Phân tích 8 câu cuối của bài thơ Trao duyên bao gồm 13 bài văn mẫu khác nhau cực kỳ hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Điều này giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
TOP 13 mẫu phân tích 8 câu cuối của bài thơ Trao duyên cực kỳ chất lượng dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao và mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Bên cạnh đó, các bạn cũng có thể xem thêm về tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên và phân tích của bài thơ.
Dàn ý phân tích 8 câu cuối của bài thơ Trao duyên
Dàn ý số 1
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều Kiều: Nguyễn Du là một trong những văn hào lớn của dân tộc, được coi là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới, Truyện Kiều Kiều được biết đến rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu về đoạn trích Trao duyên: Nội dung, ý nghĩa
- Tâm trạng cuối cùng của Thuý Kiều về tình yêu của cô và Kim Trọng.
- Trích dẫn từ bài thơ:
II. Nội dung chính:
*Tám câu thơ cuối cùng: Kiều trở về hiện thực với nỗi đau khi nhớ về Kim Trọng
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ phần trò chuyện sang monolog
- Tâm trạng: Nàng nhận thức rõ về thực tại của cuộc đời mình: “cành tre gãy lá”,”duyên phận ngắn ngủi”,”số phận mong manh như vôi”, “thời gian trôi như dòng nước cuốn hoa đi”
→ Hình ảnh miêu tả số phận đầy khổ đau, không đồng đều, không ổn định, lênh đênh trôi chảy
- Nghệ thuật so sánh: quá khứ >< hiện tại
→ Sâu sắc tình cảm của Kiều trong thời gian hiện tại.
- Các hành động và tác động
- Tự nhận mình là 'kẻ phản bội'
- Lạy: sự lạy xin tha thứ, khác biệt so với sự lạy xin giúp đỡ ở đầu bài
- Liên tục gọi tên Kim Trọng: biểu hiện sự đau đớn, xót xa, đau đớn đến mức không thể kiềm chế được.
→ Kiều không quên mất nỗi đau của mình mà tập trung vào người khác, đó chính là phẩm chất cao quý của sự hy sinh
* Tóm lại: 8 câu cuối của đoạn
- Nội dung: Tâm trạng đau khổ tột cùng của Thúy Kiều khi nghĩ về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các hình ảnh đặc sắc.
III. Kết thúc:
- Tổng quan về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận cá nhân: Đây là đoạn trích hay và cảm động nhất trong Truyện Kiều, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc.
Dàn ý thứ 2
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn thơ Trao duyên và 8 câu thơ cuối.
Lưu ý: học sinh tự chọn cách khai mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy vào khả năng của mình.
2. Phần chính
Bây giờ trâm gãy, tình tan vỡ
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
- Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỷ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức.
- Sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người → tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỷ niệm mà họ đã từng có với nhau.
“Trăm nghìn gửi lời yêu quân
….……………………………..
Thôi rồi, thiếp đã phụ chàng từ đây!”
- Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.
- Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân.
- Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.
→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
- Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của 8 câu thơ; đồng thời khái quát lại giá trị của đoạn thơ và cả tác phẩm.
Phân tích 8 câu cuối Trao duyên - Mẫu 1
“Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”
Bàn về văn học, Standal viết: “Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. Tố Hữu cũng từng cho rằng: “ Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học không là gì nếu vì cuộc đời mà có”. Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của văn học: phản ánh đời sống xã hội. Nguyễn Du – đại thi hào trong nền thơ ca Việt Nam đã thấm nhuần chức năng ấy. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp, cái xã hội mà mọi thứ đều bị chi phối bởi đồng tiền. Ông đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó chính là lí do kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” ( Truyện Kiều Kiều) ra đời. Trong đó, đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả mà đặc biệt phải kể đến tám câu thơ cuối bài đã thể hiện một cách chân xác nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim.
Nguyễn Du được biết đến như một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhân vật văn hóa đáng kính trên thế giới, một nhà nhân đạo có “đôi mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng suy tư suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Sinh năm 1765 (Ất Dậu) tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Du tên thật là Tố Như, tự là Thanh Hiên. Cha của ông là Nguyễn Nghiễm, từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca. Quê hương của Nguyễn Du là một vùng đất hiếu học, địa linh, nhân kiệt và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có nền văn học uyên bác, nhiều tài năng. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.
Trong thời thơ ấu, Nguyễn Du đã phải trải qua những khó khăn khi mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới 10 tuổi, bắt đầu gặp phải những sóng gió trong cơn biến động chính trị: sống dựa vào Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường và sau đó làm một chức quan ở Thái Nguyên. Chẳng bao lâu sau khi nhà Lê sụp đổ (1789), Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình. Sau khi vợ mất, ông trở về quê cha, và thậm chí có thời gian sống ở Bắc Ninh, quê hương của mẹ. Hơn mười năm chìm trong những nỗi đau và vui của cuộc sống ở đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và hiểu biết về nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là về người lao động, phụ nữ, trẻ em, những người nghèo khổ… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính những trải nghiệm đắng cay trong cuộc đời đã tạo ra thiên tài Nguyễn Du – một nhà nhân đạo lớn.
Ngoài Đoạn trường Tân thanh; “Văn tế thập loại chúng sinh” (Văn chiêu hồn) và hai bài tồn nghi là “Sinh tế Trường Lưu nhị nữ” (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu) và “Thác lời trai phường nón.” Nguyễn Du còn có ba tập thơ chữ Hán có giá trị. Thanh Hiên tiền hậu tập; Nam trung tạp ngâm; Bắc hành tạp lục. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ ràng lòng nhân ái trước số phận của con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều thể hiện nỗi buồn sâu thẳm.
Theo Giáo sư Nguyễn Lộc, trong cuốn sách của mình, ông viết: “Đoạn trường tân thanh… là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa trên tác phẩm Kim Vân Kiều truyện Kiều truyện của Thanh Tâm tài Nhân, Trung Quốc gồm 3.254 câu thơ. Có một số quan điểm cho rằng Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-20). Cũng có ý kiến cho rằng Nguyễn Du đã viết trước khi đi sứ, có thể trong thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-09). Ý kiến sau đó được nhiều người chấp nhận. Truyện Kiều đã đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành biểu tượng cho những mô hình xã hội trước đây, mang những tính cách tiêu biểu như Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đã trở thành thành ngữ trong văn học Việt Nam.
Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ, được biết đến là “chuyên gia Truyện Kiều” đã có những ý kiến đáng chú ý: “Truyện Kiều đã nổi tiếng hơn so với những tác phẩm văn học cùng thời, và đã làm cho sáng tác của Nguyễn Du trở nên gần gũi hơn với chúng ta ngày nay, cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, dù có thế nào đi nữa, Nguyễn Du vẫn là người của thời đại, không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội, lịch sử cụ thể, và cả hệ tư tưởng và phương pháp nghệ thuật, đều thể hiện qua xu hướng lý tưởng hóa, ước lệ. Điều này là không thể tránh khỏi trong việc sáng tác chung, trong trình độ tư duy nghệ thuật chung đương thời… Dù như thế nào đi nữa, Truyện Kiều vẫn là một di sản vĩ đại, là tuyệt phẩm của văn học dân tộc trong quá khứ. Quan điểm về lịch sử và yêu cầu về giá trị văn học đã được khẳng định điều đó”.
Đoạn trích từ “Truyện Kiều”, 'Trao duyên' có 34 câu thơ, bắt đầu từ câu 723 đến câu 756. Nói về Thúy Kiều, người phải bán mình để chuộc cha bị oan. Trước khi phải rời xa gia đình để bán hương, Kiều đã nhờ em gái Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Phần còn lại của đoạn trích thể hiện tâm trạng của Kiều khi nghĩ về cuộc sống và tình yêu đầu đời.
Đoạn 'Trao duyên' không phải cảnh trao duyên thơ mộng mà thường thấy trong ca dao. Nó chứa đựng tâm tư nặng của Kiều khi phải bán mình để cứu cha, phản bội lời thề với Kim Trọng. Kiều nhờ em gái trao duyên lại cho Kim, thể hiện sự day dứt và đau đớn trong lòng.
'Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Kiều phải bán mình chuộc cha, làm việc đó là phản bội lời thề với Kim Trọng. Kiều nhờ em gái Thúy Vân thay mình trao duyên cho Kim, nhưng trong lòng Kiều đau đớn và day dứt khi phải rời xa tình yêu của mình.
'Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!'
Tất cả đã tan vỡ, hết những tình cảm tha thiết, da diết, kỉ niệm ngọt ngào ân ái đã trao. 'Trâm gãy gương tan' biểu đạt sự tan vỡ của tình yêu, đau đớn trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu với Kim Trọng ngày càng nâng cao, đau đớn trong lòng nàng càng mạnh mẽ, đớn đau hơn.
'Trâm' và 'gương' tượng trưng cho vẻ đẹp của người con gái, nhưng những gì Kiều trân trọng đã vỡ tan thành mây khói. 'Muôn vàn ái ân' của Kiều và Kim Trọng chỉ càng làm tăng thêm sự đau khổ trong lòng nàng.
'Muôn vàn ái ân' không thể cân đo đong đếm, thể hiện đau khổ của Kiều và sự thất vọng khi những hẹn ước vỡ tan. Trao duyên cho em, ai thấu hiểu được nỗi đau của Kiều.
Trong nỗi đau và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng nhưng hiện thực lại khác xa. Cuộc đối thoại với Kim Trọng chỉ trong tưởng tượng, khiến nàng đau đớn chua xót.
'Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!'
Kiều than trách số phận, sự vô tình của cuộc đời, than thở về số phận éo le, mỏng manh của bản thân đã khiến tơ duyên đứt đoạn chỉ còn “ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Kiều mong Trọng chấp nhận duyên tình giữa họ chỉ là kí ức ngắn ngủi dù tươi đẹp. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp Kiều giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, nhưng giờ đây, Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến Kim Trọng.
Kiều cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, Kiều xin bái biệt đi về cõi âm. Kiều gọi Kim Trọng là tình quân, tự coi mình là người phụ bạc. Trong lòng Kiều vẫn chất chứa nỗi buồn thương.
Kiều thấm thía nỗi cô đơn và số phận bạc bẽo giữa cõi đời bất công.
'Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng'. Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của Kiều, là lời dự cảm, lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước.
Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Câu thơ là lời dự cảm, lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu.
“Phận bạc” ở đây là lời phê phán xã hội phong kiến. Nhưng Kiều đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, chấp nhận số phận đớn đau. Số phận của Kiều cũng được thấy trong nhiều tác phẩm khác như Vũ Nương bất hạnh phải tự vẫn để minh oan, hoặc những người con gái trong các câu ca dao:
'Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai'
Nguyễn Du cũng đã từng thổn thức:
'Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'
Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
'Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Mỗi tiếng gọi người yêu của Kiều chắc hẳn là một phen đau đớn xót xa trong lòng. Những từ như 'ngắn ngủi', 'lỡ làng', 'thôi thôi', 'Kim lang', 'phận sao phận' tạo nên những cơn sóng đau thương bủa vây nàng, nhưng nàng vẫn cố gắng không để lòng mình quật ngã. Có lẽ đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là 'Kim Lang' tha thiết như vậy. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần có lẽ chứa đựng bao nhiêu tình cảm sâu đậm qua tiếng gọi người yêu của mình.
'Thôi thôi' là tiếng than thở rất rẻ rúng, dằn vặt. Đó cũng là sự chấp nhận phận bạc của mình. Tiếng gọi của nàng như một lời kêu chối với tuyệt vọng khi không có hồi âm. Kiều đã cố gắng hết sức, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng - tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng kêu đó, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình: “Cạn lời hồn ngất máu sau - Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”. Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, bi kịch của Thuý Kiều cũng đã đến. 'Ôi', 'Hỡi' Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần cuối trong nước mắt nhạt nhòa, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi.
Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho ta thấy được tình cảm của Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thủy sắc son. Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn cả là sự xót xa dành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.
Bản dịch của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim về Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) nhận được những lời khen ngợi cao đẹp: “Văn phong sắc sảo, khiến người đọc phải cảm thấy xót xa và đau đớn... Tố Như Tử sử dụng tâm hồn đau khổ, viết lời kể khéo léo, miêu tả cảnh vật tinh tế, diễn đạt tình cảm chân thành, nếu không có cái nhìn sâu xa vượt thời gian, lòng suy tư suốt cả nghìn đời, thì ai có thể có được tài nghệ của ngòi bút ấy”.
Trong đoạn trích Trao Duyên, nhà thơ đã rơi nước mắt cho một tình yêu chân thật, trong sáng giữa Thuý Kiều và Kim Trọng. Tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng là một tình yêu trong sáng, đẹp đẽ nhưng do sóng gió trong gia đình mà Kiều phải bán mình để chuộc cha, làm cho tình yêu này bị chia cắt. Nàng đành phải trao duyên của mình cho Thuý Vân. Sự “hi sinh” của Thuý Kiều khiến người ta phải kính phục, tình cảm của Thuý Kiều khiến chúng ta trân trọng yêu thương. Đó là điểm sáng chói lọi trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.
Ngoài những nội dung đã được đề cập ở trên, sự thành công trong việc truyền đạt thông điệp mà tác giả muốn gửi đi còn phụ thuộc vào nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc miêu tả tâm lý nhân vật để nổi bật những phẩm chất đáng quý của họ. Ngoài ra, khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao Duyên, ta thấy tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc sử dụng hình thức độc thoại nội tâm để thể hiện những tâm tư, nỗi niềm sâu kín trong lòng của nàng Kiều. Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã xuất sắc thể hiện những biến động phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách khéo léo và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Trong Lời đầu sách của Từ điển Truyện Kiều (1974), Giáo sư Đào Duy Anh đã viết: “Trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đã đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đã đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất lượng và đã thể hiện khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc… Nguyễn Du sinh ra ở Thăng Long, tổ quốc ở Nghệ -Tĩnh, mẫu quốc ở Bắc Ninh, đã nhờ những điều kiện đó mà xây dựng được một ngôn ngữ có thể nói là kết hợp đặc sắc của cả ba khu vực quan trọng nhất của văn hóa Việt Nam thời xưa”.
Sáng tác của Nguyễn Du đề cao tư tưởng nhân đạo, đặc biệt là niềm quan tâm sâu sắc đến thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản tình thư mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ về tự do công bằng “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc của những con người bị đàn áp, bị chà đạp, đặc biệt là phụ nữ. Không chỉ thương xót, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp và những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số giới hạn của tư duy phong kiến và tôn giáo để khẳng định giá trị của con người. Đó chính là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông mang lại cho văn học Việt Nam trong thời đại của mình, đúng như Tố Hữu đã từng ca ngợi:
'Tiếng thơ như làm rung chuyển trời đất
Nghe như tiếng sóng vỗ dạt bờ xa
Nghìn năm sau vẫn nhớ Nguyễn Du
Âm thanh yêu thương như âm thanh của mẹ ru con trong những ngày xưa'
8 câu cuối của bài thơ Trao duyên - Mẫu 2
Trích đoạn Trao duyên trong Truyện Kiều cho thấy bản năng tài hoa của Nguyễn Du trong việc miêu tả sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Qua đoạn trích, ta cảm nhận được sâu sắc hơn, đau lòng hơn với số phận bi đắng, thảm thiết của Thuý Kiều. Tám câu cuối của bài thơ là một phần vô cùng ấn tượng, tái hiện chân thực tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Sau khi sử dụng mối 'duyên thừa' với Kim Trọng, Thúy Kiều đã phải đau lòng mà tiết lộ tâm hồn của mình. Đó là cảm giác tuyệt vọng, đau đớn tột cùng khi phải từ bỏ mối tình đẹp đẽ với Kim.
'Bây giờ trâm gãy, gương tan vỡ
Làm sao để níu kéo được muôn vàn tình thân'
Trạng ngữ xác định thời gian 'bây giờ' chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ 'trâm gãy gương tan' để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.
Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc 'muôn vàn ái ân' của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,... Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.
Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:
'Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi'
Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động 'trăm nghìn gửi lạy' cùng lời tha thiết, cảm thán 'Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi' là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?
Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:
'Phận sao phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng'
Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ 'bạc như vôi', 'nước chảy hoa trôi' như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận 'đã dành' cho 'nước chảy hoa trôi' cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.
Hai tiếng 'Kim Lang' tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ 'Kim Lang' kết hợp với thán từ 'Ôi', ' Hỡi' cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây'
Tám câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.
Trao duyên nói chung và tám câu cuối trích đoạn nói riêng đã góp phần mình vào sự thành công của tuyệt tác Truyện Kiều. Tin rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ vẹn nguyên giá trị lâu bền, được bao thế hệ đọc giả trân trọng và giữ gìn.
Phân tích Trao duyên 8 câu cuối - Mẫu 3
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.
Dù có quay về quá khứ hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:
'Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng'
Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như 'muôn vàn, trăm nghìn' thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.
Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
'Ôi Kim lang hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây'
Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ 'ôi, hỡi' khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.
Nguyễn Du đã thể hiện một cách xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật bằng ngòi bút tài tình. Với hệ thống ngôn từ điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Tác phẩm đã làm xao xuyến biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích 'Trao duyên' đã thành công phác họa bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng lại làm nổi bật một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hy sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng lại hy sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó không đáng cảm phục lắm sao.
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 4
Dù chỉ là một trích đoạn ngắn từ “Truyện Kiều” nhưng “Trao duyên” đã góp phần thể hiện thành công những vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều và tài năng sáng tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn trích là tiếng lòng tha thiết của Kiều về hoàn cảnh bi đát của gia đình, của phận mình và của tình yêu đầu đời đẹp đẽ. Đặc biệt, khi thể hiện nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã tạo ấn tượng trong tám câu thơ cuối đoạn trích:
'Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Để hiểu sâu về 8 câu cuối bài Trao duyên hay đoạn trích toàn bộ, người đọc cần nắm vững về tác giả và tác phẩm.
Nguyễn Du (1765-1820) hay còn được biết đến với tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Người ta vẫn tự hào về Nguyễn Du, đại thi hào đã góp phần lớn vào văn học Việt Nam.
Là con của Hà Tĩnh - vùng đất sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước, Nguyễn Du nổi tiếng với các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong chữ Hán, ông có các tác phẩm nổi tiếng như: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Về chữ Nôm, có thể kể đến như: Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Thác lời trai phường nón...
Nguyễn Du đã thành công trong việc sáng tác bởi ông đã dùng cuộc sống của mình để phản ánh vào tác phẩm, thể hiện tấm lòng nhân đạo vĩ đại. Các tác phẩm chữ Hán của ông thể hiện cuộc đời đầy sóng gió, bi kịch của ông: gia đình ông tan tác do biến động của thời đại lịch sử từ cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.
Sống trong xã hội đó, Nguyễn Du đã thấy những khổ đau của cuộc đời thông qua những thân phận nhỏ bé phải chịu cảnh chèn ép tàn nhẫn của các thế lực đen tối trong xã hội. Tất cả sáng tác của Nguyễn Du đều thể hiện rõ tấm lòng chân thành với cuộc đời.
Ông thể hiện hiện thực nhưng chủ yếu là để thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với những người sống trong đau khổ. Trên những số phận mà Nguyễn Du thường viết, ông quan tâm đặc biệt đến phụ nữ phải sống trong cảnh phải đem tài sắc làm thú vui cho người đời. Nguyễn Du đã vượt lên những định kiến của xã hội phong kiến để khẳng định giá trị cao quý của con người.
Là một đoạn trích từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” gồm 34 câu thơ. Đây là những câu thơ từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác. Đoạn này tập trung vào nhân vật chính là Thúy Kiều, khi phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan.
Trong đêm trước khi phải rời gia đình để theo phường buôn phấn, Kiều nhờ em gái Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Phần còn lại của đoạn là về tâm trạng của Kiều khi nghĩ về cuộc đời và nhớ Kim Trọng.
Khi đọc 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cảm nhận được tâm trạng đau khổ cùng cực của Kiều sau khi Trao duyên.
Sau khi kể hết nỗi lòng với em gái, Kiều nhìn lại cuộc đời và đau đớn nhận ra sự thật là so với quá khứ, hiện tại có sự đối lập đến xót xa:
'Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!'
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy việc Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng Kiều về bi kịch hiện tại. Kiều bàng hoàng chua xót khi so với thời quá khứ – những năm tháng hạnh phúc với mối tình đầu như hoa như mộng, bây giờ chỉ còn là những đau đớn tủi phận khi biết bao hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.
'Trâm' và 'gương' tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan khi tình yêu gõ cửa trái tim. Những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ập đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây khói.
'Muôn vàn ái ân' không thể cân đo đong đếm ở miền ký ức thơ mộng có sự hiện diện của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.
Không chỉ bản thân Kiều mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều phải vượt qua. Đối chiếu giữa thực tại và một thời đã xa, đau khổ có dâng trào thành từng dòng nước mắt thì Kiều cũng không thể làm nó trở về trạng thái bình yên xưa cũ, thế nên nàng chỉ còn có thể ngậm ngùi để tìm cách an ủi, động viên chính mình và người yêu:
“Mười ngàn đồng cũng vô giá
Duyên tình ngắn ngủi có hay không?”
Khi nói ra những lời ấy, Kiều mong Trọng cũng chấp nhận cho duyên tình giữa hai người chỉ là kỷ niệm ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã giúp hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.
Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên trong hai câu thơ tiếp theo, dường như Nguyễn Du đã tạo cơ hội để Kiều có thể trút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:
“Sao lòng sao lại đau xót
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Có lẽ từ đầu buổi “trao duyên” đến thời điểm thổn thức trong tiếng khóc nàng, Kiều đã rất cố gắng để kìm giữ hết sức có thể để bình tĩnh nói cho trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi nhận mong muốn em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có lẽ đã được chấp thuận, rồi nàng cẩn thận dặn dò Thúy Vân, Thúy Kiều mới cho phép bản thân mình có thể thương xót cho nàng một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy Kiều tự ý thức được một điều là số phận của nàng không khác gì màu vôi bạc. Trước đây, khi Kiều được sống êm đềm trong mái ấm gia đình, Kiều có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được viễn cảnh ê chề giống như ngày hôm nay Kiều chứng kiến. Nhưng thật lòng mà nói, chắc ngay cả tưởng tượng, Kiều cũng không hẳn tưởng ra những đau khổ phũ phàng lại ập đến cuộc đời mình nhanh vội như vậy, nhanh đến mức Kiều còn chưa kịp trải đời để có thể ứng phó.
Thế nên Kiều phải đối diện với nó trong bàng hoàng và sự hoang mang tột độ. Rồi nỗi đau cứ thế mà tăng lên thêm mãi khi Kiều còn nhận thấy một tương lai mù mịt, tăm tối không biết sẽ như thế nào. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng Kiều cảm nhận được đó là một tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tháng ngày sắp tới mờ mịt và có lẽ với Kiều, những gì còn lại sau những đau thương đầu đời có lẽ chỉ là những hình ảnh thân thương, quý giá về gia đình, người yêu mà Kiều lưu lại trong trí.
Cuối cùng, nỗi đau khổ, tuyệt vọng cứ tuôn trào mạnh mẽ thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng lại đau đến xé lòng:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã.
Thế nhưng, dù cố gắng hết sức, Kiều không thể che giấu những tổn thương mà nàng đang phải chịu đựng. Cuối cùng, sự gắng gượng của nàng chỉ kết thúc bằng việc gọi Kim Trọng và sau đó, nàng chấp nhận lỗi và tỏ lòng biết ơn với Trọng, đồng thời tự trách bản thân vì những đau khổ và luyến tiếc.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng nghe thấy tiếng than thở đó hoà vào tiếng khóc thể hiện sự thương mình của Kiều và cũng là sự xót xa cho Kim. Trong sự chấm dứt của tình yêu của họ, Kiều chấp nhận trách nhiệm, lỗi lầm của mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Hành động thú nhận của Kiều đã làm hiện lên vẻ đẹp đáng quý trong nàng.
Đó là vẻ đẹp của một người con gái cao thượng trong tình yêu, dù bị đẩy đưa đến đường cùng để quyết định bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Kiều vẫn xem mình là người đáng phê phán vì đã phụ bạc tình yêu mới chớm nở nhưng rất sâu đậm. Đó chính là phẩm chất đáng quý của Kiều khiến ta mỗi ngày yêu quý nàng hơn.
Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Nguyễn Du đã thể hiện sự tha thiết, trân trọng của Thúy Kiều đối với tình yêu qua hành động “trao duyên”. Đồng thời, Nguyễn Du cũng đã vạch lên những phẩm chất đáng trân trọng của người con gái đầu lòng họ Vương: là một mẫu người nêu gương đạo đức và là một hình ảnh nữ nhân lý tưởng.
Bên cạnh những điểm đã đề cập, thành công của việc truyền đạt thông điệp của tác giả còn phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng tâm lý nhân vật để nổi bật phẩm chất của họ. Nguyễn Du cũng thể hiện tài nghệ khi lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để thể hiện tâm tư, nỗi lòng của Kiều.
Với những ý nghĩa về nội dung và giá trị nghệ thuật như trên, đoạn trích 'Trao duyên' đã giúp người đọc cảm thông và thấu hiểu phần nào nỗi lòng của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những phụ nữ tài năng nhưng bị số phận đẩy ép. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, họ vẫn toát lên vẻ đẹp đáng quý.
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 5
Trao duyên cho em, ai có thể thấu hiểu nỗi đau này của Kiều. Sau những phút giây đau đớn, Kiều rơi vào tuyệt vọng, nghĩ về Kim Trọng và càng đau lòng hơn, điều này được thể hiện trong tám câu thơ cuối của đoạn trích: 'Trao duyên'.
Trong tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng, người là tất cả đối với nàng, là niềm tin, hy vọng, là niềm an ủi. Nhưng Kim Trọng lại ở xa nàng, nên cuộc đối thoại này chỉ trong tưởng tượng. Nàng lên tiếng than khóc trước sự thật khắc nghiệt:
Bây giờ trâm gãy gương tan, kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” tượng trưng cho sự tan vỡ của tình yêu, cũng như sự tan nát trong trái tim của Thúy Kiều. Tình yêu của nàng dành cho Kim Trọng ngày càng nâng cao, nhưng cũng đi kèm với nỗi đau và sự dằn vặt trong lòng nàng càng trở nên mạnh mẽ, đau đớn hơn. Lời xin lỗi thương tâm của nàng: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi chỉ có thế thôi”. Kiều thốt lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mong manh, bạc bẽo của bản thân.
Phận sao phận bạc như vôi, đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Dường như lúc này, tình cảm của nàng đã lấn át cả lý trí. “Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời phê phán xã hội phong kiến. Nhưng dù vậy, nàng vẫn phải chấp nhận “đã đành” như một lời thở dài, cam chịu số phận đau đớn. Số phận của nàng giống như nhiều nhân vật khác như Vũ Nương, bị chồng ruồng rẫy và phải tự vẫn để minh oan, hoặc những người phụ nữ trong các câu ca dao:
“Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ không biết vào tay ai.”
Câu thơ này cho thấy thân phận khiêm tốn hơn bao giờ hết của Thúy Kiều. Hơn nữa, câu thơ cũng là một lời báo trước, một lo lắng cho tương lai bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” thường là biểu tượng cho người phụ nữ đẹp, ở đây không ai khác chính là Thúy Kiều, nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu. Nỗi đau trào dâng, tình cảm dồn nén choán đầy tâm trí. Vì vậy, nàng thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn với Kim Trọng:
Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Có lẽ đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như vậy. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần, dường như mỗi lời gọi chứa đựng một lượng tình cảm lớn. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau dâng lên trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng, nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau một đêm thức trắng, Kiều đã ngất xỉu.
Cạn lời hồn ngất máu say, một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng.
Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí trong trái tim Kiều chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Đoạn trích này kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, ngôn ngữ độc thoại thể hiện nỗi đau đến tột cùng của Thúy Kiều. Nhưng qua những câu thơ ngắn ngủi, tình cảm và nhân cách đẹp đẽ của nàng vẫn hiện hữu, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng, nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 6
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch được đẩy lên cao hơn. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.
Dù có quay về quá khứ, hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:
Bây giờ trâm gãy gương tan, kể làm sao xiết muôn vài ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Hàng loạt những thành ngữ hàm chứa bi kịch của người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ như 'muôn vài, trăm nghìn' thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.
Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
Ôi Kim lang hỡi Kim lang, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ 'ôi, hỡi' khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.
Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích 'Trao duyên' đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 7
Trong khoảnh khắc đó, Vân bỗng bị 'hồn' Kiều quên đi. Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:
Bây giờ trâm gãy gương tan Kể là sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Lời đối thoại có sự chuyển hướng: Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim. Cho nên bao nhiêu tình thương nỗi nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra. Nhìn lại cái “bây giờ” của Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa. Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả. Hình tượng “Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, “trâm gãy gương tan”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.
Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết. Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi. Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình.Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Rồi đây số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình.Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm.Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối. Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng dặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn “Trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện KiềuKiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 8
Truyện Kiều - một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du, được viết dựa trên tác phẩm cổ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống vào thời nhà Thanh, Trung Quốc. Truyện kể về cuộc đời đầy bi thương và mất mát của Thuý Kiều, trải qua hàng ngàn khó khăn, đau khổ, thất bại, nhưng cuối cùng hạnh phúc cũng mỉm cười với nàng. 8 câu cuối bài thơ đã thể hiện được tất cả nỗi lòng của Kiều.
Thuý Kiều là một người con hiếu thảo, tài năng và đức độ vẹn toàn.
Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng hành động này khiến nàng phải vi phạm lời thề trung thành và tình yêu với Kim Trọng. Trong hoàn cảnh đó, nàng phải nhờ đến sự giúp đỡ của em gái là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ cuối cùng có vẻ như Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình qua đời. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.
Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng hành động này khiến nàng phải vi phạm lời thề trung thành và tình yêu với Kim Trọng. Trong hoàn cảnh đó, nàng phải nhờ đến sự giúp đỡ của em gái là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”.
Bốn câu thơ cuối cùng của Kiều như đang trăn trối nói về ngày sau khi mình qua đời. Mai sau khi em đốt lễ hương, nhìn thấy trời cao lặng thinh thì hồn chị đã về:
Hồn chị đã trở về đây, mang theo nỗi đau của một người phụ nữ bị phản bội tình cảm. Trước khi làm thanh minh, nàng chấp nhận thân nát để đền tội phản bội lời thề trung thành với người tình. Nỗi đau ấy chị vẫn mang theo xuống âm phủ. Hôm nay khi chị trở về, đã 'âm dương cách biệt đôi đường' không thể nói được gì, chỉ xin rằng cho chén nước để hồn chị được siêu thoát. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người phụ nữ trong câu chuyện chỉ mong muốn có một cuộc sống bình yên, ấm áp, mong muốn những đứa con của mình được ăn no, mong muốn thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ.
Nhìn lại hiện thực, nghĩ đến tình cảm nàng truyền đi, giãi bày:
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Hiện tại mọi thứ đã tan vỡ, lỡ làng, không còn những tình cảm tha thiết, ngọt ngào, những kỷ niệm tình yêu ngày xưa đã trao nhau. Thiếp đành chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Lời nhắn nhủ vừa mang nỗi tiếc nuối, vừa cam chịu chỉ 'có ngần ấy thôi' ít ỏi quá chàng ơi, nhưng không thể nào kéo dài thêm được nữa. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người phụ nữ trong câu chuyện chỉ mong muốn có một cuộc sống bình yên, ấm áp, mong muốn những đứa con của mình được ăn no, mong muốn thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt.
Câu thơ đong đầy tình cảm, xót xa đau lòng với số phận phũ phàng, chua chát - lời thơ như đầy hờn oán, trách móc than thân trách phận:
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa. Vì phải cứu gia đình, nàng phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng phải nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Cuộc đời quá cay đắng, bạc bẽo hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với con người tài sắc vẹn toàn như Thuý Kiều. Đành rằng cuộc đời “nước chảy hoa trôi” nhưng cũng có giới hạn thôi chứ sao mà quá bi đát, quá phũ phàng đến vậy. Quay về với thực tại Thuý Kiều như bừng tỉnh, thốt lên:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. 'Ôi', 'Hỡi' Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi. Vì phải cứu gia đình, nàng phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng phải nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.
Sự thật đó khiến Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho thấy tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thuỷ sắc son.
Sự “hi sinh” của Thuý Kiều khiến người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều khiến chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến nàng sống mãi trong lòng người đọc.
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - Mẫu 9
Trao Duyên là một trong những đoạn trích cảm động, đau thương nhất trong Truyện Kiều, ở đó Nguyễn Du đã thể hiện khả năng nắm bắt tâm lí nhân vật tài tình, đồng thời thấy được bi kịch tình yêu, bi kịch nỗi đau tâm hồn đầy giằng xé của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đặc biệt là 8 câu thơ cuối.
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Sự tỉnh táo của Thuý Kiều về nỗi đau của cuộc đời mình, để thấu hiểu sâu hơn hiện thực của mối tình đẹp đẽ, tha thiết với chàng Kim giờ chỉ còn là một kỷ niệm, không thể tái hồi, dẫu có ghép lại thì cũng không thể như xưa. “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, sự đối lập giữa hiện tại và quá khứ. Hiện tại là đau đớn, quá khứ là hạnh phúc một thời. Hạnh phúc với Kiều lúc này chỉ là một tương lai mờ mịt xa xăm chỉ có thể cảm nhận mà không thể nhìn thấy.
“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng'
“Hồng nhan bạc mệnh”, câu nói ấy dường như ám sát vào nàng, vào cuộc đời nàng, suốt đời ôm lấy kiếp long đong. Xã hội phong kiến kim tiền giả dối, thối nát và tàn ác đã đẩy Kiều đến bước đường cùng đầy đau đớn này, nhưng dù vậy phận nữ nhi thường tình, nàng còn có thể làm gì hơn được nữa, nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đau đớn. Câu thơ như lời đối thoại, nhưng cũng như lời độc thoại đau đớn, Kiều than cho số kiếp bạc bẽo, thân phận bèo bọt của mình, giống như biết bao nhiêu kiếp hồng nhan bạc mệnh khác bị cuốn vào guồng quay oan nghiệt của xã hội phong kiến. Câu thơ vang lên nặng nề, ai oán như một lời nghi vấn nghìn năm thiên cổ, thay cho tiếng nói của biết bao số kiếp bạc mệnh khác.
Nhưng trong đỉnh điểm của nỗi đau riêng lẻ, Kiều lại nghĩ đến Kim. Tên Kim Trọng vang lên lúc này, như một tiếng kêu thương của một người đang chối bỏ trước bờ vực thẳm của cuộc đời mình:
'Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây'
Sự thật là có một Thúy Kiều đã chết, cái chết trong tâm hồn, cái chết của mối tình đầu chưa trọn vẹn suốt 15 năm lưu lạc vẫn tan nát cõi lòng. Rõ ràng trong đau đớn, Kiều vẫn hướng về Kim Trọng, vẫn một lòng thủy chung với chàng, nhưng nàng vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như dâng lên không ngớt trong lòng nàng. Sau những dòng tâm tư quằn quại, nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng, thể xác mệt nhọc, tâm hồn, trái tim tan nát, Kiều dường như không thể trụ vững được nữa:
“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng'
Trong tột cùng của nỗi đau, ta vẫn thấy tỏa sáng một tình yêu cao đẹp, đẹp đến đau thương, bi thương cho số kiếp nàng Kiều, “hồn ngất máu say”, “hơi lạnh ngắt”, tất cả những cách diễn đạt như ghim vào lòng người, đã trở thành niềm đau đáu tâm can, làm cồn lên những dày xé bất tận trong lòng người đọc về cái kết quá đỗi bi thương, cũng vì một trái tim yêu quá sâu nặng, tha thiết đến quặn thắt của Kiều. Với nàng, tình yêu cho Kim là lẽ sống, bây giờ lẽ sống ấy đã không còn, sự thực chẳng khác nào, sống không bằng chết.
Nếu không có một trái tim đồng cảm với Kiều, sao Nguyễn Du có thể viết những câu thơ như rỉ máu đầu ngọn bút như thế, trang văn, từng nhịp thơ, lời thơ như tiếng lòng gào thét, cũng đầy uất nghẹn, bế tắc của Kiều. Đó thực sự là sự đồng điệu đến từng điệu hồn tế vi nhất của tác giả và nhân vật.
Phân tích Trao duyên 8 câu cuối - Mẫu 10
Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa vô cùng to lớn, là kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam - Truyện Kiều. Trong mỗi đoạn trích của tác phẩm, thông qua nhân vật Thúy Kiều tác giả đã lan tỏa cả những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong từng câu thơ. Đặc biệt là trong đoạn trích Trao duyên - một đoạn trích tiêu biểu, cao trào cho bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều, tám câu thơ cuối được ví như lời oán thán, tiếng thét không nên lời của một kiếp người nhỏ bé đành cam chịu sự an bài của số phận.
Sau khi thuyết phục em gái mình là Thúy Vân chấp nhận mối nhân duyên với Kim Trọng, Thúy Kiều đem trao hết tất cả những kỉ vật giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân và dặn dò em bằng những lời tự tận đáy lòng. Thúy Kiều trong lúc đau đớn, xót xa đã bất giác quên đi việc đang trò chuyện với em mà chuyển sang độc thoại nội tâm, đó là khi nàng nhớ về Kim Trọng. Tám câu thơ dưới đây là tiếng than oán xé lòng và lời từ biệt đầy đau thương của Kiều dành cho tình quân của mình.
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang”
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Có thể thấy, trong tám câu thơ trên đã có đến năm câu cảm thán, trước mắt người đọc là hình ảnh của một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận đưa đẩy đến bước “đoạn trường” đang ngồi sụp xuống buông xuôi tất cả. Lời thơ của Thúy Kiều đầy đau đớn, chạm tới sự rung cảm của người đọc. “trâm gãy gương tan” ám chỉ cho mối tình đã tan vỡ, tan vỡ theo cách không thể nào hàn gắn hay lành lại được nữa. Đây sẽ là sự chia ly vĩnh viễn, không thể cứu vãn được nữa rồi. Ấy vậy mà trước đó nàng và chàng Kim đã có mối tình đẹp biết bao “muôn vàn ái ân” với bao kỉ niệm và kỉ vật trao nhau. Bây giờ tất cả đều không còn ý nghĩa gì nữa, nàng phải rũ bỏ hết, tự mình chối bỏ tình cảm ấy để trọn hiếu nghĩa với mẹ cha.
Đối với Kim Trọng, người “tình quân” của nàng đã tin yêu nàng hết lòng, cho đến bây giờ lại không thể cùng nàng trọn nghĩa phu thê, đó là điều khiến Thúy Kiều day dứt và đau đớn nhất. Nàng không biết làm thế nào để tạ lỗi với Kim Trọng, chỉ còn biết “trăm nghìn gửi lạy”, gửi cái lạy tạ lỗi với tấm chân tình của chàng Kim, đây là cái lạy cho sự bái biệt đầy thiêng liêng cho thấy Thúy Kiều rất trân trọng và chân thành với mối tình này. Chỉ mong rằng Kim Trọng hiểu được nỗi lòng, số phận và hoàn cảnh của mình mà chấp nhận se duyên với em gái. Thúy Kiều đã phải than oán về số phận với hàng loạt thành ngữ như “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng”, ám chỉ cho số phận hẩm hiu, bạc bẽo, trôi nổi của Thúy Kiều. Nàng Kiều ý thức được số mình đầy đau khổ, lênh đênh dang dở, nếu như quá khứ đầy yêu thương, muôn vàn ái ân bao nhiêu thì bây giờ là thực tại đầy đau khổ, bẽ bàng bấy nhiêu, số phận nàng đã được an bài như vậy.
Thúy Kiều không phải là người im lặng chịu đựng số phận, nhân vật này đã dám đứng lên phản kháng, không ngần ngại oán trách cuộc đời. Dù không thay đổi được điều gì, nhưng điều đó cho thấy Kiều là người hiểu biết, trung thành và chân thành. Trong tình huống phải chọn giữa gia đình và tình yêu, nàng đã hy sinh tình cảm để bảo vệ cha mẹ. Lời gọi của Kim Trọng 'Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang' đầy bi kịch, thể hiện sự tuyệt vọng và đau khổ của Kiều. 'Thôi thôi' là sự kết thúc không hy vọng, nàng chấp nhận mình là kẻ phản bội, không thể phủ nhận tình yêu nồng thắm với Kim Trọng nhưng chữ hiếu đã buộc nàng hy sinh. Mặc dù đã nhờ Thúy Vân gánh vác mối nhân duyên này, trong lòng Kiều vẫn không được thanh thản, nàng trách phận và oán thán số phận bất công.
Trong đoạn trích Trao duyên, chúng ta nhận thấy Thúy Kiều không chỉ là một hình tượng nghệ thuật mà còn gần gũi với một con người thực, có nhân cách phức tạp. Tình cảm, đau khổ và hy sinh của Kiều khiến chúng ta cảm thấy đồng cảm với nỗi đau và bạc bẽo của số phận nàng.
...........
Tải file về để xem thêm bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối Trao duyên