Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ đặc sắc viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nó thể hiện sự lãng mạn, hào hùng đặc trưng của thời kỳ đầu thế kỷ XX. TOP 17 bài văn phân tích Lưu biệt khi xuất dương dưới đây sẽ cung cấp cho các bạn nhiều gợi ý tham khảo hữu ích, giúp việc viết văn phân tích trở nên dễ dàng hơn.
TOP 17 bài văn phân tích Lưu biệt khi xuất dương là tài liệu hữu ích giúp cho các bạn học sinh lớp 11 tự học một cách hiệu quả, đặc biệt trong việc chuẩn bị bài tập ở nhà trước giờ học. Điều này giúp họ đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi giữa kỳ 2 môn Ngữ văn lớp 11 sắp tới. Dưới đây là nội dung chi tiết của tài liệu, mời các bạn đọc tham khảo.
Dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
1. Bắt đầu bài văn:
- Tóm lược về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu: Điểm qua cuộc đời hoạt động cách mạng và thành tựu văn chương của ông...
- Giới thiệu nội dung và nhấn mạnh tính quan trọng của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương: Bài thơ đó là biểu tượng cho tinh thần yêu nước của tác giả
2. Phần chính:
- Phân tích hai câu đầu (hai câu châm ngôn): Quan điểm về chí của Phan Bội Châu
+ Tác giả trình bày quan điểm mới: là phải có khát vọng, ước mơ làm nên điều phi thường: “yếu hi kì”, không ngừng cố gắng để thay đổi số phận.
⇒ Tư duy, một tinh thần cao đẹp về chí nam nhi cần tin vào khả năng và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm người.
- Hai câu thơ: Khẳng định ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với thời cuộc
+ Câu 3: “Tu hữu ngã” (phải có trong cuộc đời) → ý thức trách nhiệm của bản thân đối với thời đại, nhận thức rõ vai trò, ảnh hưởng của mỗi người đối với số phận dài lâu. Điều này đối lập với sự tự cao của cá nhân.
+ Câu 4: Tác giả đặt câu hỏi “cánh vô thùy” (có ai không?) ⇒ khẳng định quyết tâm cao cả hơn, khao khát sống đáng giá, phi thường, dùng hết tài năng trí tuệ phục vụ cuộc sống.
→ Ý thức sâu sắc về vai trò của mỗi cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng đảm nhiệm mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó.
- Hai câu châm ngôn: Quan niệm mới về nguyên tắc hành động của Phan Bội Châu trước tình hình của đất nước
+ Tình hình đất nước: “Đất đã bị thù địch chiếm đóng, non đã chết”
+ Quan niệm mới, trái ngược với các tín ngưỡng cũ: ý thức về danh dự và sự sống còn của quốc gia: “sống thêm mà vẫn nhục”
“Hiền thánh còn đâu ai không học mãi”
+ Người cách mạng nhận thức rằng sự sống còn của bản thân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của dân tộc ⇒ hành động mở cửa, luôn tiếp thu những tư tưởng mới, đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước chậm trễ, lạc hậu của các nhà Nho thời đó.
- Hai câu kết thúc: Tinh thần và khao khát trước khi bắt đầu hành trình
+ Tư thế ra đi của người anh hùng thật sự vẻ vang:
“Ước ao xua đuổi gió đông biển
Chinh phục vùng trời xa xăm nhất”
+ Sử dụng các hình ảnh tượng trưng ấn tượng: “gió đông biển” - biểu tượng của sức mạnh vô hạn; “vùng trời xa xăm” (đỉnh cao của không gian) ⇒ Tư thế mạnh mẽ, ước mơ vĩ đại với quyết tâm chinh phục mọi thách thức của người cách mạng.
⇒ Ý chí của con người đã trở nên mạnh mẽ hơn, không ngừng vượt ra khỏi giới hạn, tiên phong khám phá những điều mới mẻ.
III. Kết luận:
- Tóm lược về những đặc điểm nghệ thuật đặc biệt góp phần làm nên thành công của tác phẩm.
- Khẳng định lại ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm và liên kết với ý chí, khát vọng của con người trong thời đại hiện nay
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 1
Phan Bội Châu (1867-1940) là một biểu tượng trong lịch sử Việt Nam. Trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông được coi là một nhân vật vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã lãnh đạo nhiều phong trào giải phóng Tổ quốc trong suốt 25 năm đầu thế kỷ XX. Phan Bội Châu còn là người sáng lập Hội Duy Tân và phong trào Đông du, với mong muốn giải phóng dân tộc. Ông còn nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật, góp phần tôn vinh tình yêu quê hương. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu tốt nghiệp khoa Hương, Trường Nghệ. Năm 1904, ông thành lập Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông khởi xướng phong trào Đông du, nhằm cứu nước. Theo tư tưởng của Duy Tân Hội mà ông sáng lập, ông đã đi sang Nhật Bản để tìm cách giải cứu đất nước.
Hai câu này như là một tuyên ngôn về lý tưởng, về tinh thần sống cao quý:
“Sinh ra trong cuộc sống, ta phải có khát vọng làm nên điều kỳ diệu
Lời hứa không thể thay đổi tự do điều khiển bản thân'
Tự hào là người đàn ông, chúng ta phải sống để tạo ra điều mới mẻ và mong muốn thực hiện “những điều kỳ lạ” (thích hi kỳ). Tuyệt vời hơn, chúng ta không thể sống một cuộc sống tầm thường, phải sống một cách sáng tạo để thay đổi thế giới một cách ý nghĩa và phong phú hơn. Câu thơ này thể hiện một tư thế, một tâm trạng tuyệt vời về lòng dũng cảm của người đàn ông, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của bản thân muốn thực hiện những công việc lớn lao, thay đổi thế giới, như ông đã mô tả trong một bài thơ khác:
“Vươn tay ôm chặt bình an tinh thần
Mỉm cười tan tanh những căng thẳng oan trái”
Liên kết câu thơ với phong trào cách mạng sôi động của Phan Bội Châu, chúng ta mới thấy được những phẩm chất phi thường của các nhà tri thức lỗi lạc. Người đàn ông tự hào muốn thực hiện “những điều kỳ diệu” trên thế giới đã từng nảy sinh và sâu sắc theo một câu thơ cổ:
“Không có gì là không thể nếu có ý chí kiên định
Mạnh dạn bước vào thế giới của tri thức'
(“Tuỳ viên thi thoại” - Viên Mai)
Người đàn ông muốn thực hiện “những điều kỳ diệu” trên thế giới phải có một “trái tim nồng nhiệt”: “Dù tôi được trời ban cho một trái tim nồng nhiệt đến đâu, nhưng khi đọc những trang sách của cha tôi từ nhỏ, mỗi khi đọc đến những nơi mà người xưa đã nộp thuế để trở thành những người tôn giáo, nước mắt tôi luôn rơi xuống ướt sũng cả tờ giấy...
Trong phần thực tế, ý thơ được mở rộng, tác giả khẳng định vị thế của mình trong xã hội và trong lịch sử:
“Trải qua bao nhiêu trăm năm tôi vẫn ở đây
Xuất thân từ quá khứ, tương lai không có giới hạn'
“Tôi” ở đây là người dân: “trải qua bao nhiêu trăm năm, tôi vẫn tồn tại trong cuộc sống” (trong suốt thời gian). “Xuất thân từ quá khứ, tương lai không giới hạn” là lịch sử của quốc gia và dân tộc nhưng không có ai (ghi chép danh tính) cả? Hai câu thơ 3 và 4 tương phản nhau, sử dụng sự phủ định để làm nổi bật sự khẳng định. Đây là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò của cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng tuyệt vời này là sự tiếp nối của các tư tưởng lớn lao của nhiều nhà lãnh đạo trong lịch sử:
“… Dù cho thân này phơi ngoài nội cỏ, dù cho ngàn xác này gói trong da ngựa, tôi cũng sẵn lòng”.
“… Cuộc đời con người như một giọt nước trên bề mặt biển cả,
Thấm vào lòng đất mà lại không còn dấu vết”.
(Văn Thiên Tường)
Sử dụng “bách niên” - một đời người hữu hạn để diễn tả “thiên tải” - vô hạn của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo ra một tiếng thơ mạnh mẽ, hào hùng, thể hiện quyết tâm và khát vọng trên con đường cách mạng. Do đó, trong hành trình giải phóng dân tộc, vượt qua bao gian khổ và nguy hiểm, ông luôn kiên cường, bất khuất.
Phân tích Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 2
Phan Bội Châu được xem là một trong những anh hùng kiệt xuất có ảnh hưởng lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông chưa một lần biết đến niềm vui của chiến thắng, nhưng tình yêu đất nước, khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh của ông luôn là ngọn lửa thêm nhiệt huyết, đam mê cho nhiều thế hệ sau này. Và trước hết, thơ ca là phương tiện để ông bộc lộ điều ấy. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ như thế. Ra đời vào thời điểm, nhà thơ chuẩn bị lên đường sang Nhật để thực hiện một sứ mệnh cao cả, tác phẩm đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, hy vọng vào một sự nghiệp kinh bang tế thế thay đổi vận mệnh cho nước nhà:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Bài thơ mở đầu bằng một quan niệm rất quen thuộc của Nho giáo: chí làm trai.
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Nếu đặt trong dòng thơ trung đại, việc nhắc đến lý tưởng xã hội này là điều không lạ. Cả danh tướng thời Trần Phạm Ngũ Lão và sau này là bậc nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ đều đã từng nhắc đến điều này.
Công danh nam tử vẫn còn nhiều nợ,
Đầu óc nhỏ nhẹng nghe chuyện Vũ Hầu.
(Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
Đã gây tiếng vang khắp nơi,
Phải để lại dấu ấn với núi sông.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)
Cái chí của đấng nam nhi ở đây là sự công danh và danh vọng. Họ nhìn vào đó để tìm kiếm sự nghiệp, khẳng định bản thân trước mọi người. Tuy nhiên, cách Phan Bội Châu thể hiện cái chí trong bài thơ này đã tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Chí của người đàn ông trở nên kỳ vĩ, lớn lao hơn. Bởi vì nó được đặt trong một không gian đặc biệt, đó là vũ trụ. Nhìn từ không gian đó, đấng nam nhi còn có nhiều khát khao hơn là sự thành công và danh vọng. Chữ 'lạ' trong bản dịch thơ tuy xuất sắc nhưng chưa thể toát lên được ý nghĩa của từ 'kì' trong văn bản gốc. Làm trai phải lạ có nghĩa là làm được những việc kỳ lạ, kiệt xuất, phi thường. Muốn làm được điều đó, người quân tử phải được đặt trong một không gian không thể nào là trên đời, mà phải là càn khôn. Bởi vì 'đời' có vẻ rộng lớn nhưng thực ra lại hẹp hòi, chỉ là thế giới của con người, còn 'càn khôn' là vũ trụ bao la. Vì vậy, điều hay trong hai câu đầu là không gian đó, chỉ đến ở câu thứ hai, nó làm nổi bật hình ảnh một đấng nam nhi vĩ đại, hào kiệt dõng dạc hô vang ở câu đầu rằng phải làm một điều lạ. Có nghĩa là đấng nam tử không chỉ chờ đợi, thụ động, phó mặc cho tạo hóa, mà phải chủ động, dấn thân thay đổi cả càn khôn, trời đất, cải tạo cả vũ trụ, giang sơn. Mạnh mẽ hơn nữa là phải biết sống hiển hách, dám mơ ước những việc lớn, kinh thiên động địa, nếu đất nước lâm nguy thì ra tay cứu nước, thay đổi lịch sử. Cảm hứng sử thi, lãng mạn đã nâng tầm chí nam nhi lên một diện mạo mới. Hình ảnh đấng nam nhi mang tầm vóc vũ trụ đã mở đầu cho một khúc khải hoàn ca đầy hùng tráng, phi thường về ý chí và tinh thần yêu nước.
Hai câu đầu đã mở ra một không gian rộng lớn, đến hai câu tiếp theo lại đưa ra sự tối đa trong cuộc đời con người:
Trong khoảng trăm năm cần có ta,
Sau này muôn thuở, liệu có ai?
Trong quan niệm chung về đấng nam nhi, Phan Bội Châu đã thể hiện được ý thức cá nhân đầy sâu sắc của mình. Đến hai câu này, ý thức cá nhân đó trở nên rõ ràng hơn. Có thể hiểu rằng trong khoảng một trăm năm này, không thể thiếu được ta. Ta phải trở thành một nhân vật lịch sử, ta có sứ mệnh thay đổi càn khôn để thay đổi cả bộ mặt lịch sử của thế kỷ này. Ta đột nhiên trở nên vĩ đại giữa cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian như thế, vậy thì tại sao không tráng lệ, hùng tráng? Chữ 'ta' dịch khá thú vị, vừa có chút dí dỏm vừa khẳng định cái tôi mạnh mẽ. Ý thức cá nhân được nâng cao, mở rộng theo không gian và còn tiếp tục theo dài theo thời gian nâng tầm nhận thức cao cả về sứ mệnh của con người trước lịch sử. Cái tôi như thế thật lãng mạn và kiêu hùng!
Thay đổi càn khôn, làm chủ lịch sử dường như là quá lớn lao, nhưng cái phải lạ của anh hùng vẫn khiến mọi người bất ngờ hơn:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Trong bối cảnh của sự chuyển giao thời đại, dù có mới mẻ đến đâu cũng phải có sự thay đổi dần dần. Nhưng nhận thức của Phan Bội Châu lại khiến người ta thấy thật phi thường. Đúng non sông đã chết là cách nhân hóa rất chân thực cho hiện tại của nước nhà. Kẻ thù ngoại bang chiếm lấy chủ quyền thì coi như đất nước đã chết. Câu thơ uất nghẹn trước thực trạng đau thương của dân tộc. Nhưng cái mạnh mẽ của đấng nam nhi trước Tổ quốc như thế buộc phải nhận ra sống chỉ thêm nhục. Vì thế cái cần nhất, cái lý tưởng nhất của một thời hiền thánh giờ cũng chẳng còn ý nghĩa, có đọc sách cũng ngu thôi. Vậy là hai thứ quan trọng ấy mà còn tiếp tục sống, tiếp tục học thì chẳng khác nào đã để tự mình phó mặc cho số phận, để càn khôn nó tự chuyển dời, để tiếp tục sống một trăm năm đầy vô nghĩa. Có lẽ vậy mà, cuộc đời Phan Bội Châu tuy sống trọn vẹn trong cảnh đất nước lầm than, trải qua bao lần thất bại đau đớn nhưng ông vẫn cống hiến đầy hiển hách, vinh quang. Hai câu thơ đã chứng tỏ một sự chuyển mình của thời đại, nếu nói không quá lên, thật là vĩ đại. Nhận ra lẽ vinh nhục trong cảnh đất nước ấy là thường tình, nhưng dám chối bỏ, phủ định cả một nền học thức của một kẻ vốn xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình như cụ Phan, thì đó là một điều rất phi thường.
Vậy không thể sống như thế với thực tại, muốn mưu đồ việc xoay chuyển càn khôn phải tiến đến hành động. Và hành động ấy chỉ có thể là xuất dương.
Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu kết thật đẹp! Hình ảnh miêu tả có phần ước lệ tượng trưng tạo nên một cảnh biển trời, gió bão, sóng bạc thật hùng vĩ. Nó làm toát lên cái hùng tâm tráng trí của kẻ sĩ yêu nước cháy bỏng. Câu thơ cuối: thiên trùng bạch lãng nhất tề phi, bản dịch chưa làm toát lên được. Đúng hơn là biển mênh mông, gió bát ngát, sóng bạc muôn trùng và ý chí, khát vọng của con người cùng nhau hòa quện làm một mà nhất tề phi (cùng bay lên). Tâm thế ra đi cũng rộng lớn, tráng lệ như biển trời vậy. Có cái hào sảng, quyết tâm, mạnh mẽ, nhiệt huyết khi lên đường. Người ở lại – bạn bè bằng hữu, chắc chắn cảm nhận được khát vọng, lý tưởng trong hành động kiệt xuất của con người kiệt xuất ấy.
Bài thơ khép lại trong một niềm hân hoan, hứng khởi trào dâng mãnh liệt của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Sự kết hợp đầy mới mẻ giữa cách thể hiện đậm chất thơ văn trung đại với những tư tưởng nội dung đậm hơi thở của nhịp sống đương thời đã hình tượng hóa một cách lãng mạn và hào hùng của người chí sĩ yêu nước những năm đầu thế kỉ XX. Giọng thơ nhiệt huyết, lay động này đã tiếp thêm sức mạnh, đã thổi bùng khát khao cho biết bao kẻ sĩ thời ấy có mong muốn thực hiện chí lớn vì sự nghiệp dân tộc của mình.
Phân tích Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 3
Sau khi tham gia thành lập Duy tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương của tổ chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương tới Trung Quốc và Nhật Bản, mở đầu phong trào Đồng du, đặt cơ sớ đào tạo cốt cán cho cách mạng trong nước và cầu Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền ; ngọn lửa của phong trào Cần vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Thời cuộc thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phải có phương hướng, nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này còn tương đối trẻ (38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, vượt qua giáo lí đã lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận luồng tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra hướng đi mới cho sự nghiệp khôi phục giang sơn. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao hi vọng… Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí trước lúc lên đường. Về sau, trên Bình sự tạp chí (Hàng Châu, Trung Quốc) số 34 (2-1917), Phan Bội Châu cho đăng bài thơ này dưới nhàn đề Đông du kí trư đồng chí (Gửi các đồng chí khi Đông du) với một vài sửa đổi về câu chữ (so với bản được lưu hành trước đó).
Phan Bội Châu tuy văn tài lỗi lạc nhưng không bao giờ xem văn chương là cứu cánh của đời mình. Ông chỉ muốn dùng nó để xốc người đời (đặc biệt là tầng lớp thanh niên) đứng dậy làm cách mạng, cứu nước, cứu dân. Với định hướng này, sáng tác của ông có được một âm hưởng đầy kích thích, khiến người đọc không thể ngồi yên một khi đã được tiếp xúc với nó. Bài Lưu biệt khi xuất dương chính là một ví dụ điển hình.
Bài thơ được mở ra không phải với những tình cảm bịn rịn, nhớ nhung. Hiện lên lồ lộ là lí tưởng và hoài bão của một con người đang quyết xoay chuyển càn khôn, vũ trụ:
Trong cuộc đời, nam tử cần có chí lớn,
Quyết tâm làm chủ số mệnh tự thay đổi.
(Làm người cần có những việc phi thường trên đời,
Làm chủ số mệnh tự thay đổi càn khôn.)
Lưu biệt là để lại cho người đưa tiễn một cái gì đó như lời dặn dò hay bài thơ trước lúc rong ruổi đường xa. Ở đây, bản thân bài thơ là lời dặn dò, là tiếng nói khích lệ. Nhà thơ hiểu rằng hơn lúc nào hết, cả người ở lại lẫn người ra đi cần có một niềm tin, nếu chưa phải vào kết quả hành động thì cũng vào cái đúng của hành động mà mình đã lựa chọn. Quan niệm về chí làm trai của các nhà nho xưa đã được nhắc lại trên tinh thần này. Không thể nói điều được nhà thơ phát biểu ở hai câu thơ là hoàn toàn mới mẻ. Trước Phan Bội Châu, bao nhiêu con người ưu tú đã nói về chí làm trai với nhiệt tình cháy bỏng và với một hình thức ngôn từ rất gây ấn tượng. Ngay câu thơ thứ nhất của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng thoát thai từ hai câu chữ Hán mở đầu bài Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ: 'Thông minh nhất nam tử — Yếu vi thiên hạ kì' (Một người trai thông minh ắt phải làm được những việc khiến thiên hạ phải thấy kì lạ). Vậy vấn đề ở đây không phải là xét tính độc đáo của tư tưởng mà là xét mục đích của việc phát biểu tư tưởng trong một hoàn cảnh cụ thể. Nêu lên tín niệm của các trang nam tử muôn đời, thực chất Phan Bội Châu đang muốn nhắc nhở, cật vấn chính bản thân: lẽ nào để trời đất tự xoay vần tới đâu thì tới, còn mình là kẻ đứng ngoài, vô can? Là câu hỏi nhưng cũng là một lời đáp. Tính hai mặt này của lời thơ đã ngay từ đầu tạo được cho thi phẩm một không khí dồn nén và thúc giục rất rõ rệt. Từng chữ, từng lời cứ bện chặt lấy tâm trí người đọc, khiến họ không thể lảng tránh vấn đề đã được nhà thơ đặt ra một cách tâm huyết.
Hai câu tiếp theo của bài thơ vẫn đi theo mạch đó:
Trong hàng trăm năm tồn tại, ta phải có chí lớn,
Mang theo hoài bão, đồng thời mạnh mẽ bước vào tương lai.
(Trong cuộc đời khoảng trăm năm cần có một người như tớ,
Sau này, liệu có ai làm được như vậy không?)
Câu trước không chỉ xác nhận sự hiện diện của một nhân vật trữ tình giữa cuộc đời mà còn chứa đựng một tâm niệm sâu sắc: ta không phải là sự kiện ngẫu nhiên, vô ích, và vì thế, ta cần phải thực hiện một điều gì đó có ý nghĩa trong cuộc sống. Câu sau có thể hiểu là: Ngàn năm sau liệu có ai không tiếp tục công việc của người trước không? Hai câu này đã thể hiện rõ tâm trạng của nhà thơ: nhận thức về trách nhiệm và ý chí quyết tâm. Hơn nữa, nhận thấy rằng lịch sử là một dòng chảy liên tục, nhiều thế hệ đã và đang góp phần, nhà thơ cảm thấy tự tin vào bản thân và vào tương lai. Tư duy và tính cách của nhà thơ được thể hiện qua đó. Việc sử dụng từ 'tớ' thay vì 'ta' trong bản dịch (nguyên tác là 'ngã') cũng rõ ràng: Phan Bội Châu không phải là người tự ái. Ông phát biểu thay mặt cho những người đàn ông, những người yêu nước nói chung trong cuộc đời của mình!
Bốn câu đầu của bài thơ nói về tinh thần thông thường của đấng nam nhi, mặc dù chúng thể hiện tâm trạng bức xúc của tác giả. Hai câu sau, nỗi bức xúc được biểu hiện rõ hơn, khi nhà thơ mô tả tình trạng khốn khó của đời sống vào thời điểm đó:
Đất nước hi sinh vì một số lượng đồ nhuế,
Người hiền thánh biến mất, chỉ còn lại sự bất lực!
(Non sông đã chết, còn nhục thêm,
Hiền thánh ở đâu, học cũng vô ích!)
Thật đau lòng khi nhìn thấy đất nước chìm trong biển người. Đau lòng cho sự suy tàn của văn hóa dân tộc. Đau lòng cho sự phí hoài của kiến thức, một khi mà cái học đã không còn giá trị, không còn ý nghĩa...
Phan Bội Châu, dưới tác động của sách báo phương Tây, không hoàn toàn bác bỏ triết lý Nho giáo, nhưng không còn tôn trọng nó như trước. Điều gì không hữu ích cho việc cứu vãn dân tộc thì ông dứt khoát từ bỏ. Điều này có thể được coi là cách ông nhìn nhận mọi vấn đề xã hội và đánh giá hành vi của các quý ông vào thời điểm đó.
Nguyễn Khuyến từng than rằng: 'Sách vở còn gì hữu ích trong thời kỳ hiểm nguy - Áo xiêm khi nhớ lại càng thêm xấu hổ tuổi già' (Nhắc nhở con cháu vào mùa xuân). Câu thơ đầy tâm trạng, chứa đựng sự hối hận và sự nghi ngờ về giá trị của kiến thức từ việc học viết và đọc trong bối cảnh đất nước rơi vào tay địch (mà nhà thơ gọi là thời kỳ loạn). Với Phan Bội Châu, thái độ của ông không chỉ là nghi ngờ. Tình hình của đất nước vào thời điểm ông rời đi đã thay đổi nhiều, và với tính cách mạnh mẽ, nhiệt huyết của một người thầy, ông đã sử dụng những từ ngữ đầy cảm xúc, phủ định mạnh mẽ: tử hĩ (chết rồi), nhuế (thừa), si (ngu). Có thể nói rằng với cách sử dụng từ ngữ mạnh mẽ như vậy, thơ của ông có thể tác động sâu sắc đến độc giả. Đằng sau sự hấp dẫn của cách diễn đạt là sự hấp dẫn của tâm hồn con người! Những từ nhục, hoài trong bản dịch thơ không thể truyền tải được toàn bộ sức mạnh của các từ nhuế, si trong nguyên tác.
Phải hành động, phải hành động – lời giục giã tự nhiên hiện ra từ dòng thơ. Hai câu cuối như một cơn gió mạnh, giúp nhà thơ thoát khỏi những tâm trạng buồn bã, tiếc nuối, đau khổ. Việc kỳ lạ mà nhân vật trữ tình đang nung nấu bắt đầu từ đây có phải không:
Mong muốn làm sạch lòng người, quay trở về với truyền thống,
Đẩy lùi sự bao la, phiên bản hoàn thiện nhất của trời cao.
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Ngàn trùng sóng bạc chào xuống biển)
Những ai hiểu biết về phong trào Đông Du chắc chắn sẽ nhận ra tính tự nhiên, logic của việc nhà thơ liên tưởng đến biển Đông cùng hình ảnh của thiên trùng bạch lãng. Nhật Bản - niềm hy vọng mới của những người yêu nước như Phan Bội Châu - nằm ở phía đông, giữa biển khơi, xa xôi hàng ngàn dặm. Do đó, việc sang Nhật cũng có nghĩa là vượt biển. Tuy nhiên, trong hai câu thơ, hình ảnh chủ yếu mang tính biểu tượng. Câu thơ dịch không hoàn toàn trung thành với ý nghĩa gốc, đã biến một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt thành sự miêu tả - mô tả hiện thực, do đó, chưa truyền đạt được sự hùng vĩ, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ. Tâm trạng và tư thế của nhân vật lúc này là muốn tham gia vào một lĩnh vực hoạt động mới mẻ, sôi động; bay lên làm sóng lớn trên biển cả hoặc bay cùng những đợt sóng dữ sôi nổi vừa hiện hữu trong tâm trí.
Trong bài thơ, có rất nhiều từ, cụm từ chỉ về không gian, thời gian lớn cùng với một số hình ảnh kỳ diệu để miêu tả bối cảnh vũ trụ: càn khôn, giang sơn, hách niên trung, thiên tải hậu, biển Đông, trường phong, thiên trùng bạch lãng,… Nhớ lại các bài như Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, Nỗi lòng của Đặng Dung, Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu,… ta thấy đây là bối cảnh khá đặc trưng của thơ phản ánh tinh thần thời Trung Đại. Như vậy, bối cảnh vũ trụ không phải là hiện tượng lạ lẫm trong một số bài thơ cụ thể, bởi vì trong thơ cổ, con người chủ yếu không phải là con người cá nhân mà là con người vũ trụ. Tuy nhiên, đối với trường hợp của bài Lưu biệt khi xuất dương, vẫn có thể nói rằng bối cảnh này giúp làm nổi bật các phẩm chất riêng biệt của nhân vật: tự tin, sẵn sàng giao tiếp với trời đất, lịch sử; ý thức rõ về danh dự, sự nhục nhã trong cuộc sống; khao khát khẳng định bản thân trong việc hy sinh cho đất nước, dân tộc,… Tóm lại, bối cảnh này giúp làm nổi bật cái tinh thần 'vá trời lấp biển' của nhà thơ.
Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ từ biệt nhưng cũng là bài thơ mời gọi ra đi. Đây hoàn toàn là phản ánh đúng tầm vóc của một con người được cả dân tộc trông đợi và tin tưởng vào thời điểm lịch sử đó.
Phân tích Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 4
Trong văn học Việt Nam, có những nhà thơ cũng là những nhà chính trị tài ba, những anh hùng cứu nước. Nếu như chúng ta biết đến Hồ Chí Minh, một người không bao giờ tự xưng là nhà thơ nhà văn nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng lại có những bài thơ hay, Tố Hữu cũng là một nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ đấu tranh cách mạng, thì ta cũng không thể không nhắc đến Phan Bội Châu. Ông là một nhà cách mạng, hy sinh hết mình cho sự nghiệp cứu nước. Cũng giống như Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu cũng có những sáng tác văn học đáng kể. Trong số những tác phẩm của ông, phải kể đến bài thơ Xuất dương lưu biệt.
Bài thơ này được sáng tác vào cuối thế kỉ XIX, thời điểm phong trào Cần Vương thất bại, thực dân Pháp chiếm toàn bộ Đông Dương. Tình hình chính trị của đất nước rất hỗn loạn. Năm 1905, sau khi thành lập hội Duy Tân, hội đã quyết định Phan Bội Châu ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Trong bữa cơm chia tay anh em đồng chí trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã viết bài thơ này để thay lời chia tay họ. Bài thơ thể hiện rất rõ ý chí của một người lính và ý chí của một người cách mạng.
Hai câu thơ đầu tiên rất rõ ý chí của Phan Bội Châu cũng như của thời kỳ phong kiến nói chung:
“Sinh ra làm người nam nhi yếu đuối,
Khẳng định sẽ làm nên lịch sử cất cao.”
(Làm người phải kiên cường trên cuộc đời
Há để làm nên lịch sử một cách vĩ đại)
Khi nói đến chí làm trai, chúng ta không thể không nhớ đến những quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ và Phạm Ngũ Lão:
“Chí làm trai nam bắc tây đông
Để phỉ chí trở thành anh hùng trong bốn phương”
Hoặc
“Công danh của người đàn ông vẫn còn vương nợ
Lắng tai nghe lời thuyết của Vũ hầu”
Và Phan Bội Châu tiếp tục nêu bật quan niệm về chí làm trai trong thời phong kiến. Tuy nhiên, trước sự ảnh hưởng của thời đại, nhà thơ đã kế thừa những quan niệm truyền thống từ tiền bối và đề xuất những quan điểm mới về chí làm trai của mình. Theo ông, làm người đàn ông đích thực phải làm những việc phi thường, hiển hách, đầy oai phong. Họ phải dám thực hiện những việc vượt qua khả năng của bản thân, thay vì ngồi im và chờ đợi cuộc sống thay đổi mình. Điều đó chính là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt của những người trẻ trung, nhiệt huyết với cuộc sống. Sự cảm hứng này gần gũi với triết lý nhân sinh của Nho giáo, nhưng cũng đồng thời mang đậm nét táo bạo, mới mẻ hơn. Mặc dù con người phải tuân theo sự xoay chuyển của thời gian và không gian, nhưng tác giả ở đây không chấp nhận rằng càn khôn tự mình xoay chuyển. Điều này là biểu hiện của lý tưởng sống của một con người mạnh mẽ, kiên định.
Hai câu thơ tiếp tục làm rõ chí làm trai của Phan Bội Châu. Mỗi lời một ý, càng đọc càng thấy ông là một anh hùng tài năng và đầy khí phách:
“Trong khoảng thời gian trăm năm, cần phải có tớ
Sau này, liệu có ai thay thế được tớ không?”
Khoảng thời gian trăm năm tương đương với một đời người, tác giả khẳng định trong khoảng thời gian đó cần có một tác giả. Đời người, hoặc cụ thể là thời điểm đó, cần một anh hùng mang chí làm trai mạnh mẽ và táo bạo như nhà thơ. Ở đây, chúng ta thấy sự hiện diện của cái tôi cá nhân. Mặc dù cái tôi đó nhỏ bé, nhưng lại mang trong mình ý thức cá nhân của một công dân, với trách nhiệm đối với đất nước. Đây hoàn toàn không phải là cái tôi kiêu căng và tự mãn. Cái tôi đó được nhà thơ gọi là “tớ”, thể hiện sự gần gũi. Trong khoảng thời gian đó, một người đàn ông phải sống không chỉ để tận hưởng những niềm vui của cuộc sống mà còn để hiến dâng tài trí của mình cho đất nước. Nếu có nhà thơ hiện tại, liệu sau này có ai thay thế được anh ta không? Như vậy, nhà thơ như đang khẳng định rằng, trong mỗi thời kỳ của đất nước, đều có những anh hùng thực sự. Tác giả cũng thể hiện được sự tự hào về bản thân. Câu thơ có hình thức là một câu hỏi nhưng ý nghĩa thực sự của nó là thúc đẩy ý chí làm những điều lớn lao, hy sinh hết mình cho tổ quốc thân yêu.
Chí làm trai không chỉ liên quan đến vận mệnh của đất nước mà còn thể hiện rõ sự vinh nhục:
“Núi sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học mãi vẫn hoài”
Những cảnh về đất nước bị giặc xâm lược, dân tộc chịu ách thống trị, sống trong nỗi cực khổ và bóc lột đang diễn ra. Với một bậc trượng phu, sống trong tình hình khó khăn đó, cũng giống như sống chết. Phan Bội Châu đã đề xuất việc bỏ sách thánh hiền. Đó là một ý tưởng táo bạo nhưng tiến bộ. Đối với nhà thơ, trong tình cảnh hiện tại, việc tuân theo các quy định của sách thánh không còn phù hợp nữa. Theo ông, sách thánh không giúp ích gì cho tình hình quốc gia tan nát. Nếu vẫn cố giữ sách thánh, đó chỉ là sự ngu ngốc. Tuy nhiên, ông không phủ nhận hết tất cả các lợi ích của sách thánh, nếu làm như vậy cũng không khác gì ông cha ta ngày xưa khi đọc sách đó. Ông muốn khẳng định rằng, đọc sách thánh không có tác dụng và không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của đất nước.
Từ các ý niệm về chí làm trai khi sống như một bậc trượng phu, cùng với sự phát triển phức tạp của lịch sử, Phan Bội Châu thể hiện mong muốn và nguyện vọng của mình:
“Muốn vượt qua biển Đông bằng cánh gió,
Đám sóng bạc vỗ về làn sóng khơi.”
Hình ảnh “vượt qua biển Đông bằng cánh gió” và “vỗ về làn sóng khơi” là hai hình ảnh đầy hào hoa và lãng mạn, thể hiện khát vọng cao đẹp và mãnh liệt của nhà thơ. Phan Bội Châu muốn vượt lên cái tăm tối của hiện thực đất nước, quyết tâm bước vào một hành trình lớn để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự sống và vinh quang của chí làm trai. Nhà thơ muốn vượt qua biển Đông bằng cánh gió, là cánh gió đó sẽ đưa ông đến những vùng đất văn minh, nơi ông sẽ học và mang lại những gì ông học được để cứu nước. Cái sóng bạc vỗ về như mời gọi chân người anh hùng đi làm những việc lớn lao.
Tóm lại, toàn bộ bài thơ là một quan điểm về chí làm trai của Phan Bội Châu. Đối với ông, chí làm trai đó phải làm những điều hiển hách được ghi tên trong bảng vàng lưu danh muôn đời. Vận mệnh của chí làm trai liên quan chặt chẽ đến vận mệnh của đất nước. Với sự trang trọng và hùng vĩ, cùng với việc sử dụng ngôn từ lôi cuốn, bài thơ hiện lên như một bản ca hùng biện về chí làm trai. Nó dường như là nguồn động viên cho Phan Bội Châu trên con đường cứu nước.
Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 5
Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức sử dụng văn chương để tuyên truyền, vận động cách mạng. Ông cũng là người đầu tiên mở đầu cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' là một ví dụ điển hình.
Bài thơ này được viết trong buổi cơm Tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay bạn bè, đồng chí trước khi lên đường sang Nhật Bản vào năm 1905. 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ và trách nhiệm của tác giả, thể hiện sự hăm hở và quyết tâm cao độ trong lúc chuẩn bị rời bỏ quê hương để 'mưu sự phục quốc'.
Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa, nhưng được coi trọng đặc biệt ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có danh vọng, có sự nghiệp thì mới xứng đáng được gọi là trai. Đúng như trong bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão, ông đã viết:
'Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu'
Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
'Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể'
Muốn trở thành một bậc nam nhi được mọi người công nhận, cần phải phấn đấu, ghi danh công danh, sự nghiệp, có danh vọng, có sức mạnh để 'vẫy vùng' khắp bốn bể, để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng đó của Nho giáo, Phan Bội Châu đã trình bày quan điểm về chí làm trai một cách rõ ràng như một tuyên ngôn đầy khí thế:
'Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di'
Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải 'lạ', có nghĩa là phải sống khác biệt so với mọi người, không giống ai để tạo ra điểm khác biệt. 'Lạ' cũng có nghĩa là làm những điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, không nản lòng để mặc hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đương đầu với càn khôn, với đất trời, với vũ trụ để khẳng định bản thân, phấn đấu để đạt được ước mơ về công danh. Phan Bội Châu nuôi dưỡng khát vọng xoay chuyển càn khôn, chứ không để 'càn khôn tự chuyển dời'. Ông không đầu hàng, không khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám mạnh mẽ và thách thức với trời đất.
Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:
'Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy'
Trong cuộc đời có giới hạn bách niên, Phan Bội Châu muốn hiến dâng bản thân cho đất nước, để làm nên những công trạng vĩ đại, lưu danh mãi mãi vào lịch sử ngàn năm. Tác giả đã tự mình khẳng định, đây là cái tôi trách nhiệm, tích cực, không phải là cái tôi ích kỷ chỉ nghĩ cho lợi ích cá nhân. Trong hai câu thơ, sự đối lập hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu sử dụng sự phủ định để làm nổi bật điều ông muốn khẳng định. Ông muốn thực hiện những điều phi thường, để lưu danh tên tuổi của mình trong lịch sử, không để đứng sau chí làm trai mà mình đã lựa chọn làm lí tưởng sống. Hiến dâng cho cuộc sống không chỉ là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm của một bậc trượng phu. Trong cuộc đời có giới hạn bách niên ấy, nam nhi phải thực hiện chí làm trai và để lại dấu ấn cho cuộc đời ngàn sau. Hai câu thơ như một lời kêu gọi, khích lệ tinh thần hy sinh cho nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trẻ trung phải dốc hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.
Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu bật trách nhiệm của người nam nhi đối với vận mệnh dân tộc:
'Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si'
Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta chỉ sống để chịu nhục nhã, đau đớn. Sách vở, kiến thức trở nên vô ích khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông nhận thức được tầm quan trọng của thời kỳ đó. Sách vở không có ý nghĩa gì khi đất nước mất nơi ẩn nấp. Quan trọng nhất lúc đó là tìm ra con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng hy vọng rằng phong trào Đông Du do mình lãnh đạo sẽ đạt được nhiều thành công, giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc.
Phân tích Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 6
Phan Bội Châu là nhà yêu nước, anh hùng giải phóng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử hiện đại Việt Nam, Phan Bội Châu là người khởi xướng các phong trào giải phóng Tổ quốc trong những năm đầu thế kỉ XX như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi của ông cũng trở nên nổi tiếng với nhiều bài thơ, cuốn sách, bài văn tế… Phan Bội Châu luôn mang trong mình lý tưởng, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dân chủ tiến bộ.
“Lưu biệt khi xuất dương” được viết bằng chữ Hán, thể thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của thế kỉ XX: táo bạo, nhiệt huyết lý tưởng giải phóng dân tộc luôn nổi bật. Ông đã cho người đọc thấy được không khí cách mạng sôi động giai đoạn đầu thế kỉ XX của những người yêu nước và tiến bộ của nước nhà.
Mở đầu bài thơ như là một tuyên ngôn lý tưởng:
“Nam tử sinh ra trên đời không thể bình thường,
Cam kết làm chủ động số phận của mình.”
Sống trong cuộc đời này, người nam tử không thể chỉ sống một cách tầm thường, không thể để số phận mình bị chi phối, 'tự chuyển dời' như ý muốn của trời đất. Câu thơ mở đầu đã phản ánh tư thế, ý chí mạnh mẽ của những người cách mạng, mong muốn góp phần làm nên sự nghiệp lớn, thay đổi số phận, xoay chuyển thế giới.
Tiếp theo, tác giả khẳng định:
“Trong suốt cuộc đời, chúng ta phải tự xây dựng,
Chúng ta phải tự quyết định vận mệnh của mình.”
Tác giả đã mạnh mẽ và tự tin khẳng định về sức mạnh của con người trước số phận. Việc tôn vinh cái Tôi của nhà thơ chính là khẳng định trách nhiệm của thanh niên yêu nước đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ này cũng làm cho nhiều người tỉnh ngộ và khơi gợi tinh thần đấu tranh. Tác giả Phan Bội Châu như muốn kêu gọi sự đấu tranh của những người yêu nước.
Các đoạn thơ đầu tiên tác giả đã khẳng định ý chí cao cả của người nam nhi, đoạn sau nói về trách nhiệm của họ:
'Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.'
Khi đất nước bị xâm lăng, non sông đã chết, chúng ta sống chỉ để gánh thêm sự nhục nhã, đau khổ. Trong bối cảnh đất nước mất mát, những người học trí thức dù vùi mình vào việc nghiên cứu lịch sử cũng trở nên vô nghĩa. Trong giai đoạn như vậy, ước mơ đi tìm con đường cứu nước là lí tưởng của thời đại. Câu thơ trên không chỉ khuyên người ta phải sống hòa mình với thực tại mà còn thể hiện nỗi đau của tác giả khi đất nước tan tác, nhân dân gục ngã, đạo đức xã hội sa sút khiến mọi người nhận ra trách nhiệm của mình đối với dân tộc và cảm thấy nỗi đau đó.
Phần kết của bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện quyết tâm và hi vọng lớn lao của tác giả trên con đường mà ông đã chọn:
'Nguyện xông pha trường phù Đông hải,
Thắng trùng bạch lãng một thế giới mới.'
Giọng thơ đầy sức sống, tràn đầy hy vọng và quyết tâm sang Nhật tìm con đường cứu nước. Hình ảnh kết thúc bài thơ mạnh mẽ, hào hùng, thể hiện sức mạnh của con người đương thời. Hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.
Bài thơ toát lên tinh thần hào hùng, từ ngữ cuốn hút, đó là một bài ca hào hùng về chí trai đầy quyết tâm đưa mình vào sự nghiệp cứu nước. Bài thơ mãi là tấm gương mà mọi người luôn ngưỡng mộ.
Phân tích 'Lưu biệt khi xuất dương' - Mẫu 7
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, luôn có ý chí sôi nổi tìm kiếm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
Mặc dù là một nhà văn tài năng, nhưng ông không xem văn chương là sự nghiệp của mình, ông chỉ muốn sử dụng nó để kêu gọi cho cách mạng, cho dân tộc đang chịu đựng sự đói khổ, khốn cùng, để những người trẻ yêu nước đứng lên làm cách mạng cứu nước, cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905) mà ông sáng tác trước khi lên đường sang Nhật. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển, nhưng tinh thần và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao quý, đồng thời là một bài học về đạo đức con người, một bài hát hùng tráng về tinh thần chí nam nhi của nhân vật trữ tình, với vẻ đẹp lãng mạn và hào hứng.
Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy, Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là những lời chia tay, nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại, mà đó là những câu thơ mang lí tưởng hoài bão của con người sôi nổi ý chí muốn làm chủ vũ trụ, muốn xoay chuyển càn khôn đất trời:
“Làm trai phải sống lạ trên đời
Có để càn khôn tự chuyển dời”
(Sinh làm trai yếu hi kỳ
Kéo khẳng hứa càn khôn tự di chuyển)
Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải chủ động trước hoàn cảnh. 'Làm trai' là khẳng định chí khí của thanh niên, sống là phải “lạ”, làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời, đem lại cho đất nước cuộc sống ấm no, không thể sống tầm thường ích kỉ, chỉ cảm thụ cuộc sống riêng mình. Trước đó, Phan Bội Châu đã có nhiều người ưu tú nói về chí làm trai với lòng nhiệt thành cháy bỏng – “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ).Song, hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc cho trời đất tự chuyển dời, tới đâu thì tới, còn “chúng ta” là kẻ đứng ngoài không phận sự hay sao? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bản lĩnh, sẵn sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan Bội Châu. Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở có ai thế?”
Nhân vật trữ tình ý thức được trách nhiệm của mình trước đồng bào, trước vũ trụ bao la. “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lòng phục vụ cách mạng, phục vụ những lý tưởng cao đẹp, mang lại hòa bình cho đồng bào. “Trăm năm” ẩn dụ cho một đời người, một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác. Cái tôi của tác giả mang đầy trách nhiệm, “tớ” hiện diện hôm nay phải làm được một điều gì đó ý nghĩa cho đời, “tớ” thấy việc không thể không làm, không thể trông chờ ai khác. Cái tôi về trách nhiệm đó lại cho ta thấy được lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt của nhiều thế hệ. “Sau này muôn thuở có ai thế?” - câu thơ đặt ra cho ông cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà. Tuy nhiên, ông cũng đặt một niềm tin vào thế hệ sau của dân tộc sẽ làm nên điều kỳ diệu, sẽ tạo ra non sông này ngàn đời tươi đẹp. Giọng thơ đích thực hào hùng mang niềm tin của nhân vật trữ tình, đồng thời khẳng định vai trò của bản thân ông, thúc đẩy những người yêu nước lên đường.
Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục được nhân vật trữ tình thể hiện trong hai câu tiếp theo:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Câu thơ mang nỗi đau đớn, xót xa của tác giả. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm lấn, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hoặc bài xích về học vấn đạo đức hiền lành mà chỉ có ý khuyên con người phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Với nghệ thuật đối lập được ông sử dụng một cách tài tình - liên kết sự sống chết, công danh cá nhân với sự mất còn, vinh nhục của đất nước. Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn – sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc - lại mang khí phách hào hùng của nhân vật nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khỏi kiếp sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ông.
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành. Tư thế hăm hở, mang lòng quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước, nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn, day dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối, rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi. Những “cánh gió” “sóng bạc” mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió, thăng trầm phía trước. Nhưng những hình ảnh này lại được ông khắc họa bằng giọng thơ hào hùng, bay bỗng. Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt động mới, ;bay lên quẫy sóng đại dương, bay lên cùng những đợt sóng trào sôi thoáng hiện trong tâm trí ông. Ông không xem đó là những cản trở, những vật cản trên con đường sự nghiệp cách mạng của mình, mà trái lại ông xem chúng như bạn đồng hành, là đối tượng để mình đua sức đua tài. Nhiệt huyết cứu nước đã lấn át nỗi lo âu trong ông. Tâm thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn đầy sức mạnh. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tâm thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn. Bài thơ là cuộc chia tay từ biệt nhưng cũng là tiếng hô gọi, là bàn tay vẫy gọi những lý tưởng cách mạng mới, những con người yêu nước của thế hệ thanh niên tràn đầy nhiệt huyết và phía xa xa kia là cánh cửa cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng. Những hình ảnh kỳ vĩ về vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của người lên đường – chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
..................
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương