Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều của Vũ Quốc Trân tuyển chọn dàn ý chi tiết kèm theo 2 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá bài thơ ngày một tốt hơn.
Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều giúp chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Vậy sau đây là 2 bài văn mẫu phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều mời các bạn theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11 Chân trời sáng tạo.
Dàn ý phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
a, Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
b, Thân bài
- Hoàn cảnh của Tú Uyên và giây phút gặp được người trong mộng
- Nỗi nhớ ngày càng da diết, ngày đêm ôm mộng tương tư. Khi gặp bức tranh giống hệt với người thiếu nữ mình từng gặp, chàng mua về ngày ngày bầu bạn.
- Điều bất thường xảy ra khi chàng đi học về thì đã thấy cơm canh bày sẵn.
- Chàng quyết định theo dõi một phen thì bắt gặp người thiếu nữ bước ra từ trong tranh.
- Trò chuyện giữa chàng và nàng và sự định mệnh của họ.
- Cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn của đôi uyên ương.
c, Kết luận
Xác nhận giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.
Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Bích Câu kì ngộ vẫn được coi là một tác phẩm thuần Việt hấp dẫn với người đọc nhờ vào bối cảnh lịch sử Thăng Long cổ và mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều. Trong đoạn trích, Tú Uyên gặp Giáng Kiều tạo nên một câu chuyện tình yêu lãng mạn và đầy cảm xúc.
Tác phẩm mang tên Bích Câu kì ngộ dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Cuộc gặp gỡ kỳ lạ tại Bích Câu. Bích Câu là một địa điểm lịch sử nổi tiếng ở Thăng Long, thường được các vị vua ghé thăm. Tú Uyên, một thư sinh nghèo, cũng đến Thăng Long để học tập. Một ngày, khi thăm chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên tình cờ gặp Giáng Kiều và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của cô gái. Sau đó, khi mua tranh tại một tiệm tranh, Tú Uyên nhận ra rằng bức tranh đó giống hệt Giáng Kiều. Từ đó, Tú Uyên ngày đêm mải mê ngắm nhìn bức tranh và nhớ về Giáng Kiều:
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Khởi đầu đoạn trích là cảnh tượng đẹp và lãng mạn ở bên hồ, nơi Tú Uyên đọc sách và nhớ về người yêu. Từ “Sớm khuya” cho thấy thời gian liên tục. Tú Uyên ngày càng nhớ Giáng Kiều đến mức quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ tập trung ngắm nhìn bức tranh. Sự tương tư của Tú Uyên được thể hiện qua hành động của anh:
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình
Dùng cặp từ “gần” - “xa” kết hợp với “tưởng” và “nghĩ” thể hiện sự đắn đo, lo lắng của Tú Uyên trong tâm trạng nhớ nhung. Dù đã tìm thấy sự thoải mái khi ngắm tranh, nhưng càng nhìn, anh càng nhớ đến người trong tranh. Hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” vẽ nên một bức tranh tự nhiên tĩnh lặng, đẹp đẽ. Dưới ánh trăng mùa thu nhẹ nhàng, màn sương mỏng che phủ như bạc, lá vàng rơi rụng trên sân. Thiên nhiên phản ánh tâm trạng của con người. Buổi chiều thường gắn liền với nỗi nhớ trong văn học, như một ca dao truyền thống đã nói:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
Đối với Tú Uyên, chiều thu là thời khắc nhớ nhung và thương tiếc. Chàng đã đắm chìm trong sự mê muội của hình ảnh nàng, để tâm hồn trôi theo dòng sông Tương. Sông Tương trong thơ là biểu tượng của nỗi nhớ, ký ức:
Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ
Hướng về thiên nhiên, Tú Uyên thấy sự thương nhớ và hy vọng trong lòng càng sâu sắc hơn, anh quay về trò chuyện với chính mình và tâm sự với bức tranh:
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cầu khẩn, khát khao giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Anh chàng mở lòng về hoàn cảnh cá nhân và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” - “đêm” đi kèm với “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ không ngừng nghỉ, luôn xoay sở trong tâm trí anh. “đã chồn” biểu hiện sự mệt mỏi, Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ như một lời than thở, trách móc rất cảm động. Tú Uyên trách thiếu nữ tại sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ người kia vừa chỉ chính bản thân, đồng thời là hai đầu nỗi nhớ
Tình yêu luôn có sức mạnh kỳ diệu, khiến con người sẵn lòng hy sinh tất cả để giữ lấy. Tú Uyên cũng như vậy, anh đã sẵn sàng đổi “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.
Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.
Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.
Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.
Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức cao độ về danh dự của mình:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!
Tác giả đã sử dụng hình ảnh câu chuyện cổ tích về vua Hán Vũ Đế để diễn đạt tình cảm của công chúa, ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, người nào bắt được quả cầu thì sẽ được lấy làm vợ để thể hiện tình yêu của Giáng Kiều đối với Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” xuất hiện liền nhau trong bài thơ, thể hiện sự nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trong sáng của mình hoàn toàn khác biệt với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Sự đối lập giữa “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) - “lửa hương” (mặn nồng) trong cùng một câu thơ càng làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần của cô gái và lòng chung thủy trong tình yêu. Những hình ảnh từ câu chuyện cổ tích như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.
Giáng Kiều đã đến với “tiền nhân” - duyên nợ từ kiếp trước để giải thích lý do nàng xuống trần. Từ sâu trong lòng, Giáng Kiều đã thực sự xem Tú Uyên như “bạn tri kỷ”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ lâu nay dễ bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.
Sau cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là bức tranh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, biến khung cảnh xung quanh thành:
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Theo sau cuộc gặp, cuộc trò chuyện giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là hình ảnh hạnh phúc của đôi lứa. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, biến khung cảnh xung quanh thành:
Chỉ trong nháy mắt, lều cỏ biến thành lâu đài. Ánh dương bao phủ rực rỡ, chiếu sáng một góc trời. Người vào người ra hối hả, ai cũng lịch lãm, thanh tao. Cụm từ như “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” diễn tả tâm trạng vui vẻ, say sưa trong men rượu của quan khách và chủ nhà.
Về phần đoạn trích này, nó thể hiện nỗi nhớ của Tú Uyên về Kiều, cuộc gặp gỡ của hai người yêu nhau là biểu hiện của khát khao hạnh phúc và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Hình thức thơ lục bát truyền thống của dân tộc, việc sử dụng các từ ngữ giàu tính biểu đạt, các hình ảnh thiên nhiên tượng trưng đã làm nên thành công của tác phẩm.
Phân tích về cuộc gặp gỡ giữa Tú Uyên và Giáng Kiều
“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là một trong những tác phẩm Nôm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Truyện kể về Trần tú Quyên, một thư sinh, gặp được Giáng Kiều ở đất Bích Câu và họ cùng nhau thắt sợi tơ duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên gặp dáng kiều” mô tả hoàn cảnh đưa đẩy hai người gặp nhau và hợp duyên.
Câu thơ đầu tiên giúp người đọc cảm nhận được hoàn cảnh khó khăn của Trần Tú Uyên, một thư sinh.
Mưa hoa khép cánh bên hồ
Cuộc đời chàng gặp nhiều sóng gió khi cha mẹ sớm mất, chàng sống cô đơn trong căn nhà giữa hồ Bích Cầu, dành thời gian ngày đêm đọc sách. Trong một lần đi dạo xuân, chàng gặp một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giữa làng, chàng luôn theo dõi nhưng rồi nàng biến mất không rõ lý do. Từ đó, chàng ôm nỗi nhớ trong lòng ngày đêm.
Sớm khuya với bức họa đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới trăng, rượu mời trước hoa
...
Chứng tỏ tình cảm chân thành
Chưa dễ gì qua được vòng tình ái!
Tác giả mô tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay trở thành nơi chứa đựng nỗi nhớ của nhân vật. Một ngày, Tú Uyên tình cờ mua được một bức tranh một thiếu nữ đẹp như người chàng nhớ, chàng treo trong nhà để “sớm khuya” ôm ấp ước mơ. Chàng nghĩ về người thiếu nữ trong tranh đến mức ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người đó là người thật. Chàng nhớ nàng đến mức không thể tả, nhớ đến nỗi mơ ước “mở cửa phòng trăng” để gặp “chị Hằng” mà chàng luôn mơ ước. Tình cảm, tương tư của chàng sâu đậm giống như bài thơ “Vấn vương” của Xuân Diệu:
Anh không hiểu vì sao vẫn nhớ mãi
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là đôi mắt ấy, làn môi ấy
Anh vẫn còn thương, không nguôi thương.
Một lúc sau, khi Tú Uyên về nhà từ trường đã muộn, thấy bàn ăn đã sẵn sàng. Không hiểu, chàng quyết định rình xem ai đã chuẩn bị bữa cơm cho chàng:
Một khi ra khỏi trường văn
Về nhà đã thấy bàn ăn sẵn sàng
So sánh phong vị khác lạ
Hương hoa thơm phức, mùi hương ngọt ngào
Bàn ăn trời đã sẵn có sao?
Thấy lạ không biết có gì trong lòng!
Bữa cơm tiếp đãi không chỉ là bữa cơm thông thường mà là bữa cơm đầy đủ, phong phú như “bàn ăn trân”. Trên bàn có mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc chắn chỉ có “bàn ăn trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một lúc thì thấy một thiếu nữ từ trong tranh bước ra:
Sáng mai hãy ra ngoài
Liệu có trở về đây không?
Trong tranh làm sao có người ra vào?
...
Nàng nói: “Cuộc sống bình thường
Mang theo má phấn nên phải điều chỉnh
Từ xưa thiếp là khách thanh tiêu
Tiên Thù là biệt hiệu, Giáng Kiều là tên
Thỏa lòng nhớ mong khi gặp được người trong mộng, chàng rơi lệ thổ lộ tình cảm với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, xuống đất vì có tiền duyên với chàng:
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
...
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!
“Ba sinh” ở đây là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên nàng nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:
Nàng nói: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm lòng thề trên đầu xanh xanh
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, hiểu biết nhau. Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai gái sắc, trăng rằm, hoa nở mừng cho mối lương duyên này. Nàng phép mình ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đủ kẻ hầu người hạ. Thời thế nhân hoà hòa vui cùng đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vẻ đẹp quần áo, phụ kiện thiết tha.
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” rõ net dân tộc, bút pháp tài tình xây dựng hình tượng nhân vật kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác phẩm viết bằng chữ Hán mang vẻ mơ mộng về tình yêu. Ẩn trong đó là tâm hồn của tác giả về xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người muốn thoát ly khỏi thế giới thực. Tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa, cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.