Văn mẫu lớp 11: Phân tích 2 đoạn đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử mang lại gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 19 ví dụ văn mẫu khác nhau rất xuất sắc. Điều này giúp bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn phân tích tác phẩm ngày một tốt hơn.
Phân tích 2 đoạn đầu Đây thôn Vĩ Dạ rất hữu ích dưới đây là nguồn tài liệu vô cùng quý giá, là bạn đồng hành giúp bạn hiểu được cách làm bài, quan sát, liên tưởng, so sánh, chọn từ phù hợp. Bên cạnh phần phân tích 2 đoạn đầu Đây thôn Vĩ Dạ bạn cũng có thể tham khảo thêm: phân tích đoạn đầu Đây thôn Vĩ Dạ, phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Phân tích chi tiết 2 đoạn thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Bắt đầu: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
2. Phần chính:
Khổ 1: Hình ảnh vườn thôn Vĩ và tình cảm người dân:
Tại sao anh không quay về thăm thôn Vĩ?
Nhìn thấy ánh nắng rọi trên hàng cây cau mới mọc.
Vườn ai mà xanh tốt như ngọc
Cỏ trúc mát dịu che khuất những chữ điền.
+ Câu hỏi nhẹ nhàng đầu tiên đặt ra nhiều ý nghĩa: từ việc tự hỏi, trách móc nhẹ nhàng, đến lời mời mọc ân cần.
+ Các câu sau tạo nên bức tranh tinh tế về vẻ đẹp đậm chất thôn quê của thôn Vĩ trong sáng mai: cảnh vật tươi đẹp, trong trẻo, xanh mát dưới ánh nắng sớm; con người hiền lành, mến khách. Dưới nền bức tranh phong cảnh là tâm trạng nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, tình cảm sâu sắc và nỗi lo lắng của tác giả.
Khổ 2: Hình ảnh bầu trời, mây, dòng sông và nỗi đau cô đơn, sự ly biệt:
Gió theo dòng gió, mây theo dòng mây,
Dòng nước trôi buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền nào neo bến sông dưới ánh trăng kia,
Liệu có kịp mang trăng về trước khi đêm tối nay tan?
+ Hai câu đầu tóm gọn khung cảnh với hình ảnh gió mây chia ly, “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” thể hiện nỗi buồn thăm thẳm.
+ Hai câu sau mô tả dòng sông trong đêm trăng lấp lánh, huyền diệu, vừa thực vừa mơ. Đằng sau cảnh vật là tâm trạng đau đớn, cay đắng và khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
*Nghệ thuật:
– Lựa chọn từ ngữ tỉ mỉ, hình ảnh độc đáo, đầy sức hút, kết hợp sự hòa quyện giữa thực tế và tưởng tượng.
– Sử dụng một cách hiệu quả các kỹ thuật nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
– Câu hỏi khôn ngoan phản ánh chính xác tâm trạng của nhân vật.
– Sự thay đổi giọng điệu từ tha thiết, say mê đến đắm chìm, khắc khoải và buồn bã.
3. Kết thúc:
Đoạn thơ thể hiện sự sáng tạo và phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên, đời sống của nhà thơ.
Nhận định về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1, 2 - Mẫu 1
Khoảnh khắc thoáng qua như hoa nở và tàn, đẹp khi nở nhưng đau khổ khi tàn. Tuy nhiên, những khoảnh khắc đó được ghi lại trong thơ, trở thành những hình ảnh bất tử. Nếu bạn yêu thích vẻ đẹp của nông thôn, bạn sẽ bị cuốn hút bởi hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Một nhà thơ mạnh mẽ và sáng tạo đột ngột trở nên dịu dàng và lãng mạn, đan xen cảm xúc nhẹ nhàng vào khung cảnh thơ mộng.
Tại sao anh không trở về thăm thôn Vĩ?
Nhìn ánh nắng chiếu lên hàng cây cau mới mọc.
Vườn nào mà mướt mắt, xanh như ngọc
Cỏ trúc mát dịu che phủ những chữ điền.
Gió theo lối gió, mây theo dòng mây,
Dòng nước trôi buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền nào neo bến sông dưới ánh trăng kia,
Liệu có kịp đưa trăng về trước khi đêm tối nay tàn?
Bài thơ sử dụng hình thức thất ngôn tứ tuyệt, thể hiện tình yêu với thiên nhiên, cuộc sống và niềm nhớ mong của nhà thơ về người con gái ở thôn Vĩ. Tình cảm này vừa nặng nề, vừa đậm đà, cùng với vẻ dịu dàng đặc trưng của phụ nữ Huế yêu kiều. Tuy nhiên, đáng tiếc, người mà nhà thơ nhớ về lại đang bị mắc kẹt trong căn bệnh quái ác và không thể trở về. Do đó, dù nhớ nhung, người con gái vẫn chỉ nhẹ nhàng trách móc 'Tại sao anh không trở về thăm thôn Vĩ?'. Câu hỏi này cũng thể hiện sự mong đợi của người con gái đối với người bạn tri âm của mình. Câu hỏi này cũng có thể hiểu là sự thắc mắc của chàng trai, tự hỏi tại sao anh lại không trở về nơi mà cả hai đều nhớ nhung. Dù thế nào đi chăng nữa, chàng trai vẫn để lại một trái tim đầy chờ đợi tại quê hương.
Đằng sau câu hỏi đầy cảm xúc đó là bức tranh tươi đẹp của thiên nhiên ở thôn Vĩ, làm cho người xa xứ lưu luyến mãi. Tác giả Hàn Mặc Tử đã miêu tả khung cảnh từ xa đến gần, từ trên xuống dưới một cách tinh tế. Hình ảnh 'nắng hàng cây cau nắng mới lên' đưa ta đến một buổi sáng bình minh rạng ngời, là một hình ảnh nhìn từ xa. Cây cau tắm nắng, mỗi chiếc lá như được tô màu vàng dịu dàng, là đặc trưng của vùng Huế mộng mơ. Khi tiến gần hơn, chúng ta thấy một khu vườn bao la không rõ chủ nhân, nhưng mỗi chiếc lá đều xanh mát như viên ngọc dưới ánh sáng mặt trời. Và sau đó, khi nhìn lên, hình ảnh của một cô gái e thẹn ẩn sau tán lá được mô tả trong câu thơ 'lá trúc che ngang mặt chữ điền'. Hình ảnh này thể hiện vẻ đẹp thanh tao, tinh tế và kín đáo của phụ nữ Huế.
Gió theo lối gió, mây theo dòng mây,
Dòng nước trôi buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền nào neo bến sông dưới ánh trăng kia,
Liệu có kịp đưa trăng về trước khi đêm tối nay tàn?
Bằng một cách tinh tế, góc nhìn của nhà thơ vẫn là về hình ảnh đẹp của thiên nhiên ở thôn Vĩ. Ấy vậy mà khác biệt với khổ thơ trước. Phong cảnh nhẹ nhàng với màu sắc sáng rực đã biến mất, thay vào đó là một không khí buồn bã. Hình ảnh 'gió theo lối gió, mây theo dòng mây' đề cập đến sự phân ly và sự không chắc chắn của thế giới. Dòng nước trôi đều đều, nhưng buồn bã, có vẻ như cảm nhận được nỗi buồn của sự ly biệt. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, biến dòng nước trở nên gần gũi và đầy cảm xúc. Cùng với phong cảnh, tâm trạng của con người cũng chứa đựng nỗi lo lắng:
“Thuyền nào neo bến sông dưới ánh trăng kia,
Liệu có kịp đưa trăng về trước khi đêm tối nay tàn?”
Tác giả lo âu, bồn chồn khi không biết liệu 'ánh trăng' có trở về kịp hay không, giống như đang chờ đợi một người có đến vào tối nay không. Trong thơ ca, ánh trăng thường không chỉ là ánh sáng mỗi đêm mà còn là biểu tượng của một người chờ đợi ánh trăng quay trở lại. Liệu người con gái thôn Vĩ có đợi chờ, có kịp bên bờ sông, hoặc giữa cánh đồng hoa, để chờ đón ánh trăng trở lại?
Hàn Mặc Tử sử dụng các kỹ thuật văn học như so sánh, nhân hóa, điển hình,... để mô tả thiên nhiên và tâm trạng con người một cách khéo léo. Trong bức tranh đó, cảm xúc và hình ảnh hòa quyện với nhau, không phân biệt, tạo ra một nét đặc sắc. Bài thơ không quá bi thương nhưng vẫn chạm đến lòng người một cách nhẹ nhàng, không còn cảm nhận được chút 'điên cuồng' như thơ của Hàn Mặc Tử trước đây.
Hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã thể hiện sự tài năng của Hàn Mặc Tử và một lần nữa khẳng định tài năng của ông với những dòng cảm xúc sâu sắc. Sau khi đọc xong, người đọc luôn tự đặt ra câu hỏi liệu cô gái thôn Vĩ và chàng trai đó có thể gặp nhau sau bao mùa trăng lướt qua. Điều đó cũng là điểm kết thúc, khiến người đọc lưu luyến sau hai khổ thơ đầu.
Phân tích hai khổ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đạt điểm cao - Mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. Nguồn cảm hứng của ông từ tình yêu với cô gái thôn Vĩ Dạ - một người phụ nữ nông thôn dịu dàng và lãng mạn, đã tạo ra bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' đầy cảm xúc. Đặc biệt, tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ qua hai khổ thơ đầu.
'Tại sao anh không trở về thăm thôn Vĩ'
Câu thơ đầu tiên như một câu hỏi nhưng ẩn chứa trong đó là một nỗi niềm dịu dàng và xúc động sâu sắc. Câu hỏi này có sức cuốn hút không thể chối từ với nhà thơ về cô gái và cuộc sống ở thôn Vĩ, hoặc có thể là sự nhầm lẫn của chính tác giả, nỗi niềm thầm kín của nhà thơ khi trở lại thăm quê nhà và những người dân thôn Vĩ. Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh vật mà còn gợi lên kí ức về thiên nhiên và khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ trong lòng nhà thơ.
'Nhìn ánh nắng chiếu rọi, cây cau cao vút
Vườn xanh mướt như ngọc'
Có thể nhận thấy nhà thơ không chỉ đơn giản là miêu tả cảnh vật mà còn tạo ra hình ảnh đẹp nhất, rõ ràng nhất. Dưới ánh ban mai, những hàng cau cao vút trải dài như vẻ đẹp tự nhiên, trù phú của thôn Vĩ. Ánh sáng sớm mai làm cho cây cau trở nên đẹp hơn, nắng sớm phản chiếu đều trên cây cau tạo ra sự hài hòa, thống nhất, làm cho thiên nhiên và cảnh vật hòa quyện. Câu thơ 'Vườn xanh mướt như ngọc' mang lại cảm giác như nhà thơ đang lang thang trong khu vườn thôn Vĩ. Sử dụng các từ miêu tả đặc biệt như 'mướt' và 'xanh', cùng với hình ảnh so sánh 'mướt như ngọc', đã tạo nên ấn tượng về một khu vườn xanh tươi, sáng bóng như màu ngọc bích. Khu vườn ở thôn Vĩ, với vẻ đẹp mộc mạc và tinh tế dưới ánh nắng ban mai.
'Lá trúc che phủ cánh đồng rộng lớn'
Trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, con người bất ngờ hiện hình, làm cho cảnh vật sinh động hơn, có lẽ họ là chủ nhân của khu vườn. Sự xuất hiện này khá dịu dàng, kín đáo, khuôn mặt hiền lành ló ra từ phía sau lớp lá trúc. Hàn Mặc Tử đã thể hiện rõ không chỉ con người thôn Vĩ mà cả thiên nhiên như khu vườn xinh đẹp, con người chân chất, nhân hậu được gói gọn trong bốn dòng thơ đầu tiên. Từ khu vườn nhỏ của thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc vào một thế giới đầy tình cảm, nghiêm trang nhưng cũng ấm áp, sâu lắng của nhà thơ.
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay'
Nỗi buồn khi chia tay, cảm giác tội lỗi được thể hiện qua câu thơ 'Gió theo lối gió, mây đường mây'. Đoạn thơ gợi lên nhịp điệu êm đềm, dịu dàng của dòng sông và sự biến hóa của mây gió. Mây và gió thực chất là biểu tượng của mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời, nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử, thay vì đến với nhau, gió và mây lại đi ngược chiều. Trong thực tế, gió thổi, mây bay, gió sông thổi tạo sóng mới, nhưng ở đây mây và gió lại tách rời nhau, điều này hoàn toàn ngược lại với cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không đồng điệu nên dòng nước không gợn sóng, chỉ buồn nhìn “hoa bắp khẽ lay” đung đưa nhẹ nhàng. Hình ảnh dòng sông tuy đẹp nhưng lại hoang vắng, lạnh lẽo, vắng vẻ và chứa đựng nỗi buồn, cô đơn và mất mát của cuộc sống, của nhà thơ.
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Nhà thơ không chỉ cảm thấy buồn và cô đơn, mà còn giữ lại hy vọng vào tình yêu và sự đáp lại. Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ, mà còn dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh sông trở nên hư ảo, thơ mộng và rạng ngời, và dòng sông không chỉ là dòng sông đơn thuần nữa mà là dòng sông trăng tràn ngập ánh sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh trăng, mà còn chở cả niềm hy vọng khiêm tốn của nhà thơ. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện sự lo lắng, sợ hãi, nhưng trong màn sương mù dày đặc của tuyệt vọng và đau thương, một niềm hy vọng nhỏ nhoi vẫn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Chỉ có trăng mới hiểu được những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, quá trống vắng, hay chờ đợi quá lâu. Bằng cách sử dụng khéo léo câu hỏi tu từ và những ngôn ngữ miêu tả độc đáo và tràn ngập tính gợi hình, nhà thơ đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ. Nhịp thơ và phép đối được sử dụng để tạo nên sự đối lập trong mỗi câu thơ. Hình ảnh thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên chất thơ trữ tình độc đáo, sâu sắc.
Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử mở ra tầm nhìn cho người đọc hiểu về vẻ đẹp thiên nhiên và con người ở xứ Huế. Từ đó, ta cũng hiểu hơn về những tâm trạng, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tác giả. Một thôn quê nhỏ bên dòng sông Hương trở thành hình ảnh đẹp, rõ nét và sâu sắc về Huế nhờ vào bút pháp của Hàn Mặc Tử.
Phân tích 2 khổ đầu Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ đặc trưng nhất trong phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mặc Tử mang một “diện mạo” độc đáo, cá tính và cũng đầy bí ẩn. Ngoài những dòng thơ chứa đựng nhiều tâm tư cùng hình ảnh máu - trăng u ám, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít các tác phẩm thơ mang hình ảnh, tình cảm tươi sáng, trong trẻo với tình yêu của thi sĩ dành cho thôn Vĩ và cô gái xứ Huế. Trong hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện sống động bức tranh thiên nhiên xứ Huế và những cảm xúc, tình cảm chân thành nhất của bản thân.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Câu thơ mở đầu giống như một câu hỏi nhưng thực ra chứa đựng trong đó là lời trách móc nhẹ nhàng, tình cảm. Trong câu hỏi đó còn thấm đượm sự mời gọi tha thiết từ cô gái thôn Vĩ dành cho tác giả. Đó cũng có thể là lời tác giả tự trách mình, là sự khao khát thầm kín của nhà thơ: Trở về thăm lại làng quê và con người thôn Vĩ. Câu thơ không dùng từ “về thăm” mà lại là “về chơi” mang ý nghĩa gần gũi, tự nhiên và thân mật. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh về thiên nhiên trên những mảnh vườn nhỏ của thôn Vĩ trong ký ức của nhà thơ:
“Dưới ánh nắng bình minh, hàng cây cau thẳng tắp như tận cùng trời xanh.
Nhà thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn gợi lên hình ảnh tươi đẹp và ấn tượng. Ánh nắng sớm lan tỏa đều trên hàng cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa và thanh bình.
Câu thơ “Khu vườn rợp bóng mát như ngọc” mang lại cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tươi mát, bình yên ở thôn quê. Mô tả độ xanh mướt của vườn như màu sắc của ngọc.
Sự xuất hiện của con người trong câu thơ “Bóng mặt chữ điền cheo leo qua hàng lá tre” làm cho cảnh vật thêm sống động. Vẻ kín đáo, dịu dàng của hình bóng người dân và gương mặt hạnh phúc nơi làng quê.
Rời khỏi khu vườn xanh mát, tác giả chia sẻ những cảm xúc sâu lắng, phong phú trong cuộc sống. Cảm giác xa cách, nỗi buồn trong tâm hồn được thể hiện qua câu thơ “Gió theo lối gió, mây đi theo mây”.
“Thuyền nào đã cập bến dòng sông dưới ánh trăng ấy, Liệu có mang theo ánh trăng trở về đúng kịp tối nay?”
Dù mang trong mình nỗi buồn và cảm giác lạc lõng, nhưng tâm trạng của nhà thơ vẫn tỏa sáng hy vọng vào tình yêu và được đáp lại. Tình yêu trong bài thơ không chỉ dành cho người con gái của thôn Vĩ mà còn lan tỏa trong thiên nhiên và con người ở đây. Cảnh sông trở nên huyền bí, đẹp đẽ, như một bức tranh sáng chói với dòng nước biến thành dòng trăng lung linh. Con thuyền không chỉ mang ánh trăng mà còn gìn giữ niềm hy vọng mong manh của nhà thơ. Câu hỏi “Liệu có mang theo ánh trăng trở về đúng kịp tối nay?” thể hiện sự lo âu, trăn trở giữa màn đêm u tối, nhưng trong tâm hồn nhà thơ vẫn tỏa sáng một tia hy vọng nhỏ bé. Việc quay trở về “đúng kịp tối nay” không phải là một lựa chọn bất kỳ, có lẽ là vì nhà thơ đã cô đơn quá lâu hoặc đã chờ đợi quá khứ, chỉ có ánh trăng mới hiểu được những nỗi lòng thầm kín của nhà thơ. Với sự tài tình trong việc sử dụng từ ngữ và biểu đạt, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ nhưng đầy ý nghĩa. Nhịp thơ và từ ngữ tạo ra sự đối lập trong từng câu, hình ảnh trong bài thơ được nhân hoá một cách độc đáo, tạo nên một bài thơ trữ tình sâu lắng.
Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã mở ra một cánh cửa rộng lớn cho người đọc để hiểu biết về thiên nhiên và con người ở xứ Huế thơ mộng. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu hơn về tâm trạng sâu thẳm, nỗi buồn của tác giả. Một thôn làng bên dòng sông Hương, dưới bàn tay tài hoa của Hàn Mặc Tử, đã trở thành một bức tranh tuyệt đẹp, trong lành và đậm chất Huế.
Phân tích về hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” - Mẫu 4
Có người từng nói rằng “Thơ là tiếng lòng. Khi đọc thơ, chúng ta như nghe thấy tiếng nói từ đáy lòng của nhà thơ. Thơ là cách thức tuyên bố về bản thân. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tình hình, tình cảm và số phận của nhà thơ”. Và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử cũng chứa đựng điều đó. Trong việc đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta nhận thấy một trong những nét đặc trưng tạo nên phong cách thơ độc đáo của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn nhưng vẫn có sự thống nhất, tức là bề ngoài có vẻ rời rạc nhưng bên trong lại có một mạch cảm xúc liền mạch. Điều này rất rõ ràng qua hai khổ thơ đầu của bài thơ.
Bắt đầu viết thơ từ khi mới mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có tài sáng tạo đặc biệt trong phong trào Thơ Mới. Một trong những tác phẩm xuất sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ mở đầu dưới đây mô tả vẻ đẹp thiên nhiên của xứ Huế một cách lôi cuốn, đồng thời thể hiện một tâm trạng nhớ nhung, u hoài, là biểu hiện tiêu biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử:
“Tại sao anh không trở về thăm làng Vĩ? Nhìn ánh nắng chiếu rọi lên hàng cây cau, tia nắng mới bắt đầu ló dạng. Vườn ai xanh tươi như ngọc, những tán lá trúc che kín những hàng chữ.”
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được cấu trúc thành ba phần. Phần thơ đầu tiên mô tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai tươi mới, trong lành. Phần thơ thứ hai đưa ra hình ảnh của bầu trời, trăng, mây và nước, mang lại một cảm giác xa cách và u buồn. Phần thơ cuối cùng là biểu hiện của một tâm trạng buồn bã, mơ mộng trước hình bóng của một cô gái xứ Huế.
Thôn Vĩ Dạ nằm ven sông Hương, nổi tiếng với những vườn cây trái xanh tươi quanh năm, cùng những ngôi nhà đẹp đẽ... trở thành một phần của văn hóa qua câu thơ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.”
“Những cây xanh ngút ngàn trong vườn ai.”
Nhưng không chỉ có tự nhiên kích thích tình yêu đẹp đẽ, mà còn có hình ảnh của những người thân quen, với trái tim trông chờ một cách nồng nhiệt.
Tại sao anh không ghé qua làng Vĩ?
Câu thơ như là một lời mời, cũng có thể là một lời trách móc tình cảm. Sử dụng từ ngữ một cách kỹ lưỡng, nhưng cũng giống như việc phóng bút một cách ngẫu nhiên. 'Tại sao anh không về' không chỉ nhẹ nhàng mà còn đáng yêu như một phép duyên nhớ về những hình ảnh của làng Vĩ trong quá khứ của nhà thơ - một thời đã từng là học sinh trường Pe-lơ-ranh ở Huế với trái tim nhạy cảm. Hãy quay về làng Vĩ, một làng Vĩ rực rỡ dưới ánh nắng ban mai:
Nhìn ánh nắng trên hàng cây cau, nắng mới lên,
Vườn nào mà mát mắt, xanh biếc đến lạ!
Làng Vĩ Dạ có những hàng cây cau thẳng tắp. Ánh nắng sớm ban mai lan tỏa khắp không gian. Những dải lá cau xanh mướt vươn lên chào đón tia nắng sớm, với những hạt sương đêm dày đặc, lấp lánh như màu ngọc bích. Câu thơ thật tươi trẻ. 'Vườn nào mà mát mắt' như một tiếng cười vui vẻ, nhưng cũng rất tinh tế: từ mát mẻ đến xanh biếc như ngọc, mô tả một cách tượng trưng độc đáo.
Lá trúc che điều ấy.
Lá trúc mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió buổi sáng, dưới ánh nắng ban mai, che phủ như bóng chữ điền trên khuôn mặt người làng Vĩ. Hoặc khuôn mặt của người làng Vĩ, trang nhã và đẹp như chữ điền? Có thể là cả hai: hình ảnh thực tế và tưởng tượng huyền diệu trong trí tưởng tượng của người xem. Câu thơ được tạo ra để biểu đạt ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà ấy chính là quê hương của những con người hiền lành, hào hoa. Những con người xuất hiện trên bức tranh thiên nhiên tươi mới, tạo nên một cảnh tượng sống động và hài hòa giữa con người và thiên nhiên, trong một vẻ đẹp dịu dàng và lãng mạn.
Nếu khổ thơ đầu tiên là kỷ niệm về vườn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm, thì khổ thơ thứ hai là bức tranh về đêm trăng ở xứ Huế mộng mơ, cùng với những cảm xúc của sự chia ly, nỗi cô đơn và tuyệt vọng:
Gió theo lối gió, mây theo đường mây,
Dòng nước buồn bã, hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bên bờ sông trăng đó,
Có mang trăng về kịp đêm nay?
Chỉ với vài nét bút mỹ miều, Hàn Mặc Tử đã làm sống lại một cách huyền bí tinh tế không gian đêm trăng ở xứ Huế, trong câu thơ đầy ấn tượng. Đọc câu thơ “Gió theo lối gió, mây theo đường mây”, có thể cảm thấy nó không thực tế, nhưng suy ngẫm kỹ lại ta nhận ra rằng đó là tài năng của một thi sĩ xuất sắc. Hàn Mặc Tử đã miêu tả một cách chính xác và tinh tế vẻ đẹp nhẹ nhàng của mây trời ở xứ Huế. Sự dịu dàng của mây khiến chúng trông như đứng yên trong gió. Hai từ “buồn bã” mô tả sự yên bình, tĩnh lặng của dòng nước sông Hương. Như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mô tả, sông Hương giờ đây chỉ là một bức tranh yên bình. Sông Hương chảy chậm, rất chậm, như là biểu tượng của tình cảm trầm lắng mà dòng sông này dành cho xứ Huế. Trong đêm trăng ấy, bầu trời trong lành, trăng sáng bóng trên dòng sông. Dòng nước biến thành dòng sông trăng, những chiếc thuyền đậu bên bờ trở nên phủ đầy trăng. Hàn Mặc Tử yêu thích trăng, và thơ của ông thường có những dòng về trăng. Đọc “Đây là làng Vĩ Dạ”, ta cảm nhận được sự dịu dàng và huyền ảo nhất trong những bài thơ về trăng của ông.
Bị cuộc đời từ chối, thơ thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử thổ lộ tâm trạng, tìm sự an ủi. Ngoại cảnh chỉ là lời khói lóe để thi sĩ thổ lộ, chia sẻ nỗi đau, trong bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng vậy. Ngay từ câu thơ đầu tiên của đoạn thơ thứ hai, ta cảm nhận được sự chia lìa, xa cách:
'Gió theo mây, đường mây gió”, Gió và mây luôn liên kết, nhưng ở đây chúng xa lìa, mỗi ngả một hướng. Lẽ ra, trái tim thi sĩ vẫn đầy những cảm xúc chia lìa, khiến mọi thứ đều trở nên xa cách. Không chỉ gió mây, dòng nước trôi uất ức, nước buồn hoa bắp lay. Dòng sông ôm nỗi buồn, im lặng, lặng lẽ. Dòng sông cất giấu nỗi buồn, sự chia lìa của gió mây đã làm cho dòng sông lặng người? Hay nỗi buồn trong tâm hồn thi sĩ đã ảnh hưởng đến dòng sông? Khó có thể diễn giải một cách rõ ràng. Chỉ cần đọc câu thơ, lòng ta bỗng dâng trào một cảm xúc bất ngờ, sâu lắng, không dứt. Phụ họa với dòng nước buồn là bông hoa bắp lay nhẹ trong gió. Từ “lay” ban đầu không mang cảm xúc, nhưng trong câu thơ này, nó trở nên buồn bã, khó diễn đạt. Có lẽ chữ “lay” kia mang theo nỗi buồn từ câu ca dao:
Nếu về Rồng Dứa, chỗ ao Chuông,
Gió lay cỏ nghiêng đón bạn về.
Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay rất đáng buồn. Mọi thứ dường như đang rời xa. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi, chỉ còn bông hoa bắp đơn độc, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Hành động “lay” như một cố gắng giữ chân, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” như biểu tượng cho sự lạc lõng, bị lãng quên của thi sĩ.
Đối diện với sự rời bỏ, xa cách, thi sĩ ao ước có điều gì đó quay trở lại, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó chính là ánh trăng, và chỉ có thế thôi:
Thuyền nào đậu bến sông trăng ấy?
Có đưa trăng về kịp đêm nay?
Tại sao Hàn Mặc Tử mong ao ước, khao khát có trăng như thế? Có lẽ vì bị lãng quên, mất đi ánh sáng và âm nhạc, thi sĩ ao ước có trăng như thế? Với Hàn Mặc Tử, trăng là biểu tượng của sự sống, hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Giờ đây, “trăng là niềm tin duy nhất”, là cứu cánh với Hàn Mặc Tử. Câu thơ bộc lộ khát khao, da diết, khắc khoải. Câu thơ mang vẻ của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiết. Nhưng đáng tiếc, ngay trong lời khẩn cầu da diết kia, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu, tuyệt vọng, đau đớn. Nỗi niềm ấy gắn chặt vào từ “kịp đêm nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng mong manh đó không dễ dàng.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Thời gian trôi qua nhanh chóng, và bến sông trăng vẫn ở ngoài kia xa vời. Không cần lời cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi thi sĩ cầu xin, đã có câu trả lời cho mình. Có lẽ không bao giờ con thuyền chở trăng về đêm nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:
Một mai kia bên bờ sông ngọc
Sao sương nằm chết như trăng
Chẳng có tiên mô đến khóc
Để an ủi và làm dịu lòng anh.
Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương, Vĩ Dạ-xứ Huế mơ mộng và thơ. Bài thơ là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
Phân tích 2 đoạn đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Hàn Mặc Tử. Bài thơ lấy cảm hứng từ một tấm thiệp có in hình phong cảnh của Hoàng Cúc - người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ - và được viết vào những năm cuối đời khi nhà thơ đang điều trị căn bệnh hiểm nghèo tại trại Phong Tuy Hòa.
Hai đoạn đầu của bài thơ tượng trưng cho cảnh vật và con người ở xứ Huế, vừa trong lành, yên bình mà lại đậm chất buồn bã.
“Sao anh không về thăm thôn Vĩ?”
Nắng sớm rọi bóng cây cau
Vườn ai xanh biếc như ngọc
Lá trúc che phủ đồng ruộng”
Bài thơ bắt đầu bằng câu hỏi tĩnh lặng “Sao anh không về thăm thôn Vĩ”. Câu hỏi này không chỉ như lời mời mọc, nhắc nhở mà còn chứa đựng một phần của sự trách móc nhẹ nhàng. Có vẻ như tác giả đang tự đặt câu hỏi này cho chính bản thân mình, tự suy ngẫm về việc đã phải trở về thôn Vĩ Dạ từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được. Sự phức tạp của cảm xúc được gói gọn trong câu hỏi tĩnh lặng đó cho thấy sự khao khát mãnh liệt của thi sĩ muốn trở về với Vĩ Dạ, và câu hỏi này mang theo cả một cảm xúc thầm kín không thể diễn tả được.
Sau câu hỏi đầy lòng trích thảo đó, những hình ảnh về một thôn Vĩ dần hiện về trong ký ức của nhà thơ, mang lại cảm giác êm đềm và thanh bình:
“Nhìn nắng đầu ngày chiếu xuống hàng cây cau mới chớm nở
Vườn của ai xanh mát tới độ như ngọc
Lá trúc vươn mình che mát cho mảnh đất ruộng bậc thềm”
Trong khu vườn tươi tắn đó, ánh nắng ban mai soi sáng những hàng cây cau mới nở, tạo nên một khung cảnh tinh khôi và thanh bình mà nhà thơ không thể không chú ý. Cây cau, với vẻ đẹp mộng mơ dưới ánh nắng ban mai, làm say lòng người với vẻ đẹp mềm mại, trong trẻo. Sự xanh mướt của khu vườn đạt đến mức độ đầy đặn, mát mẻ như ngọc, làm nhà thơ ngạc nhiên và hạnh phúc. Mô tả về lá trúc che mát cho mảnh đất ruộng bậc thềm càng làm tăng thêm vẻ đẹp yên bình, gần gũi của cảnh vật.
Trong bức tranh tươi đẹp đó, hình ảnh của một người con gái Huế hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng và kín đáo:
“Lá trúc vươn mình che mát cho mảnh đất ruộng bậc thềm”
Gương mặt của người dân chăm sóc ruộng đồng hiện ra với sự phúc hậu nhẹ nhàng qua những tán lá trúc mảnh mai, tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu. Sự hiện diện của họ rất kín đáo và tinh tế, phản ánh chính bản tính dịu dàng và nhẹ nhàng của người dân Huế. Chỉ khi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến tận đáy lòng, tác giả mới có thể lưu giữ những hình ảnh tươi đẹp và sống động như vậy trong tâm trí.
Phía sau bức tranh hòa mình giữa cảnh vật và con người ấy, có lẽ là nỗi khao khát không nguôi của một 'tôi' chứa đựng những tâm sự sâu kín:
“Gió theo hướng của gió, mây đi theo đường của mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'
Nghệ thuật nhân hóa được tác giả sử dụng một cách khéo léo để diễn đạt sự vận động và trạng thái của cảnh vật “Gió theo hướng của gió, mây đi theo đường của mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 giống như cắt câu thơ làm đôi tựa như việc chia cắt ngang nhau. Hình ảnh về gió và mây trong tự nhiên thường đi cùng nhau, mây theo hướng của gió, và chỉ khi có gió thì mây mới bay, gió mây luôn đi cùng nhau và không thể tách rời. Nhưng trong câu thơ này, hình ảnh về gió và mây lại xuất hiện với cảnh chia lìa, gió và mây đi theo hướng ngược nhau, hai hướng đi riêng biệt. Điều này có vẻ không logic với tự nhiên, nhưng với một 'tôi' đầy mặc cảm của nhân vật trữ tình trong thơ, lại hoàn toàn phù hợp.
Dòng nước sông Hương như hiểu được tâm trạng của nhà thơ, cũng mang nỗi buồn thâm sâu tới tận cùng tâm can “buồn thiu”. Dòng nước êm đềm chảy, hoa bắp lay nhẹ bên bờ, nước chảy hoa trôi - cảnh vật như không, động mà như tĩnh, tất cả dường như đều phản ánh nỗi buồn trong lòng. Có lẽ bởi lúc này tác giả đã cảm nhận cảnh vật không chỉ bằng con mắt thông thường mà bằng chính trạng thái tâm trạng của mình. Đó là nỗi lòng của một người mang nặng mặc cảm về sự chia lìa, tạm biệt thế gian khi tâm hồn vẫn còn sống.
“Thuyền ở bến sông trăng nọ
Có chở trăng kịp tối hôm nay không?”
Không gian đêm trên sông trăng mở ra như một cảnh huyền ảo, thực và mơ mộng. Trăng hòa mình vào dòng nước xanh tạo ra vẻ lung linh, thơ mộng. Đò đang tiến sát bến, bến trăng đang chờ đợi đò dừng lại, liệu đò có kịp chở trăng về bến trong đêm nay không? Câu hỏi đầy tha thiết này không chỉ chứa đựng nỗi khao khát, hy vọng mà còn là sự lo lắng, bất an. Từ “kịp” đơn giản đó đã mở ra một loạt suy tư về tác giả trẻ tuổi. Hàn Mặc Tử, hiểu rõ thực tại ngắn ngủi, luôn tranh đấu với thời gian, với cái chết, nhưng cũng không quên biểu hiện tâm hồn yêu cuộc sống mãnh liệt, bi thương. Nếu đò kịp mang trăng về bến, 'tôi' sẽ được chia sẻ, nếu không, thi sĩ tội nghiệp sẽ lẻ loi, đau buồn vô cùng. Câu thơ cuối cùng thật đầy xót xa và cảm động, người ta không khỏi cảm thương cho Hàn Mặc Tử được sống.
Cảnh thiên nhiên và niềm đam mê với cuộc sống của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ sáng tạo, độc đáo và đầy biểu cảm. Từ đó, ta nhìn thấy một tâm hồn sâu lắng, đam mê cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó học cách trân trọng cuộc sống và không hối tiếc những khoảnh khắc hiện tại.
Phân tích 2 khổ đầu Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 6
Đánh giá về các nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ Mới, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết rằng “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính thể hiện sự lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và đặc biệt là Huy Cận, là sự kết hợp của lãng mạn và tượng trưng… thì Hàn Mặc Tử là sự hài hòa giữa lãng mạn, tưởng tượng và thậm chí là siêu thực”. Thực tế, cuộc đời ngắn ngủi và đau buồn của Hàn Mặc Tử cũng là nguồn cảm hứng cho sự sâu lắng, đam mê cuộc sống trong thơ của ông. Thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ phản ánh vẻ đẹp và bi thương của tình yêu, mà còn kết hợp lãng mạn với lối thơ Đường cổ điển, cùng với sự sáng tạo và phá cách trong nghệ thuật biểu đạt, mang đến cho độc giả những tác phẩm độc đáo, ấn tượng. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, người ta cảm nhận được vẻ đẹp thực sự lãng mạn, trong trẻo và tinh khiết vô cùng, nhưng cũng đồng thời là những hình ảnh kỳ dị, điên cuồng và thậm chí là siêu thực nhất, khiến người đọc không thể không suy ngẫm về một tâm hồn thơ kỳ lạ trong phong trào thơ Mới. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, là một trong những bức tranh nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, thể hiện hầu hết phong cách sáng tạo của ông, đặc biệt là ở hai khổ thơ đầu, người ta cảm nhận được tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc qua bức tranh quê hương thuần khiết, đậm chất trữ tình.
“Anh ơi về chơi thôn Vĩ nhé?
Nắng sớm lung linh qua hàng cây cau.
Vườn ai xanh mướt như ngọc quý
Trúc che mặt đất dường như viền thềm.”
Hàn Mặc Tử khởi đầu tác phẩm bằng một câu hỏi dịu dàng, mang đậm nét Huế, mở ra khung cảnh quê bình yên với lời kêu gọi “Anh ơi về chơi thôn Vĩ?”. Người nghe không khỏi suy nghĩ, liệu câu hỏi đó có phải là sự trách móc hay lời mời đáng yêu của một người con gái Huế muốn chàng trai trở về quê hương thơ mộng này. Cũng có thể đó là lời nhắc nhở bản thân của tác giả về quê nhà sau bao năm xa cách. “Không về” là biểu tượng cho thời kỳ đau buồn của Hàn Mặc Tử, khi bị căn bệnh phong tấn công, cảm giác đau thương và tuyệt vọng. Tất cả chỉ còn lại trong kí ức về thôn Vĩ, về người yêu thương.
Câu hỏi đầu tiên của bài thơ không chỉ mở ra khung cảnh xứ Huế mà còn là cảm xúc sâu sắc của tác giả về quê hương. Trong những câu thơ đó, có tình yêu, có cuộc sống và những hồi ức đẹp đẽ về người yêu. Trong niềm nhớ thương Huế, Hàn Mặc Tử đã tạo ra bức tranh về thiên nhiên thôn Vĩ, trong lành, đầy sức sống. “Nắng mới lên” là biểu tượng cho sự khởi đầu mới mẻ, tươi sáng.
“Nhìn nắng qua hàng cây cau.”
Một buổi sáng rực rỡ, ánh nắng len lỏi qua hàng cây cau, tạo nên một bức tranh tươi đẹp. Hàn Mặc Tử đã mô tả một cách tinh tế nhất về quê nhà trong những bức tranh sinh động. Hình ảnh “nắng qua hàng cây cau” là biểu tượng của sự mới mẻ, tươi sáng, đầy hy vọng, làm dấy lên trong lòng người nhớ về quê hương.
Trong khung cảnh rực rỡ của bình minh, “vườn ai” hiện diện như một điểm nhấn tươi mới, với vẻ non nước và màu mỡ của nó, gợi nhớ đến vẻ đẹp thơ mộng của quê hương Huế. Từ “mướt quá” như là lời ca tụng cho sự phong phú và gợi cảm của nó. So sánh “xanh như ngọc” tạo nên bức tranh tươi đẹp, làm cho người đọc dễ dàng hình dung ra một khu vườn xanh mát, với từng chiếc lá còn đọng sương dưới ánh nắng ban mai dịu dàng, tạo ra một cảm giác trong lành, tươi mới. Sự hiện diện của “ai” trong “vườn ai” gợi lên hình ảnh của một người trữ tình, tạo ra sự hòa hợp, sự gần gũi của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mở ra vẻ đẹp của con người Huế, hiền hậu, ấm áp, trong sự đơn giản, gầy guộc của lá trúc.
Sau những niềm vui và hứng khởi từ cảnh thiên nhiên tươi đẹp, Hàn Mặc Tử chuyển sang bức tranh thiên nhiên buổi tối, với những hình ảnh của thuyền, trăng và dòng sông Hương êm đềm. Sự chuyển đổi này thể hiện sự biến đổi của tâm trạng từ niềm vui sang lo lắng, bất an và hoang mang trước cảnh tượng lạnh lẽo, vắng vẻ của thiên nhiên.
“Gió theo lối gió, mây theo dải mây,
Dòng nước êm đềm, hoa bắp lay…
Thuyền ai neo bến sông dưới ánh trăng,
Có chở trăng về trước khi tối nay?”
Hàn Mặc Tử mô tả về cảnh gió và mây, hai yếu tố luôn đi cùng nhau, nhưng ở đây chúng lại dường như độc lập, ngược chiều nhau, tạo ra sự chia ly, tan vỡ, thể hiện sự chia cắt của tác giả với cuộc sống. Con sông Hương, dường như mang theo những xúc cảm bâng khuâng của thi nhân, khi được miêu tả bằng từ ngữ “dòng nước buồn thiu”. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi lên nỗi buồn tẻ của cuộc đời, như là biểu tượng cho số phận đầy đau thương của con người.
Nhấn mạnh sự chuyển đổi tâm trạng của tác giả từ niềm vui sang nỗi buồn, tuyệt vọng. Hàn Mặc Tử quay về với hình ảnh của trăng, người bạn thân thiết của thi sĩ, để tìm kiếm sự an ủi giữa những khó khăn của cuộc sống. Tuy nhiên, ông không thể không lo lắng về cuộc sống của mình, thể hiện qua câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?”, biểu hiện sự lo lắng không yên, bất an trước cuộc sống ngắn ngủi và không chắc chắn.
Hàn Mặc Tử trải qua một cuộc đời ngắn ngủi và đầy đau thương, hồn thơ của ông chứa đựng nhiều nỗi khao khát về tình yêu, về cuộc sống, nhưng đằng sau đó là những nỗi xót xa, đau đớn cực kỳ. Điều đó đã tạo nên một chất thơ mộng, trong trẻo, nhưng cũng phức tạp và đa chiều. Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tạo của Hàn Mặc Tử, với những nỗi lòng thương tâm, tuyệt vọng, từ ấm áp chuyển sang lạnh lẽo, cô đơn chỉ trong một vài dòng thơ ngắn.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất - Mẫu 7
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ đại diện của phong trào thơ mới, với cuộc đời đầy bi kịch vì căn bệnh phong quái ác từ khi còn trẻ. Trong thơ của ông, có sự kết hợp giữa thế giới tươi sáng và thế giới ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ, xuất hiện trong giai đoạn ông đang khốn khổ vì bệnh tật, được truyền cảm hứng từ một bức thiếp vẽ phong cảnh Huế và lời chia sẻ của người phụ nữ mà ông yêu thương.
Hai khổ đầu của bài thơ mô tả phong cảnh Vĩ Dạ Huế cùng nỗi cô đơn, lạc lõng, trống trải của tác giả khi phải sống xa xôi với thế giới xung quanh.
“Tại sao anh không trở về quê nhà
Ngắm ánh nắng trên hàng cây cau mới nở
Vườn nào mà mướt tốt, xanh ngát như ngọc
Lá trúc che phủ cả cánh ruộng bên sông
Gió theo lối gió, mây theo dải mây
Dòng sông êm đềm, hoa bắp lay lay
Thuyền nào neo đậu ở bến sông dưới ánh trăng
Liệu có thể đưa trăng trở lại trước khi tối nay kết thúc?”
Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi ngọt ngào, như là lời mời gọi của người thôn Vĩ, đang thúc giục thi nhân quay trở lại.
“Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ”
Tuy nhiên, thực tế đằng sau đó là một câu hỏi tự hỏi của nhà thơ, vì trong lòng ông luôn khao khát một lần nữa được 'về thăm thôn Vĩ'. Hai từ “về thăm” đã biến Vĩ Dạ thành một nơi đặc biệt đối với ông, nơi mà ông gắn bó không chỉ bằng trí óc mà còn bằng tình cảm.
Quay lại Vĩ Dạ, nhà thơ muốn chiêm ngưỡng những hàng cây cau cao vút, những vườn cây um tùm, để nhìn thấy gương mặt những người thôn dân qua những tán lá trúc.
“Ngắm ánh nắng trên hàng cây cau mới nở
Vườn nào mà mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che phủ cả mặt ruộng ven sông”
Vĩ Dạ mở ra trước mắt từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mỗi góc nhìn mang vẻ đẹp riêng nhưng đều đong đầy tình khúc, tràn đầy sức sống trong ánh ban mai. Trong chuyến 'thăm' Vĩ Dạ qua tâm tưởng, ánh nhìn đầu tiên của nhà thơ tập trung vào 'nắng hàng cau, nắng mới lên'. Hai từ 'nắng' trong cùng một câu thơ làm ta cảm nhận được một không gian ngập tràn ánh sáng buổi sáng, mới mẻ và tinh khôi vô cùng. 'Nắng hàng cau' là nét đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt nhạy bén phát hiện ra điều này vì Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cây cau. Những hàng câu cao vút, thẳng tắp vươn lên trời đón những tia nắng sớm đầu tiên rơi xuống và đó cũng là lúc thành phố Huế cùng nhau thức dậy trong không khí trong lành và tinh khôi.
Trong ánh nắng ban mai tinh khôi đó, khu vườn của 'ai' hiện lên tràn đầy sức sống, đầy nhựa mật.
'Khu vườn nào mà mướt quá, xanh như ngọc'
Dấu từ 'ai' chỉ ngầm, không rõ là của ai vì khu vườn đó chỉ có trong tâm trí của nhà thơ. Khu vườn rợp màu xanh 'mướt'. Chỉ một từ 'mướt' đã khiến người đọc cảm nhận được sự tươi tốt của khu vườn, như một bức tranh tươi sáng hiện ra trước mắt. Thêm vào đó, so sánh 'xanh như ngọc' gợi lên hình ảnh của một khu vườn đầy sương sớm được mặt trời chiếu sáng. Mỗi cành cây, mỗi lá hiện lên lung linh, lóng lánh như một khối ngọc lớn. Lời thơ không chỉ là lời mô tả cảnh vật mà còn là sự ngưỡng mộ của nhà thơ với vườn Vĩ Dạ với một tình yêu chân thành.
Không chỉ say mê ngắm nhìn vườn cây và ánh sáng ban mai, Hàn Mặc Tử còn ngây ngất trong ánh mắt của những người Vĩ Dạ:
“Lá trúc che kín gương mặt”
Rõ ràng đó phải là một cách diễn đạt tinh tế của nhà thơ, khi khuôn mặt của người hiện ra sau màn lá trúc, tồn tại giữa thực và hư vô. Bức tranh thơ không chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà còn là bức tranh của con người, làm cho cảnh vườn Vĩ Dạ trở nên ấm áp và sống động hơn bao giờ hết.
Khuôn mặt ẩn sau tán lá nhẹ nhàng, hé lộ vẻ đằm thắm, nhút nhát của một con gái mang trong mình tính cách kín đáo, đặc trưng của phụ nữ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử có lẽ được lấy cảm hứng từ một câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:
“Gương mặt em tròn tựa chữ điền
Da em mịn màng, áo trắng phủ kín
Lòng em thấu đáy, cao nguyên biển đảo
Có tấm lòng nhân ái, có lời trung thành”
Vì vậy, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ mang hồn hương dân gian của Huế mà còn phản ánh vẻ đẹp tinh thần của con người nơi đây, chất phác nhưng sâu lắng, giàu lòng trung thành.
Khổ thơ đầu đã tạo ra bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ vô cùng đẹp đẽ, ấm áp và tràn đầy sức sống. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự kết nối sâu sắc của thi nhân với quê hương Vĩ Dạ và mong muốn giao cảm với cuộc sống mặc dù bị bệnh tật làm trở ngại.
Đến khổ thơ thứ hai, phong cảnh của Vĩ Dạ không còn yên bình mà trở nên sống động và phong phú hơn. Vẫn là cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế, nhưng giờ đây là cảnh sông nước và trời mây:
“Gió theo lối gió, mây trôi trên mây
Dòng nước êm đềm, hoa bắp lay nhẹ
Thuyền ai neo bến sông dưới trăng
Có mang trăng về kịp tối nay không?”
Bức tranh thơ mở ra với trời xanh, mây trắng và dòng sông Hương rộng lớn, đẹp đẽ và rộng lớn. Dòng sông, hoa bắp, gió, mây, tất cả đều mang đậm bản sắc của xứ Huế, tạo nên một không gian yên bình, êm đềm rất riêng của nơi này.
Nhà thơ đã miêu tả dòng sông Hương dưới ánh trăng khuya. Đó là một dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng, cùng với những chiếc thuyền đầy trăng neo đậu tại bến sông. Ánh trăng khiến dòng sông Hương trở nên thêm mộng mị, huyền bí, trong im lặng của đêm tối, làm cho người nhìn không thể nào quên được!
Đằng sau hình ảnh bên ngoài là tâm trạng mà thi nhân muốn truyền đạt. “Mây, gió” luôn là hai yếu tố thường đi kèm nhưng ở đây, Hàn Mặc Tử đã nhân cách hóa chúng và diễn tả chúng trong cảnh chia ly. Mây đi một hướng, gió đi một nẻo, chúng xa cách, đang chia lìa. Đó có thể là tâm trạng của nhà thơ khi ông đối diện với mối tình đơn phương xa cách và phải chia ly với cuộc sống vì bệnh tật. Nỗi buồn của nhà thơ đã tràn ngập, đã hòa mình vào tự nhiên.
Nỗi buồn đó cũng tan vào dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, Hàn Mặc Tử cảm nhận dòng sông cũng đang “buồn thiu”. Dòng sông Hương đựng đựng nhiều tâm trạng của nhà thơ, nó cũng mang nặng một nỗi buồn sâu sắc. Đó là tâm trạng của một linh hồn cô đơn giữa bầu trời, giữa cuộc đời, khi nhìn xung quanh chỉ thấy hoa bắp rung động, dòng sông cô đơn, hẻo lánh.
Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ càng hiện hữu hơn khi ông đứng giữa trời, dưới ánh trăng và trên dòng nước. Dòng nước lấp lánh, ánh trăng lạnh lẽo, đêm tĩnh lặng, khung cảnh đó như một thế giới cô đơn xen lẫn với sự kỳ dị vì ông cũng đang một mình, lạc lõng giữa cuộc sống bởi bệnh tật áp đặt.
Tuy nhiên, trên hết là khát khao kết nối với cuộc sống, là niềm hy vọng tình người sẽ làm tan đi nỗi đau. Có lẽ vì thế mà trên dòng sông cô đơn, bóng dáng của “thuyền ai” hiện ra mờ nhạt:
“Thuyền ai neo bến sông dưới trăng
Có mang trăng về kịp tối nay không?”
Khát khao hi vọng, khát khao chờ đợi thế nhưng Hàn Mặc Tử đã nhận ra hiện thực khắc nghiệt: không ai, không người nào có thể làm ấm áp một trái tim đang cô đơn, lạc lõng, vậy nên, nhà thơ mới mong có người “mang trăng về kịp tối nay”.
Trăng vĩnh cửu là nguồn cảm hứng không ngừng, là cái đẹp vĩnh hằng mà mọi người đều hướng tới. Với thi nhân, trăng còn là bạn đồng hành, bạn tri kỉ, bạn tâm giao và với Hàn Mặc Tử, trăng còn quan trọng hơn thế. Ông khao khát hướng về trăng, mong muốn sự tươi đẹp mà ánh trăng mang lại, thế mới thấu hiểu, dù đau đớn vì bệnh tất, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cái đẹp của cuộc sống, của nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta cảm thấy kính phục một tài năng và một ý chí sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để dâng hiến cho cuộc sống.
Bốn dòng thơ tạo nên bức tranh sông nước, mây trời nhưng chứa đựng tâm trạng buồn thương của tác giả, nỗi cô đơn, khát khao được đồng cảm với cuộc đời.
Hai khổ thơ đầu trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” kế thừa truyền thống thơ ca với hình thức thơ thất ngôn và đồng thời thể hiện sự nỗ lực sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh thơ rất giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống hàng ngày, ngôn từ tự nhiên như lời nói hàng ngày, tất cả tạo nên một nét thơ vô cùng hiện đại.
Qua hai khổ thơ này, độc giả không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh của thôn Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ lại rất yên bình, mang đậm bản sắc của xứ Huế mà còn cảm nhận được nỗi cô đơn buồn thảm của Hàn Mặc Tử khi phải sống xa lánh với cuộc đời vì bệnh tật và trong một tình yêu không được đáp lại.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 8
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được lòng người qua nhiều thế hệ và đã nhận được ba đánh giá khác nhau. Đầu tiên, nó là tiếng lòng, nỗi lo âu về một tình yêu kín đáo; tiếp theo là tình yêu dành cho một vùng quê yên bình và cuối cùng, nó là mong ước sống của nhà thơ, mong muốn được đồng cảm, được chia sẻ với cuộc sống. Hai khổ thơ đã rõ ràng thể hiện những tâm trạng đó của tác giả qua bài thơ:
Tại sao anh không trở về thôn Vĩ chơi?
Nhìn ánh nắng chiếu trên hàng cây cau mới mọc.
Vườn ai mà xanh mát đến thế, như ngọc quý,
Lá trúc che ngang mặt ruộng ruồi
Gió theo con đường của gió, mây theo con đường của mây,
Dòng nước trôi buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền của ai đậu ở bến sông trăng đó,
Có thể mang trăng trở lại kịp buổi tối hôm nay không?
Thơ luôn phản ánh cuộc sống qua góc nhìn sâu sắc của nhà thơ, qua tâm trạng tinh tế của nhà thơ. Do đó, thơ luôn mang trong mình tư duy, tình cảm mà nghệ sĩ muốn truyền đạt, muốn biểu đạt. Và Hàn Mặc Tử luôn không ngừng sáng tạo, không ngừng trải nghiệm cuộc sống để tạo ra nhiều tác phẩm xuất sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một minh chứng cho điều đó.
“Tại sao anh không trở về thôn Vĩ?”
Câu hỏi dịu dàng này là tâm trạng của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử trở thành người con gái Huế và hỏi nhẹ nhàng, tức giận về việc anh không thăm quê. Từ “chơi” có vẻ như chơi chữ. Tác giả có thể dùng từ “thăm” nhưng sẽ mất đi sự gần gũi thân quen.
Câu thơ cũng có thể là tự hỏi, tự trách anh không trở về Huế đẹp đến như vậy. Câu hỏi là nỗi đau khắc sâu, khi viết bài thơ này, nhà thơ phải chịu đựng nỗi đau của căn bệnh Phong ở giai đoạn cuối. Vậy nên, việc trở về chơi ở Huế đã trở thành mong ước của Hàn Mặc Tử.
Mặc dù không thể về Huế, trong tâm tư của nhà thơ, thiên nhiên ở thôn Vĩ vẫn rực rỡ, đẹp đẽ như thường:
“Nhìn ánh nắng chiếu trên hàng cây cau mới mọc
Vườn nào mà xanh mát đến thế, như ngọc quý
Lá trúc che ngang mặt ruộng ruội”
Ba câu thơ đã thành công trong việc vẽ nên một bức tranh chân thực về thôn Vĩ, từ xa đến gần. Từ 'nắng' đã tạo ra một không gian rực rỡ sáng ngời. Cây cau, biểu tượng của thôn Vĩ, với thân thẳng và tán lá xanh mơn mởn đã khiến cho vườn cây trở nên quyến rũ đến nỗi phải thốt lên 'vườn ai mướt quá xanh như ngọc'. Mặc dù nói là 'vườn ai' nhưng mọi người đều biết đó là vườn của cô gái Huế.
'Mướt quá xanh như ngọc'. Màu xanh như ngọc là một sắc màu trong trẻo, tinh khiết, phản ánh ánh sáng của mặt trời và sương sớm. Màu xanh đó đã làm cho vườn trở nên lôi cuốn hơn. Nhưng bức tranh về thôn quê trở nên hoàn hảo hơn, đầy hứng khởi hơn khi có sự hiện diện nhẹ nhàng của người con gái: 'lá trúc che ngang mặt chữ điền'. Lá trúc là biểu tượng của thôn Vĩ Dạ, nổi tiếng với hàng trúc dọc theo con đường. Vì vậy, trong tâm trí của thi nhân hiện ra hình ảnh nhẹ nhàng của cô gái sau hàng trúc.
Phân tích hai câu thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, đầu tiên cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng nếu chỉ có niềm vui và niềm lạc quan trong thơ, đó sẽ không phải là phong cách của Hàn Mặc Tử. Vì vậy, sau khi mô tả về nắng rực rỡ, câu thứ hai của bài thơ đã chuyển sang cảm giác chia ly:
“Gió theo lối gió, mây đi theo đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…”
Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của Huế hiện lên rõ ràng. Đó là dòng Hương trôi lững lờ, vườn cây, và trên cao 'gió theo lối gió', mây đi theo đường mây. Mặc dù thực tế gió và mây không thể tách rời nhau, bởi không có gió, mây không thể bay. Nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây lại dường như chia lìa, dòng nước buồn thiu chứa đựng một tâm trạng không thể diễn tả bằng lời.
“Thuyền nào neo bến dưới ánh trăng kia
Có chở trăng về trước đêm nay”
Hai câu thơ tiếp theo vẫn mở ra hình ảnh của dòng sông Hương, một biểu tượng của Huế, nhưng lúc này không còn nắng rực, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ đã được thay thế bằng ánh sáng của trăng. Thuyền đã biến thành thuyền trăng, sông đã biến thành sông trăng và bến đã trở thành bến trăng.
Bến trăng, thuyền trăng thường xuất hiện trong thơ ca, nhưng hình ảnh của sông trăng lại mới mẻ. Do đó, câu thơ này như một cánh cửa mở ra thế giới mộng mơ. Và “Có chở trăng về trước đêm nay?” là câu hỏi đầy mong đợi, lo âu, và nỗi buồn, giống như là câu hỏi nhà thơ tự hỏi mình. Người viết nhận thức rằng, nếu trăng không “về trước đêm nay”, thì sẽ gặp phải đau khổ và tuyệt vọng.
Qua hai khổ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, chúng ta thấy thành công của những biện pháp nghệ thuật như điệp từ, câu hỏi thu từ, và so sánh bằng liên tưởng. Nhờ vào những kỹ thuật này, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một khung cảnh tươi đẹp nhưng đầy nỗi buồn và nỗi đau của một tâm hồn thi sĩ trải qua nhiều khó khăn.
Phân tích 2 khổ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 9
Mỗi người Việt Nam chắc chắn đều biết đến bài thơ nổi tiếng của nhà thơ lãng mạn Hàn Mặc Tử về trăng, một tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Ông là một thiên tài như những vì sao sáng lấp lánh trên bầu trời thơ mới, nhưng cuộc đời ông cũng mang nhiều bất hạnh. Ông luôn phải chịu đựng nỗi đau và sự suy sụp bên chiếc giường trong trại phong quy hòa, nơi mà linh hồn ông chiến đấu và đấu tranh giữa sự sống và cái chết với căn bệnh kỳ lạ. Đó chính là nơi ông tạo ra một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái. 'Chất điên' đó đã tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo, đầy mới lạ của Hàn Mặc Tử.
Thơ của ông là như dòng máu và nước mắt, nhưng bên trong những dòng thơ ấy vẫn chứa đựng những dòng thơ trong trẻo, thanh khuyết đến kỳ lạ. Đoạn trích từ bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trong tập thơ điên là một ví dụ điển hình. Đây là tác phẩm của một nguồn thơ kỳ lạ, là một lời tỏ tình với cuộc sống của một tình yêu tuyệt vọng, yêu không được đáp lại nhưng dưới mỗi dòng thơ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ cũng là tình yêu của thiên nhiên, tình yêu đối với con người ở Vĩ Dạ - một tình yêu mãnh liệt, nồng nàn - nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm và luôn sống mãi trong ký ức của ông. Chính vì vậy, khi đọc bài thơ này, ta thấy một phần đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Xứ Huế mộng mơ từng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong số đó, tập thơ điên của Hàn Mặc Tử với sự điên rồ đó là tác phẩm nổi bật nhất. Ông mở đầu với câu hỏi:
'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?'
Trong câu hỏi đó, chứa đựng nhiều biểu cảm như là sự nhắc nhở, trách móc, giới thiệu và mời gọi. Câu thơ chỉ bảy chữ nhưng lại chứa đựng sáu thanh bằng, tạo ra một âm điệu dịu dàng và yêu thương, làm cho sự trách móc trở nên nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, đây không phải là lời trách của một người cao quý mà là của chính Hàn Mặc Tử trữ tình, từ tâm trạng tuyệt vọng nhưng đầy khát khao của ông đối với xứ Huế, đã vẽ ra bức tranh thôn Vĩ đẹp như trong truyền thuyết trong ba câu thơ tiếp theo:
'Nhìn ánh nắng chiếu lên hàng cây cau
Vườn ấy xanh tươi, mướt như ngọc
Lá trúc che bóng dáng nhà trên cánh đồng'
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ của Hàn Mặc Tử thật đẹp đến đơn giản mà tuyệt vời! Tác giả, bằng tình yêu thiên nhiên của mình, mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh tuyệt phẩm về thiên nhiên, rực rỡ và lộng lẫy. Thôn Vĩ, đặc biệt và Huế nói chung, được mô tả qua ánh sáng của buổi sáng và một vườn cây thân thuộc. Hàng cây cau, thẳng tắp, đang tận hưởng ánh nắng. Hàng cây cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ xa xưa. Không thể quên được màu xanh lá cây ở đây. Nhà thơ không khỏi trầm trồ khi đứng trước một cảnh sắc xanh mơn mởn ở thôn Vĩ Dạ: “vườn ấy mướt tươi, xanh như ngọc”. Đây là biểu hiện của sự sống mạnh mẽ, phong phú, đem lại cho chúng ta cảm giác trẻ trung, yêu cuộc sống. Trong không gian tươi trẻ đó, gương mặt nhà chữ điền, đẹp đẽ, dịu dàng, kín đáo của cô gái Huế, hiện lên một cách rõ ràng, tình tứ và đáng yêu.
Câu thơ đẹp bởi sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Tâm trạng của nhân vật trong đoạn thơ này là niềm vui, vui đến đắm đuối như lạc vào cõi tiên, cõi mơ mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Tuy cùng một không gian là thôn Vĩ Dạ, nhưng thời gian biến hóa từ bình minh đến chiều tà và thi nhân đã mô tả một không gian rộng lớn, bao la với đủ yếu tố như gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. Trong không gian rộng lớn đó, thi nhân đã miêu tả hai thực thể luôn liên kết trong tình trạng chia lìa:
'Gió theo đường lối mây gió
Điều này là mâu thuẫn, phi thực tế và phi logic. Thông qua đó, thi nhân đã tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của cảm xúc. Đó là cảm xúc của một người gắn bó chặt chẽ với cuộc sống mà đang đối diện nguy cơ phải xa rời cuộc sống, nên nhìn đâu cũng thấy cô lập.
Ban đầu, thi nhân vui mừng khi trở về thôn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm nhưng đột ngột trở nên buồn bã, u uất. Có lẽ nỗi buồn là do tình yêu đơn phương và kỷ niệm đẹp với cảnh và người xứ Huế mơ mộng mà thi nhân tạo ra. Thật ra, ai có thể vui khi buồn, và Huế, thường mơ mộng và êm đềm, thi nhân lại làm cho nó trở nên lạ lùng, xa lạ.
'Dòng nước buồn thiu, hoa bắp rung
Thuyền nào đậu bến sông kia
Có chở trăng về kịp tối nay'
Dòng sông Hương, từng đẹp mơ mộng, đã đi vào thơ ca Việt Nam từ thời xa xưa nhưng bây giờ lại trở nên buồn tẻ, lòng sông u uất, bờ sông cũng u uất, hoa bắp không mùi không màu đang lay động trong gió. Cảnh buồn chỉ tới đây, nhưng khi đêm về, trăng lên, con người lại hoàn toàn khác biệt. Với tính cách lãng mạn, thi nhân đã tạo ra một không gian rực rỡ ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một chiếc thuyền tràn đầy ánh trăng, tất cả đều lấp lánh, ma mị... Trăng đã đi sâu vào tâm trí của người Việt từ lâu nhưng ở đây trăng lại khác biệt so với trăng của thế hệ trước và hiện tại. Không có chiếc thuyền nào có thể chở trăng nhưng ở đây thi nhân lại thấy chiếc thuyền biến trở thành trăng. Điều đó làm cho mọi vật ở đây trở nên ma mị, đầy lãng mạn. Tuy nhiên, trước ánh trăng, thi nhân vẫn mang một tâm trạng bất an.
Chỉ với 2 khổ thơ đầu, Hàn Mạc Tử dường như đã cho chúng ta thấy tất cả về người và cảnh của thôn Vĩ Dạ, qua đó hiểu sâu sắc hơn về tâm trạng nặng nề của nhân vật trữ tình. Thấy được một tâm hồn nhạy cảm với cuộc sống, với tình yêu của tác giả.
...............
Tải tập tin tài liệu để biết thêm về Phân tích 2 khổ đầu ở làng Vĩ Dạ này