TOP 11 bài Phân tích Hầu trời của Tản Đà tuyển chọn 11 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết hay nhất. Điều này giúp học sinh lớp 11 có thêm nhiều gợi ý ôn luyện, trau dồi vốn từ vựng để viết bài văn phân tích sâu sắc và gây ấn tượng.
Bài thơ Hầu trời là một tác phẩm đặc biệt và rất hấp dẫn, dù dài nhưng cấu trúc chặt chẽ, hấp dẫn đến từng chi tiết. Bài thơ Hầu trời giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tài năng và cá tính của Tản Đà qua từng dòng thơ. Dưới đây là TOP 11 bài văn phân tích Hầu trời hay nhất để bạn tham khảo và tải xuống.
TOP 11 mẫu Phân tích Hầu trời xuất sắc nhất
- Kế hoạch phân tích bài Hầu trời
- Sơ đồ tư duy phân tích Hầu trời
- Phân tích bài Hầu trời chất lượng nhất
- Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà ngắn gọn và rõ ràng
- Phân tích bài thơ Hầu trời đầy đủ nhất và chi tiết nhất
Kế hoạch phân tích bài Hầu trời
Kế hoạch số 1
I. Bắt đầu bài:
- Giới thiệu bài thơ Hầu trời một cách tổng quan
Với phong cách thơ lãng mạn, phóng khoáng, ngông nghênh, thể hiện sự ứu ái và lòng nhân từ của tác giả. Thơ văn của ông hiện đại và trang trọng, tạo ra những tác phẩm độc đáo và sâu sắc. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là Hầu trời, thể hiện sự ngông nghênh và tự do tinh thần của Tản Đà. Tác phẩm này thể hiện lòng kính trọng và sự kết nối của tác giả với thiên nhiên, đặc biệt là với bầu trời. Hãy cùng khám phá cái ngông của Tản Đà trong tác phẩm này.
II. Phần chính:
- Phân tích chi tiết bài thơ Hầu trời
1. Mở đầu bằng việc giới thiệu ngắn gọn về nội dung của bài thơ:
- Câu chuyện diễn ra vào buổi tối, trong một khoảnh khắc yên bình và tĩnh lặng
- Trong câu chuyện, tác giả mơ thấy mình muốn đến với thế giới tiên, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của một nhà thơ
- Một phần của tâm trạng thực và một phần là ảo của nhà thơ
2. Thi nhân đọc thơ trước trời và Chư Tiên
- Thi nhân đọc thơ với sự hứng khởi
- Anh ta kể về cuộc sống và công việc của mình thông qua những bài thơ
- Giọng điệu của thi nhân vui vẻ, tự tin và một chút kiêu hãnh
3. Phản ứng của người nghe:
- Trời tỏ ra rất ấn tượng và khen ngợi thi nhân
- Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và ấn tượng
4. Người thơ trò chuyện với bầu trời:
- Tự khẳng định bản thân
- Mặc dù cuộc sống gian khổ, nhưng tác giả vẫn thấy bình yên
- Trí tưởng tượng nghệ thuật lan tỏa khắp bài thơ
II. Kết luận:
- Chia sẻ cảm nhận của bạn về bài thơ Hầu trời
Ví dụ:
Bài thơ Hầu trời thể hiện tính ngạo nghễ của tác giả, sự hóm hỉnh và vui vẻ đã làm cho bài thơ trở nên độc đáo và thú vị hơn.
Dàn ý số 2
1. Mở đầu phân tích bài Hầu trời
- Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời
- Tản Đà (1889-1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, xuất thân từ làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.
- Hầu trời được trích từ tập 'Còn chơi', thể hiện sự tự cao của tác giả cũng như sự tiếc nuối cho tình cảnh bản thân cũng như của các nghệ sĩ đương thời.
- Chào mừng vào vấn đề.
2. Thân bài phân tích bài Hầu trời
a) Luận điểm 1: Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
- Tư duy của thi nhân khi đọc thơ và cách thi nhân tự nhận xét về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất hứng khởi, phấn chấn và có phần tự phụ: “Đọc hết văn vần sang văn xuôi / Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân diễn đạt chi tiết, cụ thể về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình con là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết…”
- Dạng giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngạo mạn có phần kiêu căng.
=> Phần thơ này thể hiện sự tự tin của thi nhân vào tài năng văn thơ của mình và sự dũng cảm khi thể hiện 'bản thân' một cách mở cửa. Ông cũng rất 'ngông' khi đặt niềm tin vào trời để khẳng định tài năng của mình. Đó là ước mơ chân thành trong tâm hồn của nhà thơ.
- Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng văn thơ của tác giả.
- Thái độ của trời: rất tán dương: văn thật tuyệt, văn đời này chắc có ít, văn xuất sắc như sao băng…
- Thái độ của chư tiên: cảm động, ngưỡng mộ và tán thưởng… Tâm nở dạ, sẵn sàng ăn nói…
=> Toàn bộ phần thơ này đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát khỏi gò ép của cuộc sống.
b) Luận điểm 2: Thi nhân trò chuyện với trời:
- Thi nhân tả lại hoàn cảnh của mình => Trong văn chương việc đề cập đến tên tuổi trong tác phẩm là cách để thể hiện cái tôi cá nhân của họ.
- Thi nhân miêu tả về cuộc sống: Đó là một cuộc sống khó khăn, bần cùng, đầy thiếu thốn, với thân phận của một nhà văn bị coi thường và xem thường. Ở thế gian này, ông không tìm thấy niềm vui, nên phải đến tận thiên đình để xua tan nỗi buồn trong lòng.
=> Đó cũng là tình hình thực tế của cuộc sống của những người nghệ sĩ trong xã hội thời đó, một cuộc sống cực kỳ khó khăn, không có một đất nước nào để cắm đầu, với thân phận bị khinh rẻ, không đủ để sống.
=> Thông qua đoạn thơ này, tác giả đã vẽ nên một bức tranh chân thực và đầy cảm xúc về cuộc sống của mình và của nhiều nhà văn, nhà thơ khác.
=> Tác phẩm toát lên cảm hứng thực tế suốt từ đầu đến cuối.
c) Phân tích 3: Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
+ Trách nhiệm theo lệnh trời: Lan truyền những giá trị tốt lành.
=> Trách nhiệm này chỉ ra rằng Tản Đà có tính cách lãng mạn mà không hoàn toàn xa rời cuộc sống. Ông vẫn nhận thức rõ về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với cuộc sống để tạo ra một thế giới hạnh phúc và ấm no hơn.
+ Thi nhân khao khát mang trên vai sứ mệnh của cuộc đời -> Điều này cũng là cách tự minh chứng bản thân trước thời đại.
=> Có thể nói rằng trong thơ của Tản Đà, cảm hứng lãng mạn và hiện thực đan xen một cách chặt chẽ.
3. Kết luận phân tích bài thơ Hầu trời
- Tổng quan về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- Phê bình, nhận xét tổng quát của tôi
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và tưởng tượng của từng người
Bản đồ tư duy phân tích Hầu trời
Phân tích bài Hầu trời tốt nhất
Nếu cái tôi của Xuân Diệu 'là Một, là Riêng, là Thứ nhất' thì cái tôi của Tản Đà là cái tôi lãng mạn, ngông nghênh, phóng túng thể hiện khát khao khẳng định bản thân giữa cuộc đời. Khát khao ấy được ông thể hiện qua bài thơ 'Hầu trời'. Đây là bài thơ được in trong tập 'Còn chơi' được xuất bản năm 1921.
Ta đã bắt gặp ước mong lên thiên đình của Tản Đà qua bài thơ 'Muốn làm thằng cuội'. Chốn thiên đình, nơi bồng lai tiên cảnh đã trở thành một đề tài quen thuộc của văn chương trung đại. Dường như nhà thơ Tản Đà không tìm được người tri kỉ với mình trong lĩnh vực thơ ca ở chốn hạ giới nên ông phải đi tìm tri âm ở chốn thiên đình. Thơ ông được ví là bình cũ rượu mới với những đổi mới về hình thức, thủ pháp nghệ thuật và ông được coi là 'gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại'. 'Hầu trời' được viết dưới dạng những lời kể tự sự, kể lại việc nhà thơ tưởng tượng mình lên thiên đình gặp trời và các chư tiên để đọc thơ:
'Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng'.
Câu chuyện nhà thơ kể xảy ra vào thời gian 'đêm qua' yên tĩnh, không gian vắng lặng nhưng lại 'chẳng biết có hay không', nửa thực nửa ngờ. Chuyện lên cõi tiên của Tản Đà có thể khiến nhiều người không tin tưởng vào độ chính xác của nó nhưng nhà thơ khẳng định rằng đó là sự thật, không 'mơ mòng', không 'hoảng hốt'. Điệp từ 'thật' lại thêm một lần nữa chứng minh câu chuyện mà tác giả sắp kể không phải là hư cấu. Tản Đà đã gặp được tiên và có cảm giác 'sướng lạ lùng' rất khó diễn tả. Cảm giác ấy đã làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện mà nhà thơ sắp kể. Tản Đà thật khéo léo khi 'vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta' (Xuân Diệu). Quả thực, cách mở đầu câu chuyện của nhà thơ rất cuốn hút và độc đáo, tạo được sự chú ý, tò mò cho bạn đọc.
Ông đã kể lại cách mình được Trời sao gọi rất chi tiết. Tác giả đang ở một mình vào lúc canh ba sau đó dậy để đun nước uống và ngâm văn. Nhưng 'chơi văn ngâm chán lại chơi trăng' thì đột nhiên hai cô tiên xuống và nói:
'Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà
Làm Trời mất ngủ,Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua'.
Đó cũng là lý do mà Trời sao tiên nữ xuống gọi Tản Đà lên đọc cho Trời nghe. Vậy là ước mong bấy lâu nay của Tản Đà đã thành hiện thực. Ông theo hai cô tiên 'lên đường mây' và nhìn thấy 'Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ' và nhìn thấy cả cửa trời huyền bí. Các vị chư tiên đã ngồi yên lặng, Trời 'truyền cho văn sĩ đọc văn nghe'.
Thi sĩ đã có cơ hội bộc lộ hết niềm say mê của mình với văn chương:
'Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn'.
Và diễn đạt lòng biết ơn sự thiết đãi của Trời như việc Trời truyền cho văn sĩ ngồi ghế bành, thưởng thức chè trời 'nhấp giọng' bằng việc thể hiện hết tài năng của mình. Những áng văn vần, văn xuôi của Tản Đà khiến Trời thích thú, 'cũng lấy làm hay'. Điều ấy được thể hiện qua hành động 'Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi', các tiên nữ trên trời như Hằng Nga, hai thị nữ Song Thành, Tiểu Ngọc của Tây Vương Mẫu, hay Chức Nữ cũng 'lắng tai' nghe và vỗ tay cổ vũ tinh thần cho ông. Tản Đà không dám dối trá với Trời khi kể tên các tập thơ của mình như: 'Khói tình', 'Khối tình con', 'Thần tiền', 'Giấc mộng', 'Đài gương', 'Lên sáu', 'Đàn bà Tàu', 'Lên tám', tổng tất cả ông có mười tác phẩm lớn bao gồm cả 'văn thuyết lí', 'văn chơi', 'văn vị đời', 'văn tiểu thuyết', 'văn dịch'. Tài năng của ông không chỉ được thể hiện ở một loại văn mà nó được thể hiện phong phú trên nhiều thể loại khác nhau. Chỉ có trong văn chương, Tản Đà mới bộc bạch hết những khao khát, đam mê, ước muốn của bản thân. Đồng thời tác giả cũng thể hiện lòng biết ơn của mình dành cho Trời qua câu thơ:
'Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?'
Trong lúc chưa biết in ra bao nhiêu số lượng tác phẩm để bán thì Tản Đà nhận được lời mời của các vị chư tiên: 'Anh gánh lên đây bán chợ Trời'. Chắc hẳn văn chương của ông sẽ trở thành mặt hàng đắt giá chốn chợ Trời chứ không 'rẻ như bèo' ở chốn hạ giới.
Được thưởng thức tài năng của Tản Đà, Trời và các chư tiên hết lời khen ngợi:
'Trời lại phê cho: 'văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!'
Nhà thơ không ngần ngại mượn lời của Trời để tự dành lời khen cho thơ ca của mình. Cái Tôi của ông thực sự rất khí phách và ngông nghênh. Dù có chút hài hước, cao ngạo, nhưng ông ý thức rất rõ về tài năng của mình và tự tin khi thể hiện bản ngã. Phép so sánh thơ của Tản Đà 'đẹp như sao băng', 'hùng mạnh như mây chuyển', 'êm như gió thoảng', 'tinh như sương', 'lạnh như tuyết' đã thể hiện rõ sự tinh tế và sức sống trong thơ của ông.
Ý thức rõ về tài năng của bản thân, Tản Đà đã dõng dạc trả lời câu hỏi về tên tuổi, nơi ở của Trời:
'Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt'.
Những câu giới thiệu của ông rõ ràng, minh bạch nhưng cũng hết sức táo bạo khi bị 'Đày xuống hạ giới vì tội ngông'. Tản Đà tự hào khi là người con của nước Nam Việt có quê ở Á châu, Địa cầu. Qua đó, ông cũng kín đáo trình bày lí do mình có bút danh là Tản Đà bởi quê hương ông là nơi có núi Tản, sông Đà. Ông đã ghép tên núi và tên sông để lấy làm bút danh. Từ đó cho thấy tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ:
'Sông Đà núi Tản đúc nên ai
Trần thế xưa nay được mấy người
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một nhành mai'.
Tuy Trời không 'đầy' Tản Đà xuống hạ giới, nhưng Trời lại giao cho ông nhiệm vụ làm 'thiên lương của nhân loại'. Trách nhiệm này phụ thuộc vào sự tu dưỡng của từng người, và Trời đã trao cho ông nhiệm vụ làm cho cuộc sống của con người ở dưới thế gian thêm phồn thịnh. Điều này cũng là trọng trách của các nhà văn, nhà thơ, vì văn chương là công cụ thanh cao và mạnh mẽ để tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, cũng như làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch và phong phú hơn.
Biết rằng đó là trách nhiệm của những người cầm bút, nhưng Tản Đà cũng thẳng thắn diễn đạt những khó khăn cá nhân khi kiếm sống bằng nghề này:
'Bẩm Trời, con thực sự nghèo khó
Trên đời này không có mảnh đất
Trời đã giúp con học hỏi ít nhiều
Nên con còn chút ít vốn tri thức.
Giấy, mực, thuê người in ấn
Mướn cửa hàng, kinh doanh phố phường.
Viết văn, trên thế giới rẻ như rơm
Mỗi đồng kiếm được thật là khó khăn.
Ít tiền kiếm được nhiều tiền phải chi
Cả năm chỉ cố gắng không đủ dùng.
Lo ăn lo mặc, suốt ngày đêm
Học càng lớn, ngày càng kém tuổi
Sức non đã mệt mỏi, cơ ngơi đã yếu
Một cây che cho bốn mùa đổi.
Trời giao cho con nhiệm vụ quá nặng nề
Con không chắc liệu có làm được hay không dám thử'.
Nhà thơ đã thật lòng chia sẻ những khó khăn và nỗi buồn của mình cũng như của nhân dân nói chung, của bản thân mình nói riêng, trong cuộc sống dưới thế giới này để Trời có thể hiểu rõ hơn. Cuộc sống của các nhà văn, nhà thơ không hề giàu có, phú quý, mà ngược lại rất khốn khổ, thiếu thốn. Văn chương là nghề nghiệp để Tản Đà kiếm sống, nhưng nó lại rẻ bèo như cỏ dại, không mang lại lợi nhuận. Hơn nữa, số tiền kiếm được ít nhưng số tiền phải chi lại nhiều, quanh năm cố gắng mà vẫn không đủ dùng. Cuộc sống ngày càng trở nên khó khăn hơn. Điều này cũng phản ánh hiện thực xã hội của nước ta vào thời điểm đó. Vì lý do đó, Tản Đà muốn lên thiên đình để giãi bày với Trời, để tìm được tiếng nói thấu hiểu trên thế giới thần tiên ấy. Cuộc sống của nhà thơ phải xoay vòng với nỗi lo cơm áo gạo tiền, lo ăn mặc, 'học càng lớn, ngày càng kém tuổi' nên Trời đã giao phó cho 'nhiệm vụ quá nặng nề' nên Tản Đà không chắc chắn mình có làm được hay không 'mà dám thử'.
Qua những lời tâm sự đầy cảm xúc của nhà thơ, Trời đã khuyên nhủ và an ủi rằng:
'Dẫu con không nói Trời cũng đã hiểu
Trời thấu hết dù cao ngồi
Con hãy về và làm ăn thôi
Không cần lo lắng về sương tuyết!'
Lời khuyên của Trời sâu sắc và thấu hiểu. Tản Đà cảm thấy lòng mình được hiểu hết bởi Trời. Nghệ sĩ cần chấp nhận và vượt qua khó khăn để làm thiên lương con người hưng thịnh. Đó là trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ ở hạ giới.
Kết thúc bài thơ, Trời sai Khiên Ngưu đón Tản Đà về hạ giới. Trở về, Tản Đà cảm thấy tiếc nuối. Ông ước mình có thể thường xuyên lên hầu Trời để chia sẻ những nỗi buồn.
'Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Mỗi đêm không được lên hầu Trời!'
Bài thơ 'Hầu Trời' thể hiện cá tính kiêu kỳ của Tản Đà và lòng khao khát khẳng định bản thân. Viết theo thể trường thiên tự do, hài hước, ngôn từ giản dị. 'Hầu Trời' phản ánh suy tư về văn chương của Tản Đà. Ông xứng đáng với danh hiệu 'người của hai thế kỉ'.
Phân tích bài thơ 'Hầu Trời'
Tản Đà được coi là một nhà thơ đặc biệt với sự ảnh hưởng lớn trong văn chương Việt Nam. Thơ văn của ông thường mang tính chất lãng mạn, ngông nghênh nhưng cũng đầy tình cảm và ấm áp. Bài thơ 'Hầu Trời' là một ví dụ điển hình cho phong cách sáng tạo của ông.
Bài thơ bắt đầu bằng bốn câu thơ gây ấn tượng:
“Đêm qua chẳng biết có thực không
Không biết liệu đó là giấc mơ không
Nhưng cảm giác thật, cơ thể thật
Có được lên thiên đình - cảm giác lạ lùng”
Bốn câu thơ này gợi lên sự tò mò và mơ hồ, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chắc chắn và thật sự của trải nghiệm, khiến cho người đọc không thể không quan tâm và tò mò về câu chuyện tiếp theo.
Tản Đà được mời lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe. Cảnh đọc thơ cho Trời nghe được kể lại một cách sinh động. Thi sĩ ngồi trên 'ghế bành như tuyết vân', uống nước nhấn giọng và đọc thơ:
'Đọc hết văn vần sang văn xuôi
.......
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương
Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”
Tản Đà tự khen mình rồi lại mượn lời các chư tiên và Trời để tự khen thơ mình. Ông thể hiện sự tự tin và ngông cuồng khi tìm đến trời để khẳng định tài năng của mình. Ông muốn tìm kiếm sự công nhận và tri âm ở chốn cõi tiên.
Tản Đà vẽ nên một bức tranh chân thực và cảm động về cuộc đời của mình và các nhà văn khác - cuộc sống khó khăn của người nghệ sĩ trong xã hội phong kiến.
'Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán đường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”
Cuộc sống khó khăn, nghèo túng, bị khinh bỉ và áp đặt nhiều điều khiến Tản Đà cảm thấy đời đáng chán. Ông tìm kiếm sự thỏa mãn và niềm vui ở cõi thiên đình, mong muốn được công nhận và tri âm.
Bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà thể hiện sự tự tin, ngông cuồng và niềm khao khát khẳng định bản thân giữa cuộc đời. Hình thức nghệ thuật sáng tạo, giọng điệu tự nhiên, giản dị hóm hỉnh.
Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
Phân tích bài thơ Hầu trời - Mẫu 1
Tản Đà được xem là người đặt nền móng cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Bài thơ “Hầu trời” thể hiện rõ cá tính sáng tạo của ông và được triển khai một cách logic, hấp dẫn và thuyết phục.
Tưởng tượng chuyện hầu Trời giúp nhà thơ tự tin khẳng định tài năng và quan niệm mới về văn chương, thể hiện cá tính cá nhân. Nhà thơ bắt đầu câu chuyện một cách hóm hỉnh, lôi cuốn.
“ Đêm qua chẳng biết có hay không,
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.”
Lí do được mời lên Trời khá thường tình: Uống nước, ngâm thơ, và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ, rồi được mời lên.
Cuộc gặp gỡ với Trời và chư tiên được kể chi tiết, hồn nhiên, tự nhiên như thật. Tác giả chọn cách kể chuyện gần gũi như dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng gặp Trời để tự giới thiệu. Rõ ràng nêu tên, quê quán, nghề nghiệp và tác phẩm của mình. Gặp Trời, ngâm thơ, và khẳng định tài năng một cách tự nhiên.
“ Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…”
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông dễ thương.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, phân loại rõ ràng theo quan điểm cá nhân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) và đưa ra nhận xét, kèm với nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của mình:
“ Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!…
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!””
Nhà thơ tự tin khẳng định bản thân và tài năng, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngạo mạn của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời của Tản Đà, khi đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu là biểu hiện của sự tự hào dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định phong cách ngạo của mình:
- “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Thể hiện trách nhiệm cao cả của mình, nhà thơ tưởng tượng cuộc trò chuyện với Trời để nói lên ý nghĩa của nghệ thuật và nhiệm vụ cao cả của người nghệ sĩ:
Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Sử dụng tưởng tượng để an ủi bản thân và thể hiện ý nghĩa của văn chương và nghệ thuật viết.
Nhà thơ chia sẻ tâm tư về nghề văn, khẳng định vai trò của mình trong làng văn:
Với bài thơ Hầu Trời, Tản Đà đã mang lại không khí mới cho văn học Việt Nam thời đầu thế kỷ XX. Dưới hình thức một câu chuyện tưởng tượng đầy hứng khởi, nhà thơ đã khẳng định cái tôi của mình, cùng quan điểm viết văn phục vụ thiên lương. Việc làm văn để làm đời đẹp hơn là trách nhiệm cao cả mà trời đã giao cho nhà văn.
Tản Đà đã sáng tạo một cách độc đáo trong thơ ca, mang ngôn ngữ thường ngày đến với thơ một cách gợi cảm. Thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, hùng dũng, và ý thức cao quý về vai trò của mình trong nghệ thuật. Bài thơ đã phác họa một bức tranh rõ nét về nhân cách của Tản Đà, với phong cách ngạo mạn và độc đáo, thể hiện cái ngông của một nhà thơ tài hoa.
Phân tích về bài thơ Hầu Trời của Tản Đà
Tản Đà, nhà thơ vĩ đại của Việt Nam, đã để lại dấu ấn không thể phai nhạt trong văn hóa dân tộc với bài thơ Hầu Trời. Bài thơ này không chỉ thể hiện sự sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật mà còn là sự tự khẳng định vững chắc của bản thân và vai trò của mình trong nghệ thuật.
Với thể thơ tự do và sự kể chuyện tự nhiên, Hầu Trời đã tạo ra một cấu trúc độc đáo. Bằng cách kể về cuộc trò chuyện tưởng tượng với Trời, tác giả đã tạo ra một câu chuyện lôi cuốn, kết hợp giữa tình huống hư cấu và tình cảm tự nhiên, tạo ra một tác phẩm đặc sắc.
Nhiều người vẫn nhớ rõ cách bắt đầu câu chuyện của thi sĩ Tản Đà:
“Đêm qua chẳng biết có hay không, Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng. Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,”
Câu chuyện được bắt đầu một cách tự nhiên, duyên dáng nhưng đầy sự khéo léo và duyên dáng. Tận dụng cảm xúc và logic, thi sĩ đã tạo ra một câu chuyện đầy hấp dẫn và thú vị.
Lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời mời lên đọc để nghe qua. Sự kết hợp giữa tình huống hư cấu và logic hóm hỉnh tạo ra sự thú vị và tò mò cho độc giả.
Việc được đón tiếp trang trọng và nồng nhiệt, ngồi ghế bành như tuyết vân như mây, uống chè trời nhấp giọng, khiến cuộc thể hiện tài năng trở nên độc đáo và thú vị. Việc lên tiên để ngâm văn, đọc thơ là một tình huống độc đáo mà chỉ có thi sĩ Tản Đà mới có thể tưởng tượng được.
Xem xét Hầu Trời - Mẫu 3
Tản Đà là cầu nối, một điểm liên kết quan trọng giữa hai giai đoạn văn học của Việt Nam. Ông để lại một di sản sáng tác đồ sộ, đa dạng trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông phản ánh cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng và ngông nghênh. Điều này đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho văn học của Tản Đà. Hầu Trời có thể xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, kết tinh của giá trị nghệ thuật và nội dung của ông.
Cách mà Tản Đà bắt đầu tác phẩm của mình là rất đặc biệt:
“Đêm qua chẳng biết có hay không, Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”
Câu đầu tiên đặt ra một câu hỏi thực tế, liệu đêm qua có thực sự hay không. Rồi câu thơ 2,3,4 đã tự trả lời cho chính câu hỏi ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tục, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua ông đã trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.
Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên bình, tĩnh lặng, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thơ thì bất ngờ có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Câu chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó có thể tin được nhưng bằng cách giải thích hài hước, dí dỏm, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngân nga/ Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lí lại văn chơi”
Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:
- “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”
Những lời ca ngợi, khen ngợi từ các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:
“ Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”
Hàng loạt hình ảnh so sánh tuyệt đẹp nhất, trong trẻo nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã mô tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm đam mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề dưới, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.
Đoạn thơ đã cho người đọc thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất cả những tâm tư, tình cảm của mình. Đây cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.
Sau khi thể hiện tài năng cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng chia sẻ những tâm sự rất chân thành với Trời và các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Ông chỉ có “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này cũng thể hiện sự tự tin, kiêu hãnh của Tản Đà về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.
Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong trẻo, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã dũng cảm thể hiện cái tôi của mình. Đó là cái tôi : ngạo nghễ, tự do, ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị thực của mình, khao khát được xác nhận giá trị của bản thân trước đời.
Phân tích Hầu trời - Mẫu 4
Tản Đà (1889 – 1939) tên thường gọi là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong giai đoạn chuyển đổi, với sự suy tàn của Hán học và sự mới mẻ của Tây học, nên con người ông không chỉ về học vấn, lối sống mà cả sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn của 'người hai thế kỷ' (Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỷ XX, tên tuổi của Tản Đà trở nên nổi bật như một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học, một số tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm: 'Thơ Tản Đà' (1925); 'Giấc mộng lớn' (tự truyện – 1928); 'Còn chơi' (thơ và văn xuôi – 1921)... Thơ của Tản Đà thể hiện 'cái tôi' lãng mạn, tự do nhưng vẫn đầy cảm xúc, chính vì thế ông được nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá cao trong cuốn 'Thi nhân Việt Nam'. Một bài thơ hiện rõ phong cách này của Tản Đà là bài 'Hầu trời', được in trong tập 'Còn chơi', xuất bản năm 1921, thể hiện rõ 'cái tôi' cá nhân mạnh mẽ, tự do và khao khát được xác nhận giá trị bản thân trước cuộc đời.
Bài thơ 'Hầu trời' tạo ấn tượng mạnh mẽ với độc giả thông qua việc khai thác đề tài, cách dẫn dắt đầy bất ngờ và hấp dẫn, thu hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sẽ kể:
'Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng'
Tác giả, là chủ thể của giấc mơ, không dám khẳng định rằng đó có phải là giấc mơ thật hay không, thực tế hay hư ảo. Tuy nhiên, trong những câu thơ tiếp theo, bằng cách sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, như muốn khẳng định tính thực của giấc mơ. Việc lặp lại từ 'thật' bốn lần nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.
Trong những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lý do mình được lên 'hầu trời':'
'Khi nằm một mình vào canh ba
Vắt chân dưới ánh đèn xanh trên
Nằm buồn, dậy đun nước ấm
Uống xong nước ấm, ngồi ngâm văn.
....
Trông thấy Trời, lạy Trời
Trời sai tiên nữ đến dẫn lên
Ghế bành như tuyết, vân như mây
Văn sĩ ngồi chơi được truyền'
Câu chuyện hoàn toàn hư cấu, nhưng lại giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình tiết, không gian và thời gian diễn ra sự việc, và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do buổi 'hầu trời' là do 'tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà' làm Trời mất ngủ. Trời đã sai tiên nữ xuống mời thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi 'hầu trời' mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Sự may mắn được lên hầu trời kết hợp với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.
Khi đã nêu lên lý do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi 'hầu trời'. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.
'Hãy để thi sĩ đọc văn nghe
Con xin lạy Trời cho phép đọc'.
Theo niềm đam mê, thi sĩ đọc với sự hăng hái và phấn khích không tưởng. Chắc chắn chưa bao giờ họ cảm thấy hứng thú và phấn khích như thế này, nên họ đọc không ngừng:
'Đọc văn vần, đến văn xuôi
Đọc văn thuyết lí, lại văn chơi
Khi họ đọc đã thích rồi
Giọng nói càng tốt, càng tươi mới'.
Người nghe rất chăm chú và ai cũng bày tỏ sự hâm mộ qua nụ cười, cử chỉ: 'Tâm hồn rộng mở'; 'Hết sức thán phục'; 'Châu Phi, Phương Đông tò mò'; 'Dương Hồng, Cúc Trân lắng nghe'. Khi kết thúc mỗi bài thơ, tất cả đều cùng vỗ tay tán dương. Thi sĩ còn kể về nhiều tập thơ khác như 'Tình sầu', 'Gương mặt', 'Thăng trạng'...Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên nhắc nhở: 'Hãy mang đến đây và bán ở chợ trời'.
Phân tích chi tiết nhất về bài thơ Hầu trời
Phân tích bài thơ Hầu trời - Mẫu 1
Tản Đà (1889 – 1939) là một người mang dấu ấn của cả hai thế kỷ trong lối sống và sự nghiệp văn chương. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, ông trở thành một ngôi sao sáng trên bầu trời thơ văn Việt Nam với những tác phẩm đáng chú ý như 'Thơ Tản Đà' (1925); 'Giấc mộng lớn' (tự truyện – 1928); 'Còn chơi' (thơ và văn xuôi – 1921)... Tinh thần thơ của Tản Đà thể hiện cái tôi lãng mạn, bay bổng nhưng cũng chứa đựng sự cảm thương. 'Hầu trời' là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập 'Còn chơi', thể hiện rõ tâm hồn phóng khoáng, đôi khi kiêu căng của Tản Đà, đồng thời khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời.
Cách vào đề của 'Hầu trời' rất độc đáo và gây ấn tượng với độc giả. Bằng những câu thơ, tác giả gần như kể một câu chuyện vừa mới xảy ra, bắt đầu từ một giấc mơ nhưng không thể biết được đó là thật hay mộng, thực hay ảo. Sự đối lập giữa hai khái niệm 'thật' và 'mộng' được thể hiện qua ngôn từ mạnh mẽ của tác giả, tạo ra sự kì diệu và hấp dẫn cho người đọc.
'Đêm qua không biết đâu mơ thật
Không hoảng loạn, không hồi mộng
Thật tinh thần! Thật kiêu hãnh! Thật cơ thể
Thật đắc ý được lên thiên – một niềm vui lạ lùng'
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên 'hầu trời' của mình. Bằng những câu thơ thuyết phục, Tản Đà vẽ ra một câu chuyện sống động và cuốn hút.
'Khi canh ba vừa đến một mình
Giãy chân dưới ánh đèn xanh nhấp nhô
Nằm buồn, dậy rồi đun ấm nước
Uống xong, vừa ngồi, vừa ngâm văn.
....
Trông thấy Trời, lòng sùng kính
Trời sai tiên nữ dắt đưa dậy
Ghế bành tựa tuyết, vẻ mây trôi
Văn sĩ ngồi, truyền lửa đây'.
Mặc dù câu chuyện xảy ra trong giấc mơ nhưng không gian và thời gian lại rất rõ ràng. Tác giả giải thích lí do buổi 'hầu trời' là 'tiếng ngân vang khắp sông Ngân Hà' khiến Trời mất ngủ. Trời sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn. Lí do của buổi 'hầu trời' là một khẳng định về sự may mắn được lên hầu trời nhờ vào những phút cao hứng trong thơ văn.
Câu chuyện của buổi 'hầu trời' diễn ra tự nhiên và hợp lý, giống như tác giả mới trở về từ chốn đó vậy: 'Theo lệnh của Trời', thi sĩ đọc văn và nhân văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.
'Văn sĩ đọc văn, truyền lửa nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc'.
Với sự hào hứng và đam mê bùng nổ, cách thi sĩ đọc thơ, cùng sự sâu sắc trong văn chương, tác giả tỏ ra tự tin, thể hiện niềm khao khát và đam mê của mình. Qua những câu thơ, ta cũng thấy được sự tài năng đa dạng của ông:
'Dọc văn vần, chuyển văn xuôi
Thuyết lí hay, lại văn chơi
Đắc ý đọc, đã thích thú
Giọng trời nhấp, càng tốt hơn'.
Sau khi nghe Tản Đà đọc thơ, mọi người đều rất hứng thú, bộc lộ sự hân hoan, thậm chí người trời cũng phải thốt lên những lời khen ngợi mà chỉ cần nghe thôi cũng đầy hạnh phúc.
Thái độ của người nghe thể hiện qua biểu cảm, cử chỉ: 'Tâm như nở hoa'; 'Cơ lè lưỡi'; 'Hằng Nga, Chức nữ cúi mình'; 'Song Thành, Tiểu Ngọc chăm chú lắng tai' và khi kết thúc mỗi bài, tất cả đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể về nhiều tập thơ của mình như: 'Khói tình', 'Đài gương', 'Lên sáu'...Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn:
'Hãy mang lên đây bán chợ trời'.
Phần thơ tiếp theo rõ ràng thể hiện ý thức cá nhân vô cùng cao của tác giả:
'Trời lại khen ngợi: văn thật tuyệt!
Văn chắc chắn không thể chê được một chút nào
Ngôn từ chau chuốt, tươi đẹp như sao băng!
Khí văn mạnh mẽ như mây cuốn!
Dịu như gió thổi, tinh khiết như sương!
Dày như mưa sa, lạnh như tuyết!'
Những dòng thơ này góp phần thể hiện tính 'Cái tôi' tự tin, tác giả sử dụng lời của Trời để tôn vinh sự xuất sắc của thơ văn của mình. Điều này chứng tỏ Tản Đà nhận biết rõ về tài năng vượt trội của mình trong văn chương và cũng khẳng định ông là người mở đầu cho một cuộc cách mạng thơ ca, đúng với danh xưng 'người của hai thế kỉ' như Hoài Thanh đã gọi. Tản Đà so sánh tài năng văn chương của mình với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng tự nhiên như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết..., thể hiện sự tự hào, kiêu hãnh của tác giả về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự giới thiệu về bản thân:
' – Xin trình bày trước Trời con tên là Khắc Hiếu, họ là Nguyễn
Quê quán nơi Á châu trải dài ra địa cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt là quê hương'
Trời giật mình một lúc, sau đó giao Thiên tào kiểm tra. Thiên tào xem sổ sách rồi báo:
' – Tên con là Nguyễn Khắc Hiếu
Xuống hạ giới vì tội ngông'.
'- Ôi Trời ơi, số phận con nghèo khổ
Trên đời này con không có gì cả
...
Trời giao cho con nhiệm vụ quá nặng nề
Biết làm được mà không dám thực hiện'
Khi bị Trời hỏi, sau một thời gian đối đáp, sự thật được phơi bày rằng, Tản Đà bị đày xuống hạ giới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ mô tả lại hiện thực một cách chân thực, chi tiết và rõ ràng, phản ánh sự khốn khó của giới văn nghệ sĩ và tình hình rối ren của thị trường văn chương vào thời điểm đó. Trong khi cảm xúc của thi sĩ ở đoạn thơ khi đọc trước Trời đầy hứng khởi thì ở đây lại là sự chua xót, tiếc nuối. Giấc mơ 'hầu trời' là biểu hiện của khát vọng được thể hiện tài năng của thi sĩ. Trời, có vẻ như hiểu được hoàn cảnh của thi sĩ, đã khuyên bảo:
'Nói gì cũng vậy, Trời hiểu hết
Trời ở cao cũng hiểu được mọi điều
Cứ về và làm việc đi
Đừng lo sương gió, lòng mở rộng'
Mặc dù lời khuyên của Trời ngắn gọn, nhưng lại có giá trị vô cùng, sự chia tay giữa Trời và các chư tiên với tác giả vẫn đầy xúc động.
'Hai dòng lệ tách biệt, sương rơi
Nhìn xuống trần gian vạn dặm sóng sánh
Thiên tiên ở lại, tiên xuống
Theo dòng khí trời về trần gian'
Dù đã tỉnh giấc khỏi giấc mơ, nhưng vẫn tiếc nuối khi chỉ có một đêm trong một năm để hầu trời. Điều này làm nổi bật lòng khao khát được thể hiện tài năng và đam mê văn chương của tác giả, muốn được biết đến và được trân trọng.
'Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Chỉ được một đêm lên hầu trời'.
Từ một câu chuyện có vẻ không thực tế, 'hầu trời' đã phản ánh tính cách mạnh mẽ của Tản Đà, ông đã dũng cảm thể hiện bản thân mình một cách ngông cuồng, tự do. Tác giả tỏ ra rõ ràng về tài năng của mình, dám công khai khả năng văn chương vượt trội của mình. Bài thơ 'Hầu trời' độc đáo và xuất sắc, là biểu tượng của sự giao thoa giữa cái mới và cái cũ trong thơ của Tản Đà, là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho hồn thơ của ông và phong trào thơ mới.
Phân tích Hầu trời - Mẫu 2
“Tản Đà, nhân vật bao trùm hai thời đại”. Suốt cuộc đời và sự nghiệp văn chương, ông mang trong mình dấu ấn của cả hai thời kỳ: trung cổ và hiện đại. Sinh ra trong một gia đình quý tộc trong giai đoạn chuyển tiếp giữa tri thức phương Đông và phương Tây, Tản Đà không theo đuổi sự nghiệp quan lại mà chọn con đường sáng tạo thơ văn, viết báo và văn xuôi để sống. Tài năng văn chương của ông là một điểm nối giữa hai giai đoạn. Trong đó, bài thơ “Hầu trời” đặc biệt nhấn mạnh cá nhân tự do, tự tin, với cảm xúc lãng mạn nhưng không quên hiện thực xã hội. Khác biệt với các nhà thơ trung cổ sử dụng các dạng thể thơ cổ điển như Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát, hay song thất lục bát, thi sĩ sử dụng thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị ràng buộc bởi kết cấu nào, từ đó cảm xúc được thể hiện một cách tự do và tự nhiên trong cả bài thơ.
Bắt đầu tác phẩm bằng một cách tiếp cận độc đáo và gợi tò mò với bốn dòng thơ:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên-sướng lạ lùng.
Tác giả, mặc dù là người kể chuyện, nhưng lại không biết liệu sự việc có thực hay không, điều này làm tăng sự hoài nghi và tò mò cho người đọc. Tuy nhiên, nhà thơ ngay lập tức khẳng định câu chuyện là thật bằng bốn từ “thật” được lặp lại, tạo ra sự hấp dẫn và đưa người đọc tin tưởng vào câu chuyện mà tác giả sắp kể về “Thật được lên tiên-sướng lạ lùng”.
Tiếp theo, nhà thơ giải thích lý do và thời gian mà mình được “lên tiên” là vì không thể ngủ được vào giữa đêm nên dậy uống nước và đọc sách. Khi ra ngoài “chơi trăng”, hai tiên nữ xuống và nói:
“Trời nghe dưới giới, ai mở ra”
...Có thấy đọc, Trời nghe qua”.
Đó là lý do thi sĩ được mời ngâm thơ tại “thiên cung đế khuyết”. Tận dụng cảm hứng và tài năng của mình, nhà thơ Tản Đà đã trình diễn bài thơ của mình cho Trời và các thần linh với sự hứng khởi và phấn khích.
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Mỗi lời, Trời cũng mỉm cười”
Thi sĩ đã mở ra câu chuyện của mình một cách tự nhiên, mời người đọc cùng trải qua khoảnh khắc “sướng lạ lùng” khi được hầu trời qua văn chương.
Văn thơ của Tản Đà được Trời ca ngợi là “Văn đã phong phú thêm rất nhiều”, và các thần linh nghe thấy cũng xúc động và tán dương: “Tâm như nở hoa, cơ lưu luyến”, “mày mắt sáng lên”, “lắng nghe tai”, “Mỗi bài kết thúc, tất cả cùng vỗ tay”. Nhà thơ tự do, mạnh mẽ khẳng định tài năng và cá nhân của mình khi liệt kê các tập văn thơ như: tập văn “Khối tình”, văn nghệ “khối tình con”, văn học “Thần tiên”, “giấc mơ”, văn chính trị “Đài gương”, “lên cấp sáu” và cuối cùng là cuốn sách “Lên cấp tám”. Văn chương của thi sĩ được Trời ca ngợi là “Văn đa dạng về cả hình thức và nội dung”, “văn thật tuyệt”, “văn trần được chăm chút tỉ mỉ”, còn các thần linh ao ước dặn: “Anh đem lên đây mở chợ Trời”. Thông qua sự ca ngợi từ Trời và các thần linh dành cho thi sĩ, độc giả có thể nhìn thấy tài năng văn chương hiếm có của Tản Đà, khiến cho thế giới thần thoại cũng phải trầm trồ, khen ngợi văn hay và chữ tốt.
Thi sĩ khi được hỏi tên và quê quán, không ngần ngại tiết lộ:
“Tên con Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê con ở Á Châu, quê hương Địa Cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”
Trong thơ trung đại, cái tôi cá nhân thường bị che đậy, nhưng cũng có những trường hợp tự tin như Hồ Xuân Hương với câu thơ “Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” hoặc Nguyễn Công Trứ với “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Tuy nhiên, cách Tản Đà tự biểu hiện lại khác biệt. Ông công khai về bản lý lịch rõ ràng và hiện đại với đầy đủ họ tên, quê quán, quốc tịch, châu lục, thậm chí còn hành tinh…Dù chỉ qua vài dòng kể của Tản Đà, nhưng ta có thể thấy được phẩm chất và tài năng của ông. Thi sĩ ý thức về tài năng văn chương của mình và tự tin thể hiện bản thân mình mà không ngần ngại. Hơn nữa, ta còn thấy được lòng yêu nước sâu sắc của ông thông qua việc công khai quê quán ở “Sông Đà núi Tản, nước Nam Việt” trong bối cảnh dân tộc đang đối mặt với nguy cơ mất độc lập do sự xâm lăng. Điều này là minh chứng cho tinh thần tự tôn dân tộc của thi sĩ.
Mặc dù cảm hứng chính của bài thơ là lãng mạn, nhưng thi sĩ không quên thể hiện hiện thực cuộc sống. Ông không ngại nhắc nhở về hoàn cảnh khó khăn của bản thân như bao văn sĩ khác dưới hạ giới:
“Bẩm trời, con sống trong cảnh nghèo khó
...Biết làm sao để theo đuổi”.
Thi sĩ đang sống trong tình trạng “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, so sánh văn chương với bèo để thể hiện sự không đánh giá cao thơ ca, số phận của ông cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ khác vào thời điểm đó: không có mảnh đất để sống, kiếm tiền rất khó khăn vì bị kiểm soát bởi người khác, chi phí mực và giấy, in ấn đều cao, thu nhập không đủ sống, tuổi già mệt mỏi, học vấn ngày càng suy giảm, cuộc sống khó khăn. Dù thi sĩ có tài năng trong lĩnh vực văn chương, nhưng suốt cuộc đời ông phải đối mặt với cảnh nghèo đói, lo lắng về việc kiếm sống mà vẫn không giải quyết được: “Hôm qua chẳng có tiền nhà/ Suốt đêm thơ chẳng nghĩ ra câu nào”. Xã hội thực dân đã bất công với những tài năng văn chương như Tản Đà và cộng đồng văn nghệ, họ đã theo đuổi lối sống theo kiểu Tây mà quên đi giá trị văn hóa dân tộc.
Lời Trời nói rằng không phải Tản Đà bị đày xuống hạ giới mà do Trời quyết định xuống đó “Là sứ mệnh thiên hạ” kèm theo lời động viên: “Con hãy về và làm việc/ Tâm thông chớ sợ khó khăn” đã tăng thêm niềm tin, hy vọng vào cuộc sống. Điều này cho thấy thi sĩ có cái nhìn tích cực về cuộc sống của những người đạo đức, tốt bụng. Nếu ở phần thơ trước đó rất vui vẻ, hồn nhiên khi tự tin khẳng định cái tôi cá nhân thì ở đây ta cảm nhận được sự buồn bã, đau xót và cũng bi thương khi tiếng gà gáy báo hiệu, khi người đàn ông dậy, cũng là lúc thi nhân trở về với thế giới hiện thực với nỗi tiếc nuối:
“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Thế mà đêm nào cũng về hầu trời”.
Tác phẩm kết thúc thành công khi thể hiện cái tôi cá nhân đầy mạnh mẽ, táo bạo và mãnh liệt. Thi sĩ mượn lời của trời để thể hiện tài năng cá nhân với cảm xúc được thể hiện một cách tự do, thoải mái khi sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên. Ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống, không quá hoa mỹ mà vẫn rất sâu sắc và hấp dẫn. Cách kể chuyện hấp dẫn, giọng văn bình dân, hài hước, lôi cuốn đã mang độc giả vào câu chuyện một cách tự nhiên và cuốn hút.
Bài thơ “Hầu trời” đã thể hiện phong cách thơ rất “ngông” của Tản Đà nhưng vẫn giữ được tinh thần lãng mạn, đúng với lời nhận xét của Xuân Diệu “Chủ nghĩa lãng mạn cá nhân đã xuất hiện trong văn học Việt Nam vào những năm đầu của thế kỉ XX qua Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Tác phẩm đã để lại nhiều ấn tượng về phẩm chất và tài năng của một con người được xem là liên kết giữa hai thế kỉ.
............
Tải tài liệu để đọc thêm về bài phân tích Hầu trời