn, chôn vẫn giữ hận,
Văn chương không thể mất, đốt vẫn còn vương.)
Ba trăm năm trôi qua, nhưng mọi điều liên quan đến nàng vẫn còn đọng lại. Son phấn không chỉ là mỹ phẩm mà còn là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ; chính là Tiểu Thanh. Son phấn đích thị là biểu tượng của vẻ đẹp, vẻ đẹp ấy vẫn tồn tại mãi với thời gian như danh tiếng của Tây Thi, Dương Quý Phi truyền miệng qua năm tháng. Nỗi hận trong son phấn cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của vẻ đẹp, của sự Tươi đẹp bị bóp méo, bị xóa sổ. Dù bị chôn vùi, bị hủy hoại, nhưng nỗi hận đó vẫn còn sâu sắc, vẫn đọa đày lòng người suốt muôn đời.
Văn chương là tài sản của Tiểu Thanh cũng như là tinh thần của cuộc đời. Văn chương không biết chết như con người. Ở đây, nó tựa như mang linh hồn, biết giận, biết thương, biết chiến đấu để tồn tại, để truyền đạt điều gì đó sâu sắc cho thế hệ sau. Dù bị đốt cháy, bị phá hủy, những gì còn sót lại vẫn khiến con người cảm thấy xót xa, thương tiếc. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng vẫn sống và liên kết với Tiểu Thanh, thể hiện sự hối tiếc thương tâm. Hai câu thơ tràn đầy ý nghĩa, chứa đựng nỗi đau, như tiếng khóc thổn thức, ngân nga.
Đến hai câu thơ sau:
Nỗi hận cổ kim vì số phận gian nan đầy nghiệt ngã,
Vận mệnh oan trái mà tôi phải tự gánh chịu.
(Nỗi oán hờn kim cổ trời không đáng hỏi,
Mỗi người tự gánh vác số phận đầy bi kịch.)
Nhà thơ tiếp tục thể hiện lòng thương cảm sâu sắc. Câu thơ 'nỗi oán hờn kim cổ trời không đáng hỏi' tỏ ra biểu lộ sự tuyệt vọng. Từ nỗi oán nhỏ bé cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du mở rộng ra là nỗi oán truyền kiếp của những người tài hoa. Liệu có phải tài hoa bạc mệnh là một quy luật không thể thay đổi của số phận? Nếu đúng vậy, thì nguyên nhân là gì? Trải qua hàng ngàn năm, nỗi oán hờn ấy đã tích tụ mà không ai biết giải đáp. Nỗi oán lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh là biểu hiện rõ ràng của sự vô lí, bất công, nhưng không ai có thể giải thích được. Do đó, nỗi oán đó càng lớn lên, càng thêm sâu sắc.
Trong câu thơ về phong vận, ý chỉ không phải là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần của những người tài hoa. Họ là bản chất tinh túy của thế gian, nhưng sao số phận họ lại đầy gian truân? Nguyễn Du đã từng viết: 'Chữ tài liền với chữ tai một vần'. Vì vậy, cái án phong lưu trở thành cái án mà kẻ tài hoa phải gánh chịu suốt đời. Biết rõ điều đó, nhưng sao bao thế hệ văn nhân vẫn ôm nó vào lòng. Nguyễn Du đã đồng cảm với Tiểu Thanh để thể hiện những điều băn khoăn mãi về tình huống đó.
Ngày càng suy tư, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và bản thân mình. Từ việc thương người, ông chuyển sang thương chính mình:
Chẳng biết sau ba trăm năm nữa,
Người ta còn nhớ Tiểu Thanh không?
(Không biết sau ba trăm năm nữa,
Có ai khóc Tố Như không?)
Câu hỏi sâu lắng thể hiện tâm trạng trăn trở của Nguyễn Du và hy vọng vào sự đồng cảm của thế hệ sau với số phận của mình. Ba trăm năm là một khoảng thời gian dài, và ông mong chờ rằng sau này, có người hiểu và chia sẻ nỗi buồn của mình như ông đã hiểu và chia sẻ nỗi buồn của Tiểu Thanh. Câu thơ thể hiện sự cô đơn của ông trong hiện tại và niềm hy vọng vào tương lai. Hy vọng đó không chỉ dành cho Tố Như mà còn cho những người tài hoa khác.
Nguyễn Du cảm thấy có một sự liên kết tinh tế giữa mình và Tiểu Thanh. Sau khi Tiểu Thanh mất, ba trăm năm sau, liệu có ai nhớ đến ông và khóc cho ông không?
Câu thơ như một tiếng khóc bi thương cho số phận cô đơn, không có ai chia sẻ; một mình ôm nỗi hận của những người tài hoa giữa cuộc đời. Đó là tâm trạng của Nguyễn Du, như tâm trạng của Kiều trong thơ. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Bài thơ mở đầu với sự thương hại đối với người khác, kết thúc với sự thương hại đối với chính mình. Tứ thơ này không gì lạ lẫm, vì Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã trở thành một – một phần trong số nhiều số phận đau thương trong xã hội phong kiến cũ.
Bài thơ thể hiện lòng thương cảm sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người, một tình cảm vô hạn không bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ông không chỉ thương người sống mà còn thương nhớ những người đã ra đi cách đây hàng trăm năm. Sự thương người và tự thương, đó là biểu hiện cao quý nhất của đạo làm người. Đời người có hạn nhưng nỗi đau của họ là vô hạn. Trái tim nhạy cảm của nhà thơ đã cảm nhận được nỗi đau to lớn đó. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là biểu tượng cao quý nhất của tư tưởng nhân văn trong tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du.