Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Đọc Tiểu Thanh kí từ Truyện Kiều của Nguyễn Du đem lại dàn ý và bài văn mẫu cực kỳ xuất sắc. Giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nguồn tư liệu tham khảo để củng cố kiến thức và rèn kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn.
Đọc Tiểu Thanh kí là một trong những tác phẩm đáng chú ý bằng chữ Hán của Nguyễn Du. Nó phản ánh được cảm xúc và suy tư của tác giả về số phận khó khăn của phụ nữ trong xã hội cũ. Dưới đây là dàn ý và bài nghị luận văn học Đọc Tiểu Thanh kí mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý nghị luận về Đọc Tiểu Thanh kí
1. Bắt đầu phân tích Đọc Tiểu Thanh kí
- Giới thiệu một số điểm về Nguyễn Du:
+ Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong những danh nhân văn hóa của Việt Nam, được biết đến với tài năng xuất chúng và lòng yêu nước sâu sắc.
- Giới thiệu về bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí:
+ Đọc Tiểu Thanh kí là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, là tiếng nói đồng cảm với số phận đau thương của phụ nữ dưới thời phong kiến.
2. Bước vào phân tích chi tiết Đọc Tiểu Thanh kí
* Khám phá tổng quan về cuộc đời của Tiểu Thanh
- Tiểu Thanh là một nhân vật thực sự tồn tại, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước, trong thời kỳ Minh (Trung Quốc), là một người vô cùng thông minh và tài năng.
- Mặc dù có vẻ ngoài xinh đẹp và tài năng, nhưng Tiểu Thanh phải đối mặt với số phận cô đơn, bất hạnh và côi cút.
- Nàng bị ghen tuông bởi vợ cả và bị đày ra sống ở Cô Sơn, bên bờ hồ Tây Hồ, một mình đối mặt với cuộc sống khó khăn.
- Trước khi mất vào tuổi 18 vì buồn bã, Tiểu Thanh đã để lại một bộ sưu tập thơ, nhưng sau đó bị vợ cả đốt cháy, chỉ còn lại một số bài trong 'phần dư'.
=> Tiểu Thanh là một phụ nữ tài năng và đẹp đẽ, nhưng số phận của cô lại đầy bất hạnh.
* Quan điểm 1: Sự đồng cảm với Tiểu Thanh khi đọc về phần dư của cô (hai câu đề)
'Tây Hồ rực rỡ hoa lá phủ kín khắp thành phố'
(Tây Hồ trở nên rực rỡ với hoa lá phủ kín khắp thành phố)
- Tây Hồ rực rỡ với hoa lá phủ kín khắp thành phố -> Sự đối lập giữa vẻ đẹp tự nhiên và sự phồn thịnh của thành thị
- “phủ kín”: bao phủ hoàn toàn, trải khắp
-> Nguyễn Du sử dụng sự thay đổi của cảnh sắc để diễn đạt sự biến đổi của cuộc sống: Hồ Tây, một cảnh đẹp xưa kia, bây giờ trở thành một vùng đất hoang tàn.
=> Cảm thấy đau lòng và tiếc nuối cho vẻ đẹp chỉ còn tồn tại trong quá khứ.
'Viếng bên bờ sông mảnh giấy cuối cùng'
(Thổn thức trước mảnh giấy cuối cùng bên bờ sông)
- 'viếng': một mình đến thăm - 'thổn thức': cảm xúc đau buồn, đồng cảm
- 'cuối cùng': cuốn sách kỷ niệm - 'mảnh giấy tàn': bài thơ cuối cùng viếng nàng Tiểu Thanh của Nguyễn Du.
-> Một mình nhà thơ đắm chìm trong suy tư khi đọc những bài thơ của Tiểu Thanh.
-> Đặt nặng vào sự cô đơn và sâu lắng, đầy xót xa, tiếc nuối với người phụ nữ xưa.
=> Hai câu thơ thể hiện lòng thương xót của nhà thơ dành cho Tiểu Thanh, người con gái tài sắc nhưng số phận bất hạnh. Sau khi nàng ra đi, chỉ còn lại Hồ Tây nhưng nó không còn đẹp như lúc nàng còn sống.
* Luận điểm 2: Số phận bi thương, uất hận của Tiểu Thanh (hai câu thực)
Son phấn vẫn còn dấu vết của hận thù
(Dù chôn vùi, hận thù vẫn còn sống mãi)
- 'Son phấn': biểu tượng của sự trang điểm, đại diện cho vẻ đẹp, nhan sắc của phụ nữ.
-> Nét đẹp quyến rũ của Tiểu Thanh.
Văn chương vẫn tiếp tục tồn tại dù người sáng tác đã khuất
(Tác phẩm văn học vẫn còn sống mãi sau khi tác giả qua đời)
- 'Văn chương': biểu tượng cho tài năng.
- 'hận, vương': biểu hiện của cảm xúc
- “Chôn”, “đốt”: hành động của người vợ cả hiện rõ sự căm ghét và sự khinh miệt đối với Tiểu Thanh.
-> Triết lý về số mệnh con người: tài năng gặp vận mệnh, vận mệnh đồng đều với tài năng, vẻ đẹp vĩnh viễn… những phẩm chất xuất sắc thường bị coi thường.
-> Xã hội phong kiến không hề chấp nhận sự xuất sắc của con người.
=> Nhắc lại cuộc đời đau thương của Tiểu Thanh, tôn vinh và khẳng định vẻ đẹp và tài năng của nàng, đồng thời cảm thấy xót xa cho số phận bi kịch của nàng - cái nhìn nhân đạo và tiến bộ.
* Quan điểm 3: Suy tư và đồng cảm của tác giả với Tiểu Thanh (hai câu quan điểm)
Mối oán kim cổ, trời đâu trách nhiệm
Định mệnh phong vũ, ta tự gánh vác
(Nỗi oán kim cổ, trời không trách nhiệm
Định mệnh phong trần, ta tự gánh mang)
- “Kỉ oan kim cổ”: oán hận từ quá khứ đến hiện tại, oán hận kéo dài vô thời kỳ -> mối oán hận của những con người có tài mà lại bị định mệnh chơi khăm.
- 'Khó mà hỏi trời được': vấn đề quá phức tạp, không thể giải quyết được
-> Nỗi oan trái của thân phận người phụ nữ tài năng trong xã hội phong kiến bất công: người có tài lại không được hạnh phúc, nghệ sĩ có sắc thường lẻ loi.
- 'Oán hận kỳ lạ': nỗi oán hận khó hiểu
- 'Ta': chính bản thân chúng ta
-> Nỗi oán hận khó hiểu bởi lối sống lịch sự. Số phận đắng cay của những người tài năng trong xã hội cổ xưa.
=> Nguyễn Du không chỉ thương cảm với Tiểu Thanh mà còn đề cập đến nỗi oán hận của mọi người, của mọi thời đại trong đó có chính bản thân ông. Điều này thể hiện sự đồng cảm sâu sắc đến cùng của ông.
* Quan điểm 4: Từ lòng thương người, tác giả đau xót cho chính mình (hai câu kết luận)
Không biết ba trăm năm sau còn gì
Người đời liệu còn nhớ Nguyễn Du không
(Chẳng biết ba trăm năm sau còn gì
Người đời liệu còn nhớ Nguyễn Du không)
- 'Ba trăm năm lẻ': Một khoảng thời gian dài, biểu thị sự trường tồn
- 'Nguyễn Du': Tên thật của tác giả của truyện
-> Tiếng khóc dành cho Tiểu Thanh đã được tác giả hiểu và giải quyết, nhưng ông lo lắng không biết sau này ai sẽ nhớ đến ông.
=> Tâm trạng thơ đột ngột chuyển từ 'thương người' sang 'thương bản thân' với mong muốn tìm thấy sự đồng cảm trong thế hệ sau.
- Câu hỏi dè dặt: 'Ai sẽ nhớ đến Nguyễn Du khi ông mất' -> một câu hỏi đầy xót xa, đau lòng, thể hiện sự cô đơn đau đớn, ngậm ngùi của tác giả trong hiện tại.
-> Mong muốn gặp được tấm lòng tri kỉ giữa cuộc sống.
=> Tâm trạng hoài nghi, đau khổ, thương người, thương bản thân của nhà thơ. Trái tim nhân ái vô biên vượt qua mọi không gian và thời gian.
3. Kết luận về việc Đọc Tiểu Thanh kí
- Tóm lại giá trị về nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
- Nội dung: Thể hiện cảm xúc, tư duy của Nguyễn Du về số phận bi thảm của phụ nữ có tài văn trong xã hội phong kiến, đau lòng cho những giá trị tinh thần bị đạp đổ - một phương diện quan trọng trong triết lý nhân đạo của Nguyễn Du.
- Đặc sắc nghệ thuật: Sử dụng hình thức thơ thất ngôn bát cú Đường, từ ngữ thơm tho, sâu sắc triết lý, nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ; hình ảnh thơ giàu ý nghĩa, đầy biểu tượng.
Phân tích Đọc Tiểu Thanh kí
“Tiếng thơ ai rút rung trời đất
Nghe như dòng sông hát bài ngàn thu”
Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những câu thơ của Nguyễn Du vẫn còn sâu sắc trong lòng người đọc. Vì như tác giả đã nói, việc sáng tác thơ của ông giống như máu chảy trên ngòi bút, nước mắt thấm qua trang giấy. Thơ của ông thể hiện sâu sắc nỗi đau từ cổ chí kim của con người, đặc biệt là của phụ nữ - những “kiếp hồng nhan” hay những người tài năng mà số phận đã không mến. Và “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào Nguyễn Du. Chính tấm lòng đó đã khiến tác phẩm của ông tồn tại mãi mãi trong suốt lịch sử hoặc có lẽ cũng là nhờ cái nhìn sâu sắc trong xã hội như nhà văn, nhà triết học Pháp Diderot đã nói: “Nghệ thuật là nơi phát hiện ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường”.
Trong cuộc sống bận rộn hàng ngày, hiếm ai dám chậm lại để tận hưởng những điều phi thường trong những điều bình thường. “Tìm thấy điều phi thường trong điều bình thường” là cách tiếp cận, cách nhìn sâu sắc vào mọi vấn đề. Nếu chỉ tập trung vào những điều lấp lánh, nổi bật bề ngoài thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong những vật chất hữu hạn đó. Nhưng “phải nhìn thấy điều bình thường từ cái phi thường”. Đây là cách đánh giá tổng thể, đơn giản hóa vấn đề, chỉ có con mắt nhạy bén mới có thể dễ dàng nhìn ra vẻ đẹp giản dị, quen thuộc của đối tượng cần xem xét. Lời nhận xét của Diderot đã đưa ra một quan điểm hoàn toàn chính xác: “Người nghệ sĩ phải có cái nhìn linh hoạt, sâu sắc, đa chiều về một vấn đề hoặc vật phẩm văn học”.
Theo Mộng Liên Đường chủ nhân: “Nguyễn Du có ánh mắt nhìn sâu sắc qua sáu cõi, trái tim suy ngẫm suốt nghìn đời” Thực tế, trái tim của Nguyễn Du luôn nhớ lo cho con người, ông vui mừng với niềm vui của con người, đau đớn với nỗi đau của con người, phải khóc, phải cười, phải lo lắng cho con người. Thơ của ông nặng nề suy tư, đau khổ một cách sâu sắc: “Cuộc sống con người”. Lời thơ như tiếng tri âm, cảm thông từ những kẻ chung số phận đặc biệt là Tiểu Thanh trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí”. Hai con người như hòa vào nhau để phát ra tiếng than đau đớn, đầy nỗi lòng.
Trong xã hội phong kiến của thời đại, bao nhiêu phụ nữ phải chịu đựng những nỗi khổ của cuộc sống cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng Nguyễn Du không viết về những phụ nữ đó mà chính sự tài năng “tìm thấy điều phi thường trong những điều bình thường” đã giúp ông vượt qua cả rào cản thời gian (hơn 300 năm) và không gian địa lý (Trung Quốc) để đến gần với tâm hồn của Tiểu Thanh - một người phụ nữ tài năng nhưng lại bị ghen tuông, bị đày đi sống ở Cô Sơn gần Tây Hồ.
Buồn thay, nàng mất bệnh và để lại một tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen tức nên đốt tập thơ đó, bây giờ chỉ còn lại một số bài thơ được gọi là “phần dư”
Câu thơ đầu tiên được cất lên là lời than thở cho vẻ đẹp bị đàn áp, phá huỷ một cách tàn nhẫn:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
Cảm xúc trước sự biến đổi của cuộc sống là cảm xúc có tính nhân văn rất phổ biến trong thơ trung đại. Nguyễn Trãi khi đến núi Dục Thúy đã cảm nhận được cảnh “rêu phủ nét chữ người xưa”. Bà Huyện Thanh Quan thảng thốt trước cảnh “dấu vết cũ của xe ngựa” giờ đây chỉ là “hồn thảo mộc thu”, “bóng dáng cũ của lâu đài” gợi nhớ một triều đại đã qua. Câu thơ của Nguyễn Du kể về sự biến đổi của cuộc sống nhưng tâm trạng của thi nhân lại nằm ở sự tàn phá tàn bạo của vẻ đẹp. Hình ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong chữ Hán “tẫn thành khư” gợi lên sự biến đổi mãnh liệt không còn dấu vết nào. Có vẻ như cần có một cái nhìn tinh tế để nhận ra rừng rác ở nơi gò hoang xưa kia đã từng là một địa điểm rất đẹp. Thời gian làm hỏng mọi thứ, làm mờ đi tất cả. Trong khi nhớ lại, tác giả bỗng nhận ra và trở lại với hiện thực, với sự phản đối ngược đời, phản đối giữa quá khứ và hiện tại, giữa vẻ đẹp lộng lẫy/sự hoang vu cô đơn.
Khi nhớ về Tây Hồ là khi nhớ về Tiểu Thanh - người phụ nữ tài năng bạc mệnh. Nguyễn Du tiếc nuối đau đớn, trách oan trước số phận không công bằng của Tiểu Thanh. Sự ra đi của nàng là bằng chứng bi kịch cho một cuộc sống tuyệt vời, từ đó càng thêm tiếc nuối trước cảnh và người đẹp đều phải chia sẻ số phận. Nếu trong Truyện Kiều, Thúy Kiều gặp gỡ Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan thì trong Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du hiểu rõ nỗi oan của Tiểu Thanh qua “mảnh giấy tàn” trước cửa sổ:
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên còn có sự chứng kiến của chị em Kiều, còn viếng thăm của Nguyễn Du với Tiểu Thanh chỉ qua một cuốn sách bị đốt dở. Từ “độc” và “nhất” trong câu thơ chữ Hán cũng để nói về một trái tim đau đớn tìm kiếm một linh hồn đau khổ. Ông đối diện với số phận của Tiểu Thanh một mình. Có lẽ đây là sự đồng cảm giữa “nhà thơ và phụ nữ”, giữa “quá khứ và hiện tại”.
Nguyên phụ nữ mang số phận đầy bi thương, song bằng ngòi bút nhân đạo, Nguyễn Du đã khám phá ra những vẻ đẹp tài năng và tâm hồn sâu thẳm bên trong nàng. Cuộc đời Tiểu Thanh là một ví dụ điển hình cho hai bi kịch lớn: nhan sắc bị phụ và tài năng không được công nhận. Người phụ nữ xinh đẹp nhưng đáng tiếc lại chết yếu. Có tài năng văn chương nhưng bị xôn xao. Cuộc sống của Tiểu Thanh chính là một cuộc chiến tranh của sự căm hận:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.
Nguyễn Du nhắc về cuộc đời của Tiểu Thanh thông qua những biểu tượng ẩn dụ quen thuộc, son phấn là biểu tượng cho vẻ đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tài năng của Tiểu Thanh. Hai đối tượng vật lý không có linh hồn nhưng được nhân cách hóa như có “thần”, có “hồn”. Nước mắt và máu của Tiểu Thanh đã tạo ra “thần”, “mệnh” của son phấn, văn chương, hoặc “niềm cảm thông kỳ lạ của nhà văn dân tộc” (hoài Thanh) đã tạo ra “thần”, “hồn” để giữ lại nỗi hận đến vĩnh viễn? Tâm trạng của Tố Như càng bức bối thì câu thơ càng đa nghĩa. Nếu hiểu văn chương là người tự oán thì có thể hiểu: son phấn có thần, cũng đáng tiếc cho những việc sau khi chết, văn chương không có số phận nào cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là những đối tượng được người đời thương tiếc thì có thể hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết mọi người còn thương tiếc, văn chương có số phận gì mà người ta phải lo lắng về những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh xinh đẹp, tài năng là sự thật, nhưng chỉ cần nhìn xa hơn, đó chỉ là một phụ nữ “bình thường”, phải đối mặt với nỗi đau chung, rất “bình thường” về cả thân xác và tinh thần.
Nhưng cuối cùng, tất cả đều quay về sự cảm hứng mãi mãi của Nguyễn Du trước cái đẹp và tài năng. Ta đã gặp thấy nỗi thương cảm của Nguyễn Du cho “số phận đầy chướng ngại”, nhưng đồng thời ca ngợi một phụ nữ vô cùng tuyệt vời: “Núi xanh xuống như cành xinh / Vẻ đẹp của mùa xuân ngát sáng sáu phương” khi thăm ca nữ đất La Thành. Trong “Độc Tiểu Thanh kí”, cái đẹp có thể bị tàn phá về thân xác nhưng “hận vẫn còn sống”. Số phận của Tiểu Thanh quả thật ngắn ngủi, còn số phận của văn chương thì “vẫn còn sống”. Giọt nước mắt xót xa cho Tiểu Thanh đã trở thành những viên ngọc quý và lời ca tỏ lòng kính trọng cái đẹp. Trong bối cảnh xã hội phủ nhận tài năng, trí tuệ của phụ nữ, tác phẩm của Nguyễn Du lại càng được đánh giá cao vì lòng nhân đạo sâu sắc.
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Từ nỗi căm hận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du suy tưởng đến căm hận vĩnh hằng, căm hận hiện tại vẫn vướng bận không nguôi. Từ nỗi đau riêng của Tiểu Thanh, ông hình dung ra nỗi đau từ thời gian vĩnh cửu của nhiều nhà văn tài hoa. Sự oan uất của Tiểu Thanh, trong tâm trí ông, có lẽ còn liên quan đến số phận đầy oan uất của nhiều nhà văn như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ - những người có tài năng mà ông luôn kính trọng - và nhiều tài năng bị vận mệnh áp đặt khác nữa. Những nỗi oan uất của nhiều thế hệ, “khó thể hỏi trời”. Câu thơ đã giúp chúng ta hình dung được cuộc sống của những nạn nhân của chế độ phong kiến, phản ánh sự bất bình, uất ức của nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện sự bế tắc của Nguyễn Du. Vì vậy, nỗi căm hận trở nên quá lớn, không thể tìm được câu trả lời: “Khó thể hỏi trời”. Lời thơ như lời than trách, oán trách trời về sự đời nghiệt ngã, trái ngang đã đẩy nhiều người tài vào cuộc đời buồn bã, đau khổ. Nhưng nếu hỏi trời, cũng không mong mỏi được câu trả lời, vì vậy càng căm hận, càng đau đớn. Nỗi đau của Tiểu Thanh ban đầu có vẻ riêng tư nhưng Nguyễn Du đã nhận ra rằng nó thực sự là một nỗi đau phổ biến, rộng lớn - đó là nỗi đau của một tầng lớp, một thế hệ:
“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
Bên cạnh căm hận là sự “án phong lưu”. Và đây lại là một trường hợp đắng cay; người phong lưu phải chịu đựng nỗi oan uất khác thường vì phẩm hạnh lịch lãm. Đến câu thơ thứ sáu, người phong lưu và chủ thể đã trở nên một:
“Phong vận kì oan ngã tự cư”
Việc dịch từ “ngã” thành “khách” không thể nào làm nổi bật được sự nhập thân của chủ thể vào người phong lưu. Nguyễn Du tự nhận mình là bạn đồng hành của Tiểu Thanh. Đó là sự đồng cảm chân thành, và cũng thể hiện tầm vóc cao lớn của chủ nghĩa nhân đạo của ông. Không phải lần đầu tiên nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng đóng giả là Kiều để khóc cho nhân vật, ông đã từng tự khẳng định một cách tự tin: “Thời nhỏ, ta tự tin rằng mình có tài”. Cách ông nhìn nhận người khác và đặt mình vào hoàn cảnh đó, trong thơ cổ điển Việt Nam trước đó có lẽ chưa ai làm được như vậy. Bằng cách tự nhận mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã chia sẻ cảm xúc của mình cùng với nhân loại. Bày tỏ lòng chung của những người bị “oan kỳ” một cách rất rõ ràng, khiến người đọc cảm thấy không thể không xót xa. Cảm xúc đó không chỉ là của Nguyễn Du mà còn là của các nhà thơ cùng thời. Vậy là từ việc chia sẻ nỗi đau của người khác, Nguyễn Du đã chuyển sang tự đau thương cho bản thân.
Hai câu thơ cuối kết thúc bài thơ là ước ao tri âm của Nguyễn Du trong tương lai:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không chỉ nghĩ về quá khứ và hiện tại, mà còn nghĩ về tương lai, không chỉ hỏi trời, đất mà còn hỏi con người. Ba trăm năm sau, liệu có ai giống như Tố Như trong thiên hạ? Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức bên bờ sông” với “tờ giấy tàn phai”. Nhưng liệu Nguyễn Du có ai khóc, ai đau vì số phận trôi nổi? “Bất tri” - không thể biết được. Niềm tự thương tụ thành một câu hỏi mơ hồ giữa không gian, không ai có thể trả lời được, vì vậy tự đau đến tận cùng. Ông mong muốn tìm thấy sự tri âm trong tương lai vì khi một mình, con người dễ trở nên yếu đuối, không hy vọng. Nhà thơ khao khát hi vọng cho tương lai: đời sau có thể sẽ có người “khóc nhớ người xưa” vì thời Nguyễn Du khốn khó, ao ước được giải phóng nhưng vẫn bế tắc. Mặc dù bế tắc nhưng hy vọng vẫn còn. Vì vậy, thông điệp của Tố Như gửi tới tương lai không phải là tuyệt vọng mà là hi vọng được giải phóng.
Tự thương mình là một đặc điểm mới mang tính nhân văn của cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, khi con người chưa nhận thức về bản thân, về tài năng và nỗi đau của mình. Tự thương mình là sự tự ý thức, là sự thấu hiểu bản thân qua nước mắt, để chống lại sự chi phối của quan niệm “vô ích”, “không giá trị”.
Bài thơ bắt đầu với việc khóc và thương người khác, kết thúc bằng việc khóc và thương chính mình. Khóc và thương người khác là biểu hiện cao quý của lòng nhân ái. Khóc và thương chính mình là biểu hiện sâu sắc của tư tưởng nhân đạo. Độc Tiểu Thanh kí đã kết nối được cả hai khía cạnh này.
Chỉ cần tám câu thơ, đủ để người đọc cảm nhận được tâm hồn yêu cuộc sống, yêu con người của Nguyễn Du. Không cần đến 300 năm sau, hậu thế vẫn nhớ về ông, nhớ về những vần thơ tràn đầy cảm xúc như ánh sáng rực rỡ trong kho tàng văn chương trung đại và văn học Việt Nam nói chung:
“Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người.”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Nghệ thuật chân chính không cần phải sử dụng từ ngữ hoa mỹ, không cần phải đề cập đến những đề tài mới lạ mà “Nghệ thuật là nơi khám phá cái phi thường trong điều bình thường và cái bình thường trong điều phi thường”. Để làm được điều đó, người làm thơ cần có năng khiếu, vốn hiểu biết rộng, tầm nhìn thẩm mỹ cao cả, nhưng quan trọng nhất là phải có một trái tim sáng ngời vì “thơ là tiếng của trái tim” (Diệp Tiếp).
Thông qua tác phẩm văn chương, nhà thơ nhìn nhận cuộc sống một cách cao thượng, mang giá trị nhân văn. Hiểu biết sâu sắc về những điều “thường”, “phi thường”, thi sĩ có thể đánh giá cuộc đời một cách sâu rộng. Từ cuộc sống đầy đau khổ và bất công của Tiểu Thanh, nhà thơ thể hiện sự cảm thông, tiếc nuối, tiếc rẻ cho số phận dằng dặc:
“ Trải qua một cuộc sống đầy gian nan
Những điều trải qua mà làm lòng đau đớn”.
Chính sự hiểu biết sâu rộng về cuộc sống đã làm cho Nguyễn Du trở thành một nhà thơ lỗi lạc trong văn học Việt Nam. Điều này là minh chứng rõ ràng cho quá trình sáng tạo nghệ thuật của ông, một công việc đầy gian nan. Chúng ta nên biết ơn những nhà văn, nhà thơ như ông, vì nhờ họ mà chúng ta có thể hiểu rõ về mọi khía cạnh của cuộc sống, từ những điều cơ bản nhất đến những chi tiết tinh tế nhất, và tiến bộ trong sự nhận thức.
L.Tônxtôi đã khẳng định rằng: 'Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu dành cho con người, tình yêu cho ước mơ về một xã hội công bằng, bình đẳng và nhân ái luôn thúc đẩy các nhà văn và nhà thơ, khiến họ dốc sức, dốc hết tâm huyết, và đổ ra những suy nghĩ sâu sắc nhất, hiến dâng cả bầu máu nóng của mình cho hạnh phúc của nhân loại.' Nguyễn Du đã dùng trái tim mình để khóc cho Tiểu Thanh, cho một lớp người gặp phải sự bất công. Điều này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí của người đọc, biến chúng thành những bài học về sự sống đẹp và nhân từ.