Phân tích Tương tư của Nguyễn Bính bao gồm 9 mẫu rất xuất sắc kèm theo hướng dẫn viết chi tiết. Với 9 mẫu phân tích bài thơ Tương tư được viết rõ ràng, giúp các bạn hiểu sâu hơn về nội dung và tiết kiệm thời gian tìm hiểu.
Tương tư là một trong những bài thơ nổi tiếng đã góp phần làm nên tên tuổi của Nguyễn Bính và làm phong phú thêm cho văn học Việt Nam nói chung. Đọc bài thơ, ta nhận ra rằng, tình cảm nhớ nhung đó sẽ mãi mãi sống mãi qua các thời kỳ văn học. Dưới đây là 9 mẫu phân tích bài thơ Tương tư tốt nhất dành cho các bạn học sinh lớp 11.
Dàn ý phân tích bài thơ Tương tư
I. Mở đầu: giới thiệu bài thơ Tương tư - Nguyễn Bính
II. Phần nội dung chính: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính
1. Bốn câu thơ đầu tiên:
+ Sự tương tư của nhà thơ
+ Hình ảnh cặp đôi trai gái trong hình hài tự nhiên, giản dị
+ Nỗi nhớ thương sâu sắc của chàng trai, tình cảm nhớ nhung của một người dành cho một người
2. Tâm trạng của người đang nhớ nhung:
+ Phẩy phờ nhẹ nhàng của chàng trai
+ Lộ ra tình cảm sâu đậm mà chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn đau lòng của người đang nhớ nhung được diễn đạt một cách rõ ràng
+ Sự thay đổi trong cách gọi tên
+ Thể hiện sự độc đáo, chân thực và giản dị trong thơ của Nguyễn Bình
III. Kết luận: Chia sẻ cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bình
Phân tích bài Tương tư của Nguyễn Bính - Mẫu 1
Nguyễn Bính (1918 – 1966) là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông thường mang màu sắc dân dã, thấm đẫm hồn quê. “Tương tư” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho màu sắc thơ ca bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ được sáng tác năm 1939 tại Hoàng Mai, và được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Tương tự là hội tụ những cung bậc cảm xúc chân thực nhất, gần gũi nhất và cũng là cái nhìn của tác giả về cuộc sống.
Bắt đầu bài thơ, Nguyễn Bính đưa người đọc đến với những trải nghiệm tình yêu sâu sắc nhất. Bằng những từ ngữ đơn giản, chân thành:
Thôn Đoài đợi thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của lòng yêu nàng
Ở đây, tác giả đã dùng địa danh để diễn đạt nỗi nhớ trong tình yêu. Có lẽ người chàng trai đang tương tư ở thôn Đông, trong khi cô gái ở thôn Đoài ngày nhớ đêm mong. Sự gợi mở đó làm nổi bật vẻ chân thật của tình yêu nơi quê hương. Tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái chắc chắn đã rất sâu sắc. Ở câu tiếp theo, tác giả sử dụng thành ngữ “chín nhớ mười mong” để diễn đạt sự háo hức, muốn gặp gỡ người yêu.
Nguyễn Bính còn sâu sắc khi so sánh “tương tư” với căn bệnh, như chuyện nắng mưa của trời. “Tôi yêu nàng” phải tương tư. Chỉ qua 4 câu mở đầu, Nguyễn Bính đã kích thích sự tò mò về tình yêu của chàng trai thôn Đoài và cô gái thôn Đông.
Tâm trạng “tương tư” của chàng trai nhanh chóng chuyển sang than thở và hờn dỗi. Cảm xúc này xuất phát từ tình yêu sâu sắc.
Hai thôn gần kề một làng
Tại sao bên ấy không sang bên này?
Ngày qua ngày lại thêm ngày
Lá xanh dần chuyển thành lá vàng.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Không sang cũng đã cách trở đã đành.
Nhưng nơi này gần nhau,
Tình yêu xa xôi nhưng chẳng xa xôi.
Sự trách móc của chàng trai nghe có vẻ không hợp lý. Trong tình yêu, thường nam giới sẽ là người tích cực. Nhưng ở đây, chàng trai lại là người passively, chỉ biết than trách mà không tự tìm kiếm tình yêu. Điều này có thể là ý đồ của Nguyễn Bính khi muốn tạo ra một tình huống trữ tình để diễn đạt cảm xúc. Do đó, chàng trai mới có thể thể hiện rõ hơn nỗi tương tư của mình.
Chàng trai trách cô gái tại sao không thấy sang thăm dù giờ đây “hai thôn gần nhau một làng”. Nhưng qua thời gian, cây đã chuyển từ lá xanh sang lá vàng, từ mùa xuân sang thu nhưng vẫn không thấy bóng dáng của nàng. Có thể không phải là vì cách xa mà là vì trở ngại tình cảm. Tâm trạng của chàng trai có vẻ hờn dỗi, trách móc, nhưng sâu trong lòng lại chứa đựng tình yêu sâu sắc. Chỉ có tình yêu sâu sắc mới tạo ra những cảm xúc tương tư như vậy.
Tương tư suốt bao đêm dài,
Chẳng biết nói cùng ai cũng vô vọng.
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Tâm trạng tương tư của chàng trai phức tạp. Từ trách móc, giận dữ, chàng trai chuyển sang ước vọng xa xôi về tình yêu. Nỗi tương tư của chàng trai trải dài qua nhiều đêm, nhưng không biết chia sẻ với ai vì “không biết nói cùng ai cũng vô vọng”. Có lẽ chỉ có một lời giải cho nỗi tương tư của chàng trai. Chính vì vậy, chàng trai chờ đợi “bao giờ bến mới gặp đò” để giải phóng nỗi buồn. Ở đây, Nguyễn Bính sử dụng từ ngữ ẩn dụ “bến” và “đò” để diễn đạt tình cảm của chàng và nàng. Hình ảnh “bến”, “đò” thường được sử dụng trong thơ ca Việt Nam để miêu tả tình yêu. Tác giả cũng dùng “hoa khuê các”, “bướm giang hồ” để mô tả hai nhân vật. Có lẽ nàng là cô gái nổi tiếng, nên dù chỉ cách nhau một đầu đình, nhưng do trở ngại tình cảm, họ không thể gặp nhau.
Tương tư đã làm cho chàng trai lo lắng suốt đêm, đặt ra câu hỏi về mối tình của mình:
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
Ở đây, Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh của “cau” và “trầu” để diễn đạt mong muốn hạnh phúc của chàng trai. “Cau” và “trầu” thường được liên kết với tình yêu, 'miếng trầu là đầu câu chuyện' để bắt đầu cuộc sống gia đình. Có lẽ chàng trai đang khát khao một đám cưới, nơi hai trái tim hòa quyện trong một nhà.
Trầu ở nhà em đã có sẵn, cau ở nhà anh cũng sẵn sàng. Điều duy nhất còn thiếu là sự công nhận về tình yêu của hai người. Tác giả đã dùng cách gọi thân mật hơn, không còn xưng ngang, mà gọi là “anh” và “em”. Sự thay đổi này có lẽ không đến bất ngờ, tình yêu của chàng trai thôn Đoài và nàng thôn Đông đã không còn là “tương tư” mà đã trở thành sâu sắc. Bây giờ, chàng trai muốn thẳng thắn bày tỏ tình yêu của mình. Và chàng trai cũng thể hiện rõ tình yêu của mình “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Đó như là sự khẳng định: anh đã trót yêu em rồi, còn “cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào”?
Tình cảm của tác giả dành cho cô gái thôn Đoài vô cùng chân thành, nhưng cũng đầy mãnh liệt. Mặc dù diễn đạt tình yêu một cách trực tiếp, nhưng lại đầy tế nhị để thấy được sự sâu sắc của tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái. Tình yêu của chàng trai là thật, nhưng chàng trai cũng không ép buộc cô gái phải trả lời ngay mà rất nhẹ nhàng để cô gái có thể tự bày tỏ tình cảm của mình.
Bằng những từ ngữ gần gũi, Nguyễn Bính đã để lại ấn tượng sâu sắc về tâm trạng tương tư của một chàng trai quê. Tình cảm chân thành từ đáy lòng kết hợp cùng cảnh quê, mối duyên quê, tạo nên sự đồng điệu, ấn tượng.
Tương tư là một tác phẩm mang dấu ấn đặc trưng của thơ Nguyễn Bính. Lời thơ giản dị nhưng sâu sắc, mang lại cho người đọc những cảm xúc tinh tế nhất. Phân tích bài thơ Tương tư hiểu được sự tinh tế của Nguyễn Bính trong việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh đặc biệt. Đó có lẽ là lý do tại sao Tương tư trở thành tác phẩm được trân trọng qua nhiều thế hệ.
Phân tích bài Tương tư - Mẫu 2
Nguyễn Bính được biết đến như 'thi sĩ của đồng quê' vì thơ của ông thường gắn liền với phong cách dân gian, mang đến hình ảnh gần gũi, thân thương của quê hương, của tình người. Bài thơ 'Tương tư' từ tập thơ 'Lỡ bước sang ngang' là minh chứng cho phong cách thơ 'chân quê' của Nguyễn Bính. Bài thơ khen ngợi vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa chân quê, mộc mạc và chân thành.
Bài thơ bắt đầu bằng việc đề cập đến 'căn bệnh tương tư' thường gặp trong tình yêu, trong trường hợp này là tình yêu đơn phương của chàng trai cho cô gái, là sự chờ đợi ngày được đáp lại:
'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'
Hai địa danh thôn Đoài và thôn Đông được dùng như biểu tượng cho chàng trai và cô gái, thể hiện nỗi nhớ mong sâu sắc giữa họ. Biểu ngữ 'một người chín nhớ mười mong' diễn tả sự đặc biệt và sâu sắc của nỗi nhớ trong tình yêu. Sự liên tưởng giữa tương tư và gió mưa nhấn mạnh tính tự nhiên và đặc thù của tình yêu. Tình trạng tương tư phức tạp và đa dạng được mô tả qua sự hờn giận, trách móc và mong đợi.
'Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng'
Sử dụng hai địa danh để tượng trưng cho hai người, tạo nên sự gần gũi và đau đớn của tình yêu xa cách. Thời gian trôi qua nhưng nỗi nhớ vẫn còn đọng lại, biểu hiện qua việc lá cây từ xanh bày biến thành vàng. Chàng trai trách móc và tỏ ra mệt mỏi với tình trạng này.
'Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...'
Từng dòng thơ như phủ định sự xa cách, mặc dù cách nhau chỉ một đầu đình, nhưng lại không chịu vượt qua. Sự xa xôi đó không phải về khoảng cách vật lý mà về tình cảm xa xôi. Nỗi tương tư khiến trái tim bất an, mong chờ gặp gỡ người yêu. Câu hỏi 'Bao giờ bến mới gặp đò?' và 'Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?' thể hiện lòng mong chờ đầy nôn nao.
'Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?'
Đoạn cuối thể hiện mong muốn về tình yêu hạnh phúc. Sự tương ứng giữa các yếu tố như nhà em - nhà anh, cau - giàn giầu, thôn Đoài - thôn Đông thể hiện sự kết nối giữa đôi lứa và mong muốn có một mái ấm gia đình.
Với lối thơ quen thuộc, gần gũi, và hình ảnh dân dã, bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính làm cho lòng người xúc động trước tình yêu chân thành và giản dị.
Phân tích về bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính - Mẫu 3
Nguyễn Bính vẫn tỏa sáng bên cạnh những tác phẩm tuyệt vời từ Xuân Diệu, Thế Lữ hay Huy Cận, với những bài thơ mộc mạc, đậm chất quê hương. Tình yêu trong thơ của ông luôn ngọt ngào, trầm lắng như chính tâm hồn tác giả. Bài thơ “Tương Tư” trong tập “Lỡ bước sang ngang” thể hiện tâm trạng của một người đang yêu đơn phương với biết bao nỗi nhớ thương.
Thơ của Nguyễn Bính mang đậm màu sắc dân gian. Người ta nói, người đau khổ nhất trong tình yêu là kẻ yêu đơn phương. Khi yêu, người ta mong muốn luôn được bên người thương, được chia sẻ. Chàng trai trong bài thơ “Tương Tư” của Nguyễn Bính đang nhớ thương một người mà chưa nhận được đáp lại. Bốn dòng thơ đầu tiên đã phản ánh những cảm xúc sâu sắc trong lòng chàng trai.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…”
Trong không gian bình yên, tác giả dùng hình ảnh của “thôn Đoài” và “thôn Đông” để diễn đạt tình yêu của mình. Có lẽ người yêu của tác giả đang ở thôn Đông, còn tác giả đang ở đây nhớ mong đến người đó. Hai chốn quê yên bình đang ấm áp, tạo nên bức tranh đẹp của tình yêu trong thơ.
Tác giả tiếp tục sử dụng hình ảnh của “mưa” và “nắng”. Sau cơn mưa, trời lại sáng, giống như trong tình yêu, bệnh tương tư thường không tránh khỏi. Tác giả sử dụng những hiện tượng tự nhiên để diễn đạt cho căn bệnh tương tự của mình. Điều đó tựa như quy luật của tạo hóa khiến người ta đắm chìm trong nỗi nhớ thương. Cả hai dòng thơ thể hiện sự so sánh giữa căn bệnh tương tư và tự nhiên.
Trong thơ của Nguyễn Bính, 'tôi' và 'nàng' hiện ra rõ ràng, không còn che giấu tình cảm, không cần ví von bằng 'nắng' hay 'mưa'. Nhân vật 'tôi' muốn thể hiện tình cảm của mình một cách rõ ràng để 'nàng' hiểu. Trong tình yêu, không thể tránh khỏi những cảm xúc như giận dữ và băn khoăn:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Dù hai thôn nghe có vẻ xa xôi, nhưng lại cùng chung một làng. Khi lòng muốn gần nhau, khoảng cách xa xôi sẽ trở nên gần gũi hơn. Nếu hai người chung một tấm lòng, họ sẽ mong muốn hướng về một mái ấm gia đình. 'Cớ sao' thể hiện sự hờn dỗi và băn khoăn. Mặc dù mong muốn chung với nhau, nhưng lại gặp phải sự hờ hững từ phía kia. Tình huống này thực tế nhưng lại phức tạp bởi lòng người:
Những lời than thở tiếp tục được diễn đạt qua các dòng thơ sau:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Đây có thể nói là hai dòng thơ thành công nhất trong bài thơ Tương Tư để miêu tả chân thực nhất quy luật không thay đổi của tình yêu đơn phương. “Ngày qua ngày” lặp lại tựa như những cảm xúc đợi chờ đến vô vọng. Thời gian trôi đi càng khiến người ta sốt ruột, khó chịu vì đợi chờ hồi âm. Ở câu thơ bát tiếp theo cũng có sự ngắt nhịp bất thường, nhịp ngắt ba “lá xanh nhuộm” cùng năm từ “đã thành cây lá vàng” càng khắc sâu cảm giác đợi chờ mòn mỏi. Tự thuở nào lá cây còn xanh non mơn mởn giống như những tình cảm chớm nở lúc mới yêu thế mà giờ đây, theo tháng năm đã phai tàn thành cây “lá vàng”. Bệnh tương tư còn nhuộm cả màu của tình yêu. Như Nguyễn Du đã từng viết:
“Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”
Hay
”Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Tâm hồn của con người cũng luôn đồng điệu với thiên nhiên vậy. Lòng đã không vui thì cảnh có đẹp đến nhường nào cũng hóa làm vô vị.
Trạng thái tâm lý tiếp theo mang chút hờn trách xa xôi:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! '
Khi yêu đơn phương là chỉ dám ngắm nhìn người thương từ xa, nào có dám bộc lộ cho hết nỗi tâm tình trực tiếp với cô gái ấy. Nói thầm cho vơi bớt nỗi lòng nhưng lại cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ có thể hiểu thấu. Thôn đoài cùng với thôn đông chung một bến nước cây đa, cùng gọi tên chung một làng. Nào có cách trở xa xôi như “ cách trở đò giang”, ấy vậy mà ta cũng chẳng thể nào gặp nhau cho trọn vẹn để nói hết tâm tình. Chẳng qua cái tình còn xa, đối phương còn chưa biết được tình cảm của ta nên khiến cho mình vẫn phải cách trở, tương tư nhau. Đã thao thức biết bao đêm, đã khiến cho lá cũng úa màu, cho lòng mình bạc thương nhưng hỡi ai biết cho ngoài lòng mình.
Câu hỏi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho” chỉ góp vào một lời than thở hờn mát như để xoa dịu lòng người đôi chút. Vậy nên chàng trai sẽ vẫn luôn hy vọng mộng mơ về một tương lai không xa rằng:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến”-“ đò”, “ hoa khuê”-“ các bướm” đều là những hình ảnh thường được mượn để nói đến quan hệ lứa đôi. Trong thơ xuân quỳnh, bà đã dùng hình ảnh của “ thuyền “ và “ biển” để nói lên nỗi nhớ thương của các cặp đôi, thì với Nguyễn Bính, đò cập bến, bướm tìm đến hoa thơm là những điều tự nhiên, chẳng bao giờ đổi thay. Chỉ tiếc là thời điểm cho những việc ý biết bao giờ cho đến. quả là một mơ tưởng, hẹn ước xa vời.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Người ta thường nói ” Miếng đầu là trầu câu chuyện” khi có dịp thưa gửi, cưới xin. Vậy nên, Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái
Tương tư” của Nguyễn Bính đã diễn tả gần gũi nhất những cung bậc cảm xúc của chàng trai đang rơi vào tình đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, biết vô vàn những lời muốn nói đều được Nguyễn Bính sắp đặt rất tuần tự, tự nhiên và hợp lý. Chẳng ai có thể ngăn cản được tình yêu đến, dù là những cảm xúc hờn dỗi, than thở hay trách than cũng đều thật đáng nhớ trong cuộc đời.
Phân tích Tương tư hay nhất - Mẫu 4
Nguyễn Bính (1918 - 1966) được biết đến với tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Từ nhỏ, ông đã học ở quê nhà và sớm biết làm thơ từ khi mới 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ của ông mang tên Tâm hồn tôi đã được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính đã sang Nam Bộ. Trong cuộc cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp, ông ở lại và tham gia vào cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính rời Bắc để tiếp tục sáng tác và trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trăm hoa. Cuối đời, ông đã sống ở Nam Định.
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm từ thơ ca lãng mạn Pháp, Nguyễn Bính lại quay về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị và thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình... Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... ông đã đóng góp vào một dòng thơ, phong cách riêng - Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.
Tương tư là một trong những tác phẩm tiêu biểu được rút từ tập thơ Lỡ bước sang ngang, nổi tiếng và là biểu tượng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính trước cách mạng. Tâm trạng tương tư không chỉ là sự nhớ nhung đơn thuần. Trong bài thơ này, nỗi tương tư là một sự kết hợp của nhiều cảm xúc khác nhau, với những biến động không theo một hướng. Bắt đầu là sự nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy không sang bên này?
Đến than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Đến hờn trách mát mẻ:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Rồi nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Đến những ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng
Tất cả những biến cố này diễn ra một cách tự nhiên, chân thực và xen lẫn vào nhau một cách hợp lý. Trong bài thơ, chàng trai tỏ ra trách móc cô gái: Bề ngoài, điều này có vẻ không hợp lý. Trong tình yêu, người chủ động thường là nam giới, nhưng ở đây lại có sự đảo lộn khi người đàn ông ngồi chờ đợi, mong đợi sự bộc lộ tâm trạng của mình như một người con trai miền quê.
Lối trách móc không phải vì căm ghét, không giống như việc đổ lỗi thông thường. Mà đó là trách vì tình yêu. Bởi vì quá mong chờ, nỗi nhớ quấy rối, làm cho người ta cảm thấy bị lạc hậu, vì vậy “trách móc và trách nhiệm” chỉ là cách thể hiện tình yêu. Người ta cũng gọi đó là “trách yêu”. Như câu ca dao ngày xưa đã nói:
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)
Thể hiện nỗi nhớ mong của những người đang yêu. Trong bài thơ này, tâm trạng chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt qua những hình ảnh sắc sảo:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Cách ngắt nhịp 3/3 phá vỡ sự đều đặn của thơ lục bát (2/2/2). Ý và từ ngữ ở vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này làm cho từ “lại” ở đầu vế sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó thể hiện thời gian trôi qua chậm rãi, ngày mới chỉ là sự lặp lại của ngày hôm trước một cách chán chường và vô vọng.
Việc tạo ra nhịp điệu, lặp lại các câu và nhấn mạnh vào từ “lại” đã tạo nên một giai điệu thơ mộng, như một lời than thở, một cảm xúc của sự chờ đợi nóng lòng.
Lời hát thể hiện thời gian và tâm trạng một cách tinh tế và sâu lắng. Thời gian đã trôi đi trong câu hát trước đó một cách nhẹ nhàng, nhưng giờ đây thời gian trở nên rõ ràng hơn. Thời gian không chỉ là một khái niệm, mà nó còn được màu sắc hóa: từ lá xanh sang vàng. Từ khi anh bắt đầu chờ đợi, cây vẫn xanh mướt, nhưng giờ đây, lá đã chuyển sang màu vàng, nhưng hy vọng vẫn không đến.
Thời gian càng trôi qua chậm lại, tâm trạng càng trở nên u ám và mệt mỏi. Sự chậm trễ của thời gian được diễn tả qua từ “nhuộm”. Đây không chỉ là việc diễn tả sự chậm chạp của thời gian mà còn là một sự thể hiện về chủ thể của sự thay đổi. Ai đã làm thay đổi? Chủ thể này vẫn còn ẩn giấu. Thời gian và không gian không phải lúc nào cũng thể hiện sự biến đổi nội tại của cây lá.
Tình yêu đã làm cho trái tim héo hon, làm cho cây cỏ cũng héo úa theo. Mối quan hệ giữa người và cây có vẻ kì lạ. Cây không chỉ là nhân chứng cho tình yêu, là bạn đồng hành của người yêu, là nạn nhân của tình yêu, mà còn là biểu tượng của tình yêu đó. Có thể nói rằng cây cũng là một dạng tình yêu, phải không?
Cách thể hiện cảm xúc rất tinh tế và sâu lắng, với ý nghĩa sâu sắc. Nỗi nhớ nhung của chàng trai và mối duyên phận của họ càng trở nên đậm đà hơn trong bối cảnh quê hương với khung cảnh của cây cỏ.
Trong những kỷ niệm của chàng trai, hình ảnh về những nơi quen thuộc như thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau... hiện lên rất rõ ràng. Những chi tiết này không chỉ tạo ra bối cảnh quê hương cho nhân vật mà còn là ngôn ngữ để anh ta diễn đạt tình cảm một cách tự nhiên và ý nhị.
Thật sự, chỉ khi tình cảm và cảnh vật kết hợp với nhau, chúng mới trở nên hoàn hảo. Trong bài thơ này, việc kết hợp hình ảnh của chàng trai ở thôn Đoài nhớ về cô gái ở thôn Đông đã mở ra một không gian rộng lớn và tổng quát hơn, từ việc nhớ chàng trai ở thôn Đoài đến thôn Đông.
Không chỉ là cách tạo ra sự liên kết, mà còn là cách chuyển hóa, kết nối hai người và hai nơi: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Điều này tạo ra một phương tiện để thể hiện tình cảm: “Thôn Đông nhớ...”. Ngoài ra, nó còn phản ánh một quy luật tâm lý. Khi tương tư, không gian xung quanh cũng trở nên đặc biệt, khiến hai nơi nhớ nhau. Sự bao bọc của hai thôn quê tạo ra một kỷ niệm đặc biệt.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ dân gian, địa danh như “thôn Đoài”, “thôn Đông” kết hợp với thành ngữ “chín nhớ mười mong”, số từ như “một”, “chín”, “mười”,... đã tạo ra một không gian văn hóa rất riêng. Cách sắp xếp lời thơ độc đáo, từ “thôn Đoài... thôn Đông”, “một người... một người”, tạo ra một khoảng cách đặc biệt.
Đặc biệt là trong câu cuối, giữa hai đối tượng ở hai đầu xa cách, có một sợi dây kết nối “chín nhớ mười mong”. Cách sử dụng ngôn từ này không chỉ tạo ra một hương vị quê hương mà còn phản ánh sự chân thành trong cách diễn đạt nỗi nhớ của nhân vật.
Sự mong mỏi của cặp đôi trong tình yêu này được thể hiện thông qua nhiều cặp từ trong bài thơ: thôn Đoài - thôn Đông, một người - một người, gió mưa - tương tư, tôi - nàng, bên kia - bên này, hai thôn - một làng, bến - đò, hoa khuê các - bướm giang hồ, nhà anh - nhà em, giàn giầu - hàng cau, cau thôn Đoài - giàu thôn Đông.
Các cặp từ này xuất hiện từ xa đến gần, cuối cùng kết thúc ở cặp đôi giàu - cau. Điều này cho thấy rằng, dưới lòng tương tư là khát khao gần gũi, mong muốn tình yêu sâu sắc, mong đợi duyên số, và tình yêu kết hợp với hôn nhân là một điều phổ biến trong quan niệm văn hóa về tình yêu, cũng như trong ca dao. Điều này cũng chứng minh thêm rằng tinh thần truyền thống, tinh thần chân quê đã sâu sắc trong tâm hồn thơ Nguyễn Bính.
Các đặc điểm truyền thống về nghệ thuật: Chủ đề tình yêu, những hình ảnh truyền thống trong thơ (như lá trầu xanh, trầu vàng, cau liên phòng, cách trở đò giang...) và hình thức thơ lục bát... Cũng như sự sáng tạo trong ngôn từ: “cách trở đò giang” - Yêu nhau đến mức núi cao cũng phải vượt qua/ Sông lớn cũng vượt qua, và đỉnh núi cũng chinh phục”, “chín nhớ mười mong”...
Phân tích Tương tư - Mẫu 5
Với phong cách thơ giản dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là người viết thơ thấu hiểu lòng dân. Thơ của ông chạm vào tâm hồn người đọc bằng chất 'quê' đặc biệt, bản sắc 'quê' của vùng nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ của ông thường mang nét ngọt ngào, sâu lắng và dịu dàng như con người ông. Bài thơ 'Tương tư' trong tập 'Lỡ bước sang ngang' thể hiện cảm xúc bên trong của một người đang yêu, đang nhớ mong, đang khao khát và đang trông chờ.
Không ngẫu nhiên khi Nguyễn Bính chọn tựa bài thơ là 'Tương tư', đó là cảm xúc nhớ nhung của người đang yêu, đặc biệt là của người đang tưởng tượng về tình yêu không được đáp lại. Tình cảm đó được biểu đạt qua những câu thơ giản dị, chân thành nhất:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của lòng tôi yêu nàng
Một bức tranh thôn quê hiện lên đơn giản, yên bình, và bình dị. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng một cách tài tình, tinh tế. Tác giả sử dụng 'thôn Đoài' và 'thôn Đông' để thể hiện sự nhớ nhung từ tận đáy lòng. Có lẽ người mà tác giả đang nhớ ở thôn Đông, trong khi tác giả lại ở thôn Đoài. Tình yêu ẩn chứa trong cảm giác thanh bình của làng quê.
Tinh tế và sâu sắc hơn nữa, tác giả dùng ánh nắng của trời để thể hiện cảm xúc. Tác giả coi 'tương tư' như một căn bệnh tồn tại trong lòng con người, cũng như bất kỳ vấn đề nào khác, giống như quy luật của thiên nhiên.
Chỉ với bốn câu thơ đó, đã làm cho người đọc muốn hiểu sâu hơn về tình yêu của chàng trai thôn Đoài và cô gái thôn Đông này. Tuy nhiên, các câu thơ tiếp theo, dường như là lời phê phán nhẹ nhàng và cảm xúc. Phê phán sự lạnh lùng của cô gái, và tự hỏi tại sao người ta lại giả vờ không biết điều đó:
Hai thôn chung lại thành một làng,
Vì sao bên ấy không sang bên này?
Ngày qua ngày, lại qua ngày,
Lá xanh đã nhuộm thành lá vàng.
Người bảo cách trở đò giang,
Không qua đây, đường sang làm sao?
Nơi này cách một đầu đình,
Có xa xôi đến đâu, tình xa xôi?
Tương tư thức bao đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai biết được?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Câu hỏi liên tục đặt ra tạo ra sự bối rối, lo lắng và lớp lớp nỗi niềm trong lòng người đàn ông đang yêu. Tác giả sử dụng ngôn ngữ của ca dao, dân ca để đặt câu hỏi về việc tại sao cô gái lại thờ ơ như vậy. Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền đạt thông điệp đến cô gái.
Từ 'vì sao' như một lời trách nhưng lại rất lịch sự, dễ thương. Tình yêu của người đàn ông đầy trăn trở qua bao đêm, nhưng không biết nói cùng ai, và không ai hiểu được. Do đó, anh chờ đợi 'bến gặp đò' để gặp cô. Nỗi lo âu trong lòng anh chồng chất, kéo dài và chờ đợi. Và anh tự hỏi:
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu ở bên nào?
Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả sử dụng hình ảnh 'giàn trầu' và 'hàng cau' để diễn đạt nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính khéo léo và tài hoa khi diễn đạt nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc đó. Ở bốn câu thơ này, người đọc nhận ra sự thay đổi trong cách gọi tên, tác giả đã dũng cảm chuyển từ 'tôi-nàng' thành 'anh-em' rất táo bạo. Điều này chứng tỏ tình yêu này đã rất lớn, đã sâu sắc và chàng trai muốn nói trực tiếp với cô gái.
Tâm trạng 'tôi' trữ tình của Nguyễn Bính đã được thể hiện cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không phải là táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, và đồng thời lại rất tế nhị.
Bằng những dòng thơ gần gũi, chân thành, mang hương vị của đồng quê, tác giả đã truyền đạt những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.
Phân tích bài thơ Tương tư - Mẫu 6
Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc sống, tương tư thường là nỗi nhớ đơn phương. Một người nhớ, nhưng đôi khi người kia vô tình, không biết, hoặc không muốn biết rằng mình đang gặp khó khăn vì tương tư. Thực ra, nhớ là biểu hiện của yêu: một tâm hồn nhớ là một trái tim yêu; một tâm hồn không nhớ là dấu hiệu của một trái tim không còn yêu. Vì vậy, có ai yêu mà không từng tương tư. Nguyễn Bính cũng vậy! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải qua mọi cung bậc của tương tư, khổ sở từng cung bậc đó.
Yêu nhau, nhưng lại xa cách, sẽ nảy sinh nỗi nhớ. Nhớ nhung, thực ra, là mong muốn được ở bên nhau, gần nhau. Sự xa cách về không gian và thời gian là lý do tạo ra tương tư. Vì vậy, trong bản chất của tình cảm, tương tư là một khát khao, một nỗ lực vượt qua không gian và thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian và thời gian trở thành kẻ thù của những người yêu xa. Đó là những kẻ thù đáng ghét. Bởi trong tương tư, khoảng cách ngắn cũng trở nên vô hạn, một khoảnh khắc cũng trở nên vô cùng. Đôi khi, một sự tái hợp nhỏ cũng có thể trở thành điều quý giá. Thậm chí, đối với những người yêu nhau mạnh mẽ, dù không cách xa nhau, họ cũng có thể trải qua cảm giác tương tư:
- Tiếng còi tàu vang nhè nhẹ
Tim em vẫn hướng Nam hướng Bắc
- Dù ở gần anh, bên cạnh
Nhưng lòng em vẫn nhớ mãi.
(Xuân Quỳnh)
Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã miêu tả nỗi tương tư sâu đậm của các cặp đôi. Ngay từ những dòng mở đầu đã vẽ lên một bức tranh tương tư phong phú trong cảnh làng quê:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Chỉ vì một chàng trai thôn Đoài đang trao trái tim mình cho cô gái thôn Đông mà kết quả cuối cùng đã làm cho thôn Đoài nhớ mãi thôn Đông. Cách diễn đạt tinh tế đã tạo ra hiệu ứng không ngờ khi hai địa điểm nhớ nhau. Điều này không phải là không lý. Khi người ta tương tư, mọi thứ xung quanh đều bị cuốn vào nỗi nhớ, không gian bao quanh tràn ngập tương tư. Không ai có thể nhìn nhận một cách khách quan nữa! Cảnh vật đã được nhuộm màu bởi nỗi nhớ. Câu thứ hai đặc trưng của Nguyễn Bính! Đó là lối kể chuyện. Một câu thơ được xây dựng hoàn toàn từ các từ số! Không gian tương tư trở nên rõ ràng. Câu bát càng trở nên dài hơn với lối kể chuyện và sự sử dụng từ số theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở hai đầu câu thơ, xa nhau, sâu xa. Giữa họ là một khoảng cách không lường trước. Nỗi nhớ nối liền họ qua câu 'chín nhớ, mười mong', bắt đầu từ một điểm và kết thúc ở điểm kia. Tiếp theo là một sự giải thích:
Gió mưa là bệnh của trời,
Nhưng tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
So sánh bản thân với trời, dường như là điều ngông cuồng nhưng lại đáng chấp nhận. Vì cả hai đều mang cùng một loại bệnh. Tôi và Trời hóa ra đều là những kẻ đồng bệnh. Nhưng không dừng lại ở đó, sự so sánh này còn làm nhỏ bé tôi hơn trong bối cảnh đó. 'Gió mưa là bệnh của trời', thì bệnh đó như một tật, một điều không tốt, trời có thể làm chứng - một loại bệnh bẩm sinh! Còn 'Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng' thì lại là căn bệnh nảy sinh từ 'bên ngoài'. Từ khi yêu nàng, tôi mới bị nhiễm bệnh này. Nhìn nhận tương tư như một loại 'bệnh', mới có thể hiểu được những đau khổ của bản thân. Và khi đã mắc bệnh này thì... không có cách nào chữa khỏi. Trong câu thơ, thấy có sự chấp nhận về một sự thực, một quy luật tự nhiên không thể chối từ. Bản thân tôi hiện ra như một người tình đắm đuối và cũng như một nạn nhân tự nguyện mang bệnh, chấp nhận sự khổ đau vào trong mình. Liệu khi yêu, mọi lời chân thành có thể trở nên khôn ngoan như vậy không? Có phải đó là sự khôn ngoan dễ thương chăng?
Dường như tương tư thường bắt đầu bằng sự kể lể, giải thích, và rồi ít ai ngừng lại ở đó. Sẽ còn trở thành sự trách móc, nổi giận, sẽ còn là sự tức giận đơn phương, khao khát đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là căn bệnh tương tư sẽ trở nên nặng nề hơn mỗi ngày. Nhưng 'kỳ' nhất là, dù cùng một không gian, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của bản thân - cho chính bản thân, thì nó lại trở nên vô tận, ngược lại, khi trách móc, 'kể tội đối phương' thì lại thu hẹp đến cực độ:
Hai thôn chung lại một làng,
Tại sao bên kia không chịu sang bên này?
Mở đầu với 'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông', ban đầu có vẻ như có một khoảng cách không thể vượt qua. Nhưng giờ đây, thì sự cách biệt hoàn toàn tan biến: mặc dù có hai thôn nhưng thực chất chỉ có một làng. Kỳ lạ thay, đó là cảm xúc của tương tư! Khoảng cách ban đầu đã được kéo dài một cách khéo léo, biến đổi đến nỗi không thể nhận ra nữa!
Nhưng có vẻ, điều tốt nhất vẫn là việc kể lể về thời gian:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh đã nhuộm thành lá vàng
Trong quá khứ, khi tả về tình yêu của Kim - Kiều, Nguyễn Du cũng nhận thấy sự nghịch lý trữ tình của thời gian:
Nỗi buồn dâng trào càng tràn càng sâu,
Ba mùa thu lại tới trong một ngày u ám.
Một ngày thôi nhưng lại cảm giác như ba mùa thu. Điều đó quá đáng ! Dù sao, đó vẫn là nỗi tương tư được diễn đạt bằng giọng người bình thường, bên ngoài lằn ranh. Và lời thơ của Nguyễn Bính vẫn thể hiện sự bất an, nỗi lo lắng của người trong cuộc, giống như lời của người đang đếm từng ngày rơi rớt chậm rãi, như thách thức vô tình, thậm chí là sự trêu đùa. 'Ngày qua ngày lại qua ngày', câu thơ với nhịp điệu 3/3, chia thành hai phần, một phần tái hiện lại phần còn lại theo kiểu lặp đi lặp lại. Chữ 'lại' mang trong đó một cảm giác mệt mỏi. Vừa hy vọng, vừa thất vọng. Mỗi ngày mới mang lại một chút hi vọng, để cuối ngày, hi vọng tan thành vô vọng. Tất cả kết hợp với nhịp điệu lặp đi lặp lại của những ngày chờ đợi, mong chờ nhưng vẫn mãi vô vọng.
Câu thứ hai mô tả một người hồn nhiên chờ đợi bên cây (nhân vật trữ tình thường thể hiện cảm xúc cùng một cây. Không rõ đó là cây gì, nhưng nó cũng chứa đựng nỗi tương tư! Có phải đó là cây tương tư?!). Mối quan hệ giữa người tương tư và cây ấy thật kì lạ. Thời gian không phải là điều vô hình với người tương tư. Nó có màu sắc: màu vàng héo. Mỗi ngày đi qua để lại dấu vết trên lá cây. Cây cũng như một cuốn lịch tự nhiên. Hơn thế nữa, cây là nhân chứng của tình yêu, là bạn đồng hành yên lặng của người tương tư, là nạn nhân của tình yêu hay là kẻ đồng cảm? - bị tổn thương bởi sự lạnh lùng của ai đó. Anh đợi em khi cây vẫn xanh tươi, nhưng giờ đây cây đã vàng héo hết rồi, thế mà... Đợi chờ biến cây héo úa, cũng như con người héo hon!
Cây kia chính là bản hình ảnh của anh! Cây đó là anh. Mô tả cảnh ngụ tình như vậy! Cần phải nói từ 'nhuộm' rất sâu sắc. Viết về sự thay đổi màu sắc trên cây cỏ, khi Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Từ 'nhuốm' vô cùng sống động. Nó mô tả sự thay đổi đang diễn ra, chưa hoàn toàn. Nó cũng rất trực tiếp! Dường như sắc màu này từ sự chia li trong câu trên đã lan tỏa sang dòng dưới, đã lan tỏa ra cảnh vật, nên mới 'nhuốm'. Đó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Trái lại, 'nhuộm' của Nguyễn Bính làm người ta suy nghĩ về thời gian. Bởi vẻ bề ngoài của nó có vẻ yên bình hơn. Quá trình chờ đợi của anh đầy đắng cay, dày đặc đến mức nào cả cây xanh biến thành lá vàng hoàn toàn! Lời thơ vì vậy mà khổ sở, đau khổ hơn bao giờ hết.
Liệu tương tư có phải là gánh nặng đơn phương, càng nặng nề thì đối phương càng thấy vô tình? Vì vậy mà các cung bậc của tương tư tự nhiên chuyển từ kể lể, than thở sang trách móc? Nhưng lời trách móc, ôi, tràn ngập trong sự 'kết án' khó mà thoát được:
Nói rằng khoảng cách trên sông,
Không vượt qua thì chẳng có lối đi.
Nhưng ở đây chỉ cách một bến,
Có xa xôi đến mấy mà tình xa xôi.
Vẫn cái 'luận điệu' khó chịu ấy. Kể lể nỗi lòng thì cũng chỉ là một sự xa cách mà làm cho tình cảm trở nên phức tạp, sâu sắc. Nhưng ở đây thì 'phủ nhận toàn bộ': không có sự cách biệt - không có khoảng cách trên sông, không phải không có con đường, thậm chí vẫn gần, chỉ cách một bến thôi. Tất cả chỉ là do sự lơ đãng của em, không có lý do khách quan nào cả! Người thường xuyên đổ lỗi cho người khác như vậy liệu có đáng sợ không! Nhưng nếu không có luận điệu đó thì làm sao có thể 'phê phán' người khác vô tình! Tại sao trái tim của những người yêu lại có thể 'vô tư' đến vậy! Vậy đấy, trong tình yêu, trái tim thường nói những lời phê tội đáng yêu. Và khi 'người ta' đã tự xưng là nạn nhân của tình yêu, thì việc nghe những lời phê tội 'phiền toái' cũng trở nên 'dễ thương' thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu phải không?
Trách chưa kịp hết đã bắt đầu tức giận:
Tương tư đã thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai, người biết cho!
Giận mình đã đạt đến mức cao điểm,
Thì lại khao khát đến mức độ nào:
Bao giờ bến thuyền mới đón đò?
Nguyệt hoa, bướm hồ gặp nhau?
Và cuối cùng là một sự khẳng định vững chắc:
Nhà tôi có một gian phòng lớn,
Nhà anh có một dãy cây cau che kín.
Thôn Đoài nhớ về thôn Đông,
Cây cau thôn Đoài có nhớ gì không từ đây?
Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi! Thôn Đoài nhớ thôn Đông, điều này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Vậy thì, cây cau ở thôn Đoài có nhớ gì về những người giàu không? Câu thơ chứa đựng trong nó một câu hỏi thật nguy hiểm!
Vậy là, trong tận sâu tâm hồn, tương tư chính là mong muốn hạnh phúc của hai người, mong muốn họ trở thành một cặp. Mong muốn ấy trỗi dậy trong cách họ kể lể, trong sự giận dữ và trách móc. Mong muốn ấy còn hiện diện trong những cặp đôi ẩn mình khắp bài thơ. Ban đầu, những cặp đôi ấy có vẻ xa xôi, nhưng càng về sau thì càng gần gũi hơn. Lần đầu tiên, vào năm 1990, khi viết cuốn sách 'Để dạy tốt Văn 11' dành cho giáo viên, tôi chỉ nhận ra một nửa số cặp đôi ấy. Nhưng giờ khi điều tra kỹ hơn, tôi mới nhận ra có nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ:
Thôn Đoài - Thôn Đông
Một người - Một người
Bên ấy - Bên này
Bến - Đò
Hoa Khuê Các - Bướm giang hồ
Nhà anh - Nhà tôi
Và cuối cùng là:
Trầu - Cau
Một kết nối khéo léo như vậy
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn tập trung vào điều quan trọng nhất, đắng cay nhất: đó là trầu - cau! Mối quan hệ giữa trầu và cau là một câu chuyện về duyên phận. Nguyễn Bính nổi bật với quan điểm về tình yêu. Không giống như các nhà thơ hiện đại, Nguyễn Bính không chỉ tập trung vào tình yêu hiện đại, mà còn quý trọng duyên số. Ông coi trọng mối liên kết với cái chết và hôn nhân. Thật ra, những cặp từ đó vẫn chưa thành đôi hoàn hảo, mà chỉ là tiềm năng, đang chờ đợi và hy vọng. Vâng, đang chờ đợi một người cứu cánh duy nhất: Em. Khi Em đến, trầu và cau sẽ trở nên thắm lại và tất cả những cặp khác sẽ hòa mình vào nhau. Bệnh tương tư sẽ được chữa lành! Nỗi đau sẽ tan biến! Vân vân và vân vân.
Nhưng Em có biết không, khi tất cả đã hoàn tất, thì cũng là lúc nỗi tương tư... tan biến.
Phân tích bài thơ Tương tư - Mẫu 7
Nguyễn Bính là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới trước Cách mạng Tháng Tám. Dù thơ của ông mang dáng dấp hiện đại, nhưng vẫn giữ được sự gần gũi và ngọt ngào của ca dao, đồng thời mang một vẻ đẹp giản dị, hồn nhiên và thấm thiết. Tương tư là một trong những tác phẩm nổi bật trong tập thơ 'Lỡ Bước Sang Ngang', xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tác phẩm này đã giúp Nguyễn Bính nổi tiếng và gây tiếng vang trong giới đọc giả, đồng thời khơi dậy một làn sóng tình yêu thơ Nguyễn Bính. Bài thơ Tương tư thể hiện tâm trạng khao khát của một người đàn ông đang yêu thầm, một tình yêu không được đáp lại. Tương tư trong bài thơ được đặt trong bối cảnh nông thôn, với hình ảnh của một tình yêu chân thành như trong ca dao, mang một hương vị quê mùa mộc mạc.
Tâm trạng của những người đang yêu luôn muốn được gần gũi bên nhau. Một ngày không gặp nhau dài bằng ba thu. Khi nhớ nhau mà không gặp được, nỗi nhớ biến thành tương tư. Thường là một người nhớ nhau mà không được đáp lại, gọi là tương tư. Trong văn chương, đã ghi lại nhiều trái tim tan nát vì tương tư.
Bốn câu thơ đầu tiên diễn đạt nỗi nhớ của người đang yêu. Chàng trai không ngần ngại thổ lộ tình tương tư:
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Một người nhớ chín mong một người.
Nắng mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Mối tương tư được diễn tả thông qua hình thức của ca dao xưa. Ở đây, việc kết hợp lối hoán dụ, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian tạo nên sự hài hòa và tự nhiên: Thôn Đoài nhớ thôn Đông, rồi bệnh của trời, bệnh của tôi. Dường như cả đất trời cũng đồng cảm với nỗi nhớ, đóng góp vào tình tương tư của con người.
Tôi yêu nàng, tôi tương tư, không khác gì trời mưa gió. Tâm trạng tương tư của chàng cũng tự nhiên như quy luật của thiên nhiên.
Trong thơ của Nguyễn Bính, khái niệm 'tôi' xuất hiện đồng thời với các 'tôi' khác trong Thơ mới thời đó, nhưng nó đặc biệt bởi sự chân thành, gần gũi với cuộc sống giản dị của người dân quê. Có thôn xóm Đông, thôn xóm Đoài, có kỷ niệm thơm ngát, có trầu, có cây cau. Giống như hai trái tim đồng quê mới bắt đầu yêu thương nhau bên hàng rào dâng hiến, bên giậu xanh tươi, vừa rõ ràng vừa mơ màng. Nhân vật tôi hiện diện rõ ràng, nhưng nhân vật nàng vẫn mờ ảo, thoáng qua.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ thổ lộ rằng mình đang tương tư, thì ở ba khổ thơ sau, ông trách móc người mình yêu tại sao quá hờ hững:
Hai thôn chung một làng,
Tại sao bên kia không chuyển đến bên này?
Ngày qua ngày, tháng qua tháng,
Lá xanh bây giờ đã biến thành lá vàng.
Đã nói rằng cách trở đò giang,
Không chuyển sang thì không có đường chuyển sang.
Nhưng đây chỉ cách một đầu đình,
Có xa xôi đến đâu mà tình cảm xa xôi?
Tương tư trải qua bao đêm,
Cho ai, hỏi ai có biết cho?
Bao giờ bến mới đợi đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ có gặp nhau không?
Vậy là chàng trai đang thực sự nhớ, đang thực sự tương tư, nhưng nỗi lòng đau khổ vì nhớ nhung mà không được đáp lại. Lối diễn đạt lục bát uyển chuyển, trôi chảy mượt mà phản ánh chân thành: hai bên chung một làng, bên kia, bên này; Cách nhau chỉ một đầu đình; Có xa xôi đến đâu mà tình cảm xa xôi. Trách móc rồi tự trải lòng là mình Tương tư trải qua bao đêm và ước ao: Bao giờ bến mới đợi đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ có gặp nhau không? Trách móc, hỏi liên tục, không đáp lại khiến cho nỗi tương tư trở nên đau lòng, vô vọng.
Vẫn là bên kia, bên này cách xa. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, Lá xanh giờ đã trở thành lá vàng. Thời gian trôi lạnh lùng nhưng bên kia vẫn đầy dẫy bóng chim, hình ảnh cá. Hỏi tại sao bên này không chờ đợi đến khi mòn mỏi, phai nhạt? Mơ mộng gì về những viễn cảnh tưởng chừng xa vời, về những trận sóng lớn, những dãy núi sáng lên?
Vậy là đã rõ: Tất cả đều mơ hồ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn sâu sắc của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà không được đáp lại, nhớ mong mà không gặp. Một mối tình như vậy sẽ đi đến đâu? Chàng trai trở lại với ước mơ kín đáo về một hôn nhân hạnh phúc cùng nỗi lo lắng, khổ sở trong lòng:
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà anh có một dãy cau trong phòng.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Còn cau ở thôn Đoài có nhớ giàu không thôn nào?
Đến lúc này không cần phải giấu diếm gì nữa, chàng trai không còn tự gọi mình là tôi mà mạnh dạn tự gọi là anh và gọi người yêu là em. Cũng không cần phải rơi vào tình huống mơ hồ xa xôi: Bao giờ bến mới đợi đò hoặc Tương tư thức mấy đêm rồi mà nói thẳng về hôn nhân:
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà anh có một dãy cau trong phòng.
Hãy tưởng tượng nếu dãy cau kia, giàn trầu này kết thành một bàn tiệc xinh đẹp thì thật là lãng mạn đúng với lễ cưới truyền thống. Nhưng trớ trêu thay: trầu lại ở nhà em, cau thì ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài nhớ thôn Đông. Vậy: Cau ở thôn Đoài có nhớ giàu không thôn nào? Điều đó chỉ là sự nhớ nhung một chiều và nhớ nhung vẫn chỉ nằm ở một phía. Mặc dù có chút thân mật hơn khi gọi là anh và em, nhưng lại quay về với sự mơ hồ: Thôn Đoài nhớ thôn Đông, tức là không thể tiến xa hơn. Mặc dù thèm muốn điều gì đó về trầu và cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn của sự nhớ nhung mà không được đáp lại. Do đó, việc chấm dứt nỗi buồn bằng một câu hỏi nhẹ nhàng: Cau ở thôn Đoài có nhớ giàu không thôn nào? 'Cái tôi' hiện đại hiển thị một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao: thôn Đoài, thôn Đông... và nhờ đó, nỗi đau dường như nhẹ đi. Vì vậy, nỗi tương tư cũng chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là về việc bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm.
Bài thơ là một phần của tâm hồn của nhà thơ, là 'cái tôi' thấm sâu phong cách của Nguyễn Bính: giản dị, trong sáng, gần gũi với dân dã nhưng không thiếu phần lãng mạn, tinh tế. Nhà thơ nói về tương tư, thực ra là nói về khao khát tình yêu và hạnh phúc. Qua đó, ông khẳng định 'cái tôi cá nhân' với quyền được sống đúng với bản chất của mình. Tương tư là một trong những minh chứng cho nhận định tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.
Phân tích về bài thơ Tương tư - Mẫu 8
Tác giả Nguyễn Bính là một trong những người đi tiên phong và đại diện cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên, khác với các nhà thơ cùng thời bị ảnh hưởng bởi thơ lãng mạn Pháp, thơ của Nguyễn Bính thường đậm chất dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự giản dị, mộc mạc của nền văn hóa đồng quê. Bài thơ 'Tương tư' trong tập thơ 'Lỡ bước sang ngang' là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của ông.
Nhan đề 'Tương tư' ám chỉ một trạng thái tinh thần của con người, tương tư không chỉ là việc nhớ nhung mà còn bao gồm nhiều cảm xúc khác nhau. Sự tương tư thường bắt đầu từ những người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật chính tương tư là một chàng trai quê chất phác, trung thực. Diễn biến tâm trạng của chàng trai là trung tâm của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu, ta cảm nhận được nỗi khao khát, nỗi mong chờ của người đang yêu:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông…
Tương tư là căn bệnh của tôi khi yêu nàng”
Trong trái tim chàng trai, những hình ảnh của quê hương được kỷ niệm bằng những câu ca dao dân gian. Thôn Đoài và thôn Đông không chỉ là nơi, mà còn là biểu tượng cho hai con người, hai tâm hồn. Chàng trai đang nghĩ về người yêu ở nơi xa xăm, đếm ngày tháng qua bằng cách dùng thành ngữ 'chín nhớ mười mong'. Nỗi nhớ kia đã tràn ngập, đầy ắp. Sự trớ trêu của 'nắng mưa' là biểu tượng cho tình yêu, với tất cả những khó khăn và thử thách của nó.
“Hai thôn chung lại một làng…
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Tình yêu của chàng trai dần trở nên đau khổ khi nhận ra rằng sự khao khát không được đáp lại. Sự cách biệt giữa họ chỉ là một 'đầu đình' nhưng đó là một khoảng cách không thể vượt qua, để lại niềm hy vọng mong manh trong lòng anh. Anh trách móc nhưng đồng thời cũng tự trách bản thân vì đã sống suốt bao đêm với hy vọng gặp được người yêu. Tình yêu thế giới này đa dạng và không thể hiểu được hoàn toàn.
Những trách móc và hy vọng đều trở nên vô nghĩa khi không có ai hiểu được cảm xúc của anh. Sự chia cắt giữa hai người ngày càng sâu sắc, và thời gian vẫn trôi đi mà không có dấu hiệu đối phó. Mọi thứ thay đổi từ mùa xanh sang mùa vàng, nhưng thời gian vẫn lạnh lùng như người yêu của anh. Liệu có một ngày nào đó, anh sẽ không còn chờ đợi nữa, không còn hy vọng vào một tương lai chung?
Và qua những dòng thơ này, chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi thứ chỉ từ một phía, với tình yêu chân thành của chàng trai không được đáp lại. Anh yêu nhưng không được yêu, nhớ nhung nhưng không được gặp gỡ. Chàng trai lại phải quay về với chính mình, và tiếp tục mơ ước về một tương lai tốt đẹp.
“Nhà em có một giàn giầu…
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Chàng trai quyết định tỏ tình với người yêu một cách can đảm, không cần phải lắm lời, không cần phải giấu diếm. Anh muốn được bên cạnh người mình yêu thương, muốn chia sẻ mọi khoảnh khắc cùng nhau. Nhưng số phận lại trớ trêu khi nỗi nhớ của anh không được đáp lại, và câu hỏi này vẫn còn bỏ ngỏ.
Trong bài thơ “Tương tư”, chúng ta cảm nhận được tâm hồn của Nguyễn Bính, với sự giản dị, tinh tế của một người dân quê, đồng thời xen lẫn sự lãng mạn, mơ mộng. Dù chỉ là những lời thơ về tương tư, nhưng bên trong đó là khát khao mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc.
Phân tích bài thơ Tương tư - Mẫu 9
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét rằng: 'Nguyễn Bính sống trong thế giới của riêng mình, với mỗi câu thơ là một phần của trái tim anh. Nỗi nhớ, khát khao ấy hiện rõ trong bài thơ Tương Tư từ tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang - một tác phẩm đặc sắc của ông trước khi cách mạng.
Ai trong số chúng ta đã từng trải qua cảm giác 'tương tư' sầu nhớ, chắc chắn sẽ hiểu được điều đó. Tương tư là một sự kết hợp của thương nhớ, là khi ta nhớ về người mình yêu. Nó là một cuộc chiến cảm xúc, như những đợt sóng dội dồn trong lòng:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Bắt đầu bài thơ là một nỗi nhớ, nhưng lại là một nỗi nhớ qua không gian. Đó là sự nhớ nhà 'thôn Đoài' nhớ về 'thôn Đông', sự tương tư lan tỏa khắp không gian bằng những hình ảnh quen thuộc trong ca dao dân gian. Một cách nhẹ nhàng nhưng đầy tình cảm và sâu sắc, tác giả sử dụng cảm nhận về nắng mưa, mượn 'căn bệnh' của trời để thể hiện tình cảm của mình. Tác giả coi 'tương tư' như một căn bệnh tiềm ẩn trong tâm hồn, giống như quy luật tự nhiên vậy. Bốn câu thơ mở ra một thế giới của nhớ nhung, khiến người đọc tò mò về mối tương tư của chàng trai thôn Đoài và cô gái thôn Đông.
Trong những dòng thơ tiếp theo, ta nghe thấy những lời trách móc nhẹ nhàng và tinh tế. Trách cô gái lạnh nhạt, trách cô gái đó sao lại giả vờ không biết gì về tâm trạng của ta:
Hai thôn chung lại một làng
.........
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhịp thơ nhanh, nhân vật trữ tình đặt câu hỏi dồn dập cho người yêu. Tại sao em không đến? Hai thôn chung một làng mà cảm giác như xa xôi, liệu em không sang chỉ vì tình tương tư khiến thời gian trôi dài và không gian trở nên xa xôi. Khi ta tương tư, thường nghĩ rằng nửa kia không quan tâm, lạnh lùng. 'Ngày qua ngày lại qua ngày', thời gian trôi đi chậm rãi, cảnh vật trở nên nhạt nhòa, lá xanh nhạt mà người yêu vẫn chưa đến. Câu hỏi vẫn vọng lên, vừa nhớ nhung vừa trách móc nửa kia, nhưng không có câu trả lời.
Đến cuối cùng, những câu thơ vang lên như một ước nguyện cho một tình yêu vững bền và hạnh phúc:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện của nhà thơ với người mình thầm yêu. Trầu cau từ xưa là biểu tượng của hạnh phúc lâu dài. Giàn giầu đang chờ đợi hàng cau đến, để tạo nên mối duyên vợ chồng trăm năm. Miếng trầu là đầu mối của câu chuyện, gợi nhớ đến truyện cổ tích Tấm Cám. Mỗi miếng trầu đều đậm đà tình quê. Câu thơ 'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông' vang lên như một ấn tượng cuối cùng, tiếng yêu không nguôi đầu đến cuối bài. Bài thơ kết thúc với sự tràng giang của tình yêu và những lời trách móc nhẹ nhàng.
Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ nổi tiếng của ông, góp phần tạo nên tên tuổi của ông và phong trào thơ mới. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được rằng nỗi nhớ sẽ vẫn còn mãi qua bao thời đại.