Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc bao gồm 13 bài văn mẫu tuyệt vời kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Thông qua phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, học sinh có thể chọn lựa phong cách viết phù hợp để tiếp cận với văn chương, biến nó thành kiến thức sâu sắc trong lòng mình.
TOP 13 bài Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cực chất dưới đây được viết rất xuất sắc với phong cách rõ ràng, dễ hiểu giúp học sinh tự học và nâng cao kiến thức môn Ngữ văn. Đồng thời, chuẩn bị tốt hơn cho bài học. Hãy khám phá thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11.
Dàn ý phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Giới thiệu
- Giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu: một nhà văn mù nhưng mang trong mình phẩm chất cao quý, là một ngôi sao sáng tỏ trên bản đồ văn học dân tộc và 'càng ngắm càng thấy rạng ngời' (Phạm Văn Đồng)
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng gọi bi thương cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc
II. Nội dung chính
1. Bắt đầu: Tổng quan về bối cảnh lịch sử và khẳng định sự bất tử của nông dân anh hùng
+ “Chỉ có thể!”: Câu thốt nên thể hiện lòng tiếc nuối chân thành, sâu sắc, đầy ý nghĩa
+ “ Súng kẻ thù đất nước vang lên”: sự phá hoại nặng nề, kẻ thù xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “ Lòng dân bày tỏ”: đấu tranh với kẻ thù bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời là nhân chứng
- Bức tranh đối lập nhằm mô tả cảnh bão táp của thời kỳ, những biến cố chính trị to lớn.
⇒ Dù thất bại những người anh hùng hi sinh vẫn để lại dấu ấn mãi mãi.
2. Phần thực tế: Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc
a. Lịch sử hình thành
- Từ nông dân nghèo khó, những người dân của làng quê, dân thôn (những ai từng rời bỏ quê hương để khởi nghiệp ở nơi xa lạ để kiếm sống)
+ “ Sống cô đơn với nghề”: hoàn cảnh đơn độc, thiếu người đồng cảm
- NT so sánh “chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.
⇒ tác giả nhấn mạnh sự chênh lệch giữa việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra một sự tương phản về địa vị của anh hùng
b. Tình yêu tổ quốc sâu sắc
- Trước sự xâm lược của Pháp, những người nông dân trải qua: Sợ hãi ban đầu ⇒ Hi vọng vào lời hứa từ quan lại ⇒ Phẫn nộ ⇒ Cam chịu ⇒ Nổi dậy chống lại.
⇒ Sự thay đổi trong tâm trạng của người nông dân, một quá trình biến đổi tinh thần phi thường
- Thái độ đối với kẻ thù: Sự căm ghét, oán hận đến cùng
- Ý thức quốc gia: Họ không tha thứ cho những kẻ thù gian ác, độc ác ⇒ Họ đấu tranh tự nguyện: “chẳng chờ ai đòi hỏi…”
c. Tinh thần hy sinh và chiến đấu của dân nông
- Tinh thần chiến đấu vĩ đại: Mặc dù không phải là quân lính chuyên nghiệp, chỉ là dân thôn dân làng nhưng họ vẫn sẵn lòng hi sinh vì nghĩa quân.
- Trang phục quân sự rất đơn sơ: chỉ là chiếc áo vải, cày cưa, lưỡi gươm sắc bén, cây cọ và cỏ dại đã trở thành vũ khí lịch sử.
- Có những chiến công đáng tự hào: “đốt nhà làm tụi nó”, “đoạt lại đầu quan lừa dối”
- “đạp bằng”, “phá cửa”, “dấn mình”, “đâm chồi”, “chém trội”…: những động từ mạnh mẽ miêu tả hành động dứt khoát, nhanh chóng, đầy quyết tâm
⇒ Đài tưởng niệm nghệ thuật vững chắc về những nông dân anh hùng đánh giặc cứu nước.
3. Phần Ai van: Sự thương tiếc và ngưỡng mộ của tác giả trước tinh thần hy sinh của người nông dân
- Tinh thần hy sinh của những người nông dân được diễn đạt một cách rõ ràng với sự thương tiếc chân thành
- Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, sự ly biệt, gợi lên không khí đau thương, u uất sau cuộc chiến.
- Tinh thần hy sinh của những người nông dân anh hùng để lại nỗi đau sâu lắng trong lòng tác giả, gia đình, và toàn thể nhân dân miền Nam
⇒ Tiếng khóc to, tiếng khóc gợi nhớ đến sự kiện mang tính lịch sử
⇒ Phong cách viết trữ tình, nhịp điệu trầm lắng, tạo ra không khí se lạnh, buồn bã sau cái chết của những anh hùng hy sinh.
4. Phần kết: Tôn vinh linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ
- Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiếng hát: Danh tiếng muôn thuở vẫn sống mãi
- Ông cũng ca ngợi tinh thần chiến đấu, hy sinh cho nghĩa lớn của những anh hùng
- Đây là bài ca tang thương của dân tộc, của cả thời đại, là khúc hát bi tráng về những anh hùng bất hạnh.
⇒ Mạnh mẽ khẳng định tính bất tử của những người nghĩa sĩ.
III. Kết bài
- Tóm lược những điểm đặc biệt đáng chú ý về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm
- Bày tỏ quan điểm cá nhân
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 1
“Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, nên được phản chiếu rõ hơn trên bầu trời văn hóa, đặc biệt là vào thời điểm này” (trích “Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc”, Phạm Văn Đồng). Lời đánh giá của Phạm Văn Đồng thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ và ca ngợi đối với tài năng của nhà thơ lừng danh Nguyễn Đình Chiểu - một biểu tượng đặc trưng cho thành tựu văn học truyền thống của Việt Nam. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Nguyễn Đình Chiểu là sự sáng tạo thành công của tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tượng trưng cho lòng dũng cảm của người nông dân yêu nước trong cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp từ ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, năm 1858.
Trong bối cảnh nghẹt thở và rối ren của thời đại, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ và sự đối đầu lịch sử giữa họ và quân giặc với bài thơ ngắn nhưng sâu sắc: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Bằng cách so sánh đối lập giữa súng giặc và lòng dân, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã thành công trong việc diễn đạt tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn:
“Hồi tưởng về ngày xưa:
Buổi sáng rạng đông, nhà cửa yên bình;
Chưa quen đêm dài, tiếng súng ngất trời,
Vương quốc tự do sẽ về với dân chúng.
Lòng tin kiên định, lòng dân vững vàng
Trước khi cuộc chiến tranh bùng nổ, họ chỉ là những người nông dân bình thường, sống trong cuộc sống bình yên của làng quê, với công việc cật lực hàng ngày. Việc sẵn sàng chiến đấu và hy sinh hoàn toàn mới lạ với họ: “Vương quốc tự do sẽ về với dân chúng”. Tuy nhiên, tinh thần yêu nước mãnh liệt luôn cháy bỏng trong họ, như là “Trông chờ tự do như đợi mưa sau hạn”
Mùi hương của những đợt chiên đã vương vấn suốt ba năm, chẳng khác gì cỏ dại làm phiền nhà nông
...
Mỗi lần thấy lớp bóng trắng che phủ, lòng muốn đến ăn gan; mỗi khi nhìn thấy khói đen bay lên, lòng muốn ra cắn cổ”
Trong thời kỳ đất nước gặp nguy khốn, triều đình yếu đuối và nhát gan, những người nông dân vẫn giữ vững tinh thần trách nhiệm với đất nước bằng cách nuôi dưỡng tâm hận sâu đậm với kẻ thù. Những dòng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã gợi lên tinh thần phẫn nộ chống lại giặc ngoại xâm của vị vua trí tuệ, Trần Quốc Tuấn: “Ta từng quên bữa ăn, nửa đêm vẫn gục gối, ruột đau đớn, nước mắt rơi như mưa, chỉ mong có cơ hội để trả thù, chưa bao giờ thỏa mãn nỗi căm tức, muốn giải phóng hận thù bằng cách giết hại và tàn sát kẻ thù. Cho dù phải vứt bỏ xác thân, thậm chí là hơn thế nữa, nhưng ta cũng sẵn lòng” (Trích “Hịch tướng sĩ”). Không cần sự khích lệ hoặc sự kêu gọi, họ tự nguyện nổi lên chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp với lòng anh dũng và quyết tâm: “Không cần ai bắt buộc, lúc này ta sẵn sàng chiến đấu - Không quan trọng là chạy trốn hay không, chúng ta sẽ không trốn tránh, chỉ cần đánh giặc”
Với tinh thần sẵn sàng hy sinh tính mạng, sẵn lòng đặt cả mình vào cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc, những người nông dân tham gia trận đánh Tây với tư cách mạnh mẽ, kiên cường và không sợ hãi trước khẩu súng của địch. Mặc dù trang bị chỉ đơn giản là “áo vải, cây tầm vông, nón cỏ, lưỡi dao phay” nhưng với tinh thần yêu nước mãnh liệt, họ chiến đấu với tâm thế mạnh mẽ, dũng cảm và sôi nổi: “đạp rào như chẳng có gì, liều mình như không quan trọng”, “xô cửa xông vào, sẵn lòng như không có gì” qua những hành động quyết đoán như “đâm”, “chém”... Nguyễn Đình Chiểu đã thành công trong việc sử dụng ngôn từ diễn tả các hành động mạnh mẽ, quyết liệt như “đạp”, “xô”, “xông”, “đâm”, “chém” để vẽ nên hình ảnh về sức mạnh và lòng kiên cường của những người nông dân nghĩa sĩ. Dù cuộc kháng chiến của họ có thất bại, nhưng tinh thần đấu tranh của họ vẫn tạo ra một bài ca về lòng yêu nước và ghi dấu trong lòng những người Việt yêu nước
Như vậy, từ những điều đã phân tích, chúng ta có thể nhìn thấy vẻ đẹp của những người nông dân nghĩa sĩ qua tinh thần yêu nước, ý chí tự nguyện đứng lên chống lại kẻ thù ngoại xâm cũng như tư thế mạnh mẽ, kiên cường của họ trong trận đấu. Dưới bàn tay tài hoa của Đồ Chiểu, hình ảnh của những người nông dân nghĩa sĩ trong trận đấu với giặc được vẽ lên rất rõ nét.
Phân tích văn bài 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 2'
Bức tượng đài nghệ thuật về những người nông dân nghĩa sĩ ở Cần Giuộc truyền cảm giác vững vàng, kiêu hãnh, vẻ đẹp của nó vẫn còn vĩnh cửu dù thời gian đã trôi qua. Nguyễn Đình Chiểu - con người đã ra đi xa mãi mãi, nhưng tác phẩm của ông vẫn còn sống mãi, vẫn rực rỡ.
Ồ ơi
Súng giặc đến rền, Lòng dân trời tỏ.
Những câu thơ ngắn gọn mở đầu đã tường minh toàn bộ tâm trạng, cảm xúc mà tác giả muốn truyền tải: tội ác và lòng yêu nước, sự tang thương và vẻ cao cả, một mặt là sự mâu thuẫn giữa súng giặc và lòng dân.
Mười năm lao động vất vả trên ruộng, có khi danh vọng vẫn không nổi bật
Một trận đánh Tây mặc dù thất bại nhưng tiếng vang nó vẫn trở nên nổi tiếng.
Đã hiểu rõ hơn, tác giả muốn truyền đạt điều gì. Câu thơ phản ánh sự đối lập giữa 'mười năm công vỡ ruộng' và 'một trận nghĩa đánh Tây' - sự mạnh mẽ, quyết đoán, nhanh chóng của những người nông dân. Mười năm vất vả trên ruộng ít ai chú ý, nhưng một trận đánh Tây, những người nông dân nghĩa sĩ đã tạo ra 'tiếng vang như mỏ'. Bốn câu thơ như một dấu hiệu cho sự anh hùng của họ, sức mạnh của họ và cả nỗi đau cần thiết.
Nhớ ngày xưa Cui cút làm ruộng
Đắn đo nghèo khó.
Hình ảnh những người bình thường hiện ra, những người sẽ viết nên lịch sử ấy, họ không phải ai quan trọng cả, chỉ là những người sống sau 'lũy tre làng', sau rặng dừa, bụi chuối vì lẽ nghĩa lớn mà họ hy sinh. Họ hy sinh vì 'Tổ quốc cần'. Và hình ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen thuộc với công việc cày cấy.
Chưa quen cưỡi ngựa đến trường nhưng, chỉ biết:
Trâu ruộng trong làng bộ.
Làm cuốc, làm cày, làm bừa, làm cấy tay đã quen làm.
Thử khiên, thử súng, thử mác, thử cờ mắt chưa từng nhìn.
Cuộc sống của họ yên bình, hàng ngày chỉ biết vật lộn với bữa cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo khó đó vẫn gắn bó với đất. Họ không bao giờ tưởng tượng được việc mang binh đao. Khi nghe tin giặc Pháp xâm lược, họ cũng có tâm trạng chung của những người 'dân đen' 'con đỏ', lo sợ, trông chờ và sau đó là thất vọng.
Tiếng gió nổi rộn ràng hơn mười tháng Trông chờ như chờ mưa gió Mùi thịt nướng đã lan tỏa ba năm Ghét bỏ như nông dân ghét cỏ. Chờ đợi 'tin tức' nhưng rồi tin tức không đến. Họ đi từ hy vọng bắt đầu đến thất vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét - cái căm ghét mơ hồ.
Nhìn thấy bóng trắng phủ lấp muốn tới ăn gan
Ngày thấy khói đen phịch phò muốn ra cắn cổ.
Dù sự căm ghét chỉ tồn tại trong tâm trí mơ hồ nhưng sự tức giận đã bùng phát. Họ muốn bước ra và đánh nhau bằng tay không để 'nuốt sống kẻ đã gây ra nhiều tội ác'. Đọc đến đây, ta gợi nhớ lại lời diễn thơ cao cả, vang vọng một thời của Trần Quốc Tuấn 'Ta thường quên ăn, giữa đêm vò gối, ruột đau như cắt, nước mắt tràn trề' (Trích Hịch tướng sĩ). Sự đau đớn, xót xa đẩy con người hành động, thúc đẩy con người muốn 'nuốt gan uống máu quân thù' để trả thù. Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng vậy. Họ bắt đầu nghĩ về đất nước và cảm thấy xấu hổ nếu để cho kẻ 'ác chó' ấy xâm phạm những giá trị tinh thần của dân tộc.
Một tình huống phức tạp, liệu ai sẽ đối mặt với khó khăn
Hai mặt trời chói chang, đâu dễ dàng như việc treo dê bán chó.
Nhận thức được điều đó, họ đã quyết tâm nổi dậy. Họ nổi lên với tinh thần sẵn sàng tự nguyện.
Trong cuộc chiến này, không ai đòi ai phải ra sức đoạn kình. Mỗi người tự nguyện đương đầu với thử thách. Không chạy trốn, không lùi bước, chúng ta đều sẵn lòng đối mặt với mọi khó khăn như bộ hổ dũng mãnh.
Họ đã tưởng tượng ra một cuộc chiến tranh công bằng và chính nghĩa. Không cần phải trốn tránh, tiếng gọi của quê hương thúc đẩy họ bước vào cuộc đấu tranh một cách đầy quyết tâm. Họ biết phải chiến đấu, hy sinh để bảo vệ mảnh đất yêu thương, giữ lấy những giá trị quan trọng. Tấm lòng cao cả của họ đã tạo nên một hình ảnh đẹp đẽ, xa lạ so với quân lính trước kia.
Những người nghĩa sĩ theo bước của Nguyễn Đình Chiểu vẫn mang trong mình sự bình dị và sáng sủa. Dù chỉ có vũ khí đơn giản nhưng họ đã viết lên những trang sử vĩ đại, những câu chuyện anh hùng. Họ dù bình dị nhưng lại toát lên vẻ anh hùng và sức mạnh dũng cảm.
Thậm chí cả bằng rơm con cúi cũng đủ để đốt cháy ngôi nhà dạy đạo kia. Và cây gươm dù cũng chỉ là một món đồ sắc bén, nhưng nó đã đủ sức chém đầu những kẻ thù.
Họ là những người bình dị nhưng lại mang trong mình tinh thần anh hùng. Khi làm ruộng, họ hiền lành nhưng khi đối mặt với mối nguy, họ lại biến thành những chiến binh mạnh mẽ, quyết đoán. Họ hiểu rằng sức mạnh thật sự nằm ở tinh thần đoàn kết, điều mà Nguyễn Trãi đã ca ngợi trong Cáo bình Ngô.
Nhân dân từ mọi miền đất nước cùng hòa mình thành một, đặt cột cờ cao vút.
Nguyễn Đình Chiểu đã mô tả họ - những cá nhân trong cuộc chiến chống lại kẻ xâm lược Tây - với tâm trạng hân hoan và phấn khích.
Quan lại chỉ biết thúc giục quân lính lao vào đánh giặc mà không màng đến nguy hiểm. Dân ta không đợi chờ đòn đạn, họ dũng cảm đối diện mọi nguy cơ mà không sợ hãi. Dù bị thương, dù gặp nguy hiểm, họ vẫn kiên định chiến đấu. Trong mê cung của chiến trường, hình ảnh của họ vẫn rõ ràng giữa những trận đánh ác liệt.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu như một thanh gươm sắc bén, vẫn lòi ra những hình ảnh rực rỡ của cuộc chiến. Bài thơ ngắn gọn nhưng đầy cảm xúc đã miêu tả rõ khí thế mạnh mẽ của những người anh hùng. Trong cảnh hỗn loạn của cuộc chiến, họ vẫn toát lên sức mạnh và oai phong.
Trong trận Chi Lăng, Liễu Thăng đã phải chịu thất bại. Trong trận Mã Yên, Liễu Thăng đã hy sinh. Bá tước Lương Minh đã tử vong trong trận chiến, cùng với thượng thư Lí Khánh.
Nguyễn Đình Chiểu có lẽ cũng ao ước, muốn ghi lại những thất bại của kẻ thù. Nhưng trong cuộc chiến này, ta thấy dù trận đánh có dữ dội đến đâu, nó vẫn mang dấu ấn của người dân bình thường, những người đã quen thuộc với cuộc sống lao động. Sự thất bại không phải là điều bất ngờ, vì
Mười phương võ nghệ chẳng chờ đợi luyện tập
Chín chục trận chiến không cần sắp xếp.
Những người anh hùng ấy thật đáng thương. Nhìn vào hoàn cảnh đau thương của họ, ai cũng cảm thấy xót xa cho họ và cho đất nước. Âm điệu của thơ như mặt hồ đang dậy sóng bỗng trở nên yên bình, những ngọn lửa chiến trận bỗng chợt tắt, tạo nên một cảnh tượng bi thương, cô đơn.
Những suy tư về lòng nghĩa lâu dài không biết rằng xác thịt sẽ vội vàng rời bỏ...
Ngắm sông Cần Giuộc, cây cỏ mải mê mấy dặm sầu buồn.
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ đều chìm trong bi kịch.
Những dòng thơ như những hơi thở cuối cùng của tác giả. Người thơ gửi đi biển khát khao sâu thẳm cho những người đã khuất. Sự ra đi của họ làm tang thương cả trời đất, cây cỏ màu nước mắt, nỗi buồn vô tận. Cả bầu trời u ám, tối tăm trước sự hi sinh của những anh hùng.
Trong lạnh năm canh ưng, lòng son gửi lại bóng trăng rằm tại Chùa Tông Thạnh.
Đồng lang sa một khắc đền trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Mẹ già ngồi khóc trẻ trong đêm đen, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Những hình ảnh đau thương ấy gặm nhấm tâm can ta, linh hồn ta đau nhức. Nguyễn Đình Chiểu đã khóc lên vì những anh hùng hi sinh vì Tổ quốc. Những âm thanh sầu thảm vang vọng qua đoạn văn, như tiếng khóc chung của đất nước. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên tiếng khóc cao cả từ mọi nỗi đau.
Sau những giây phút đau thương, nức nở, lời văn bỗng tỉnh táo, nêu bật quan niệm về nhân sinh, về lẽ sống và cái chết.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
Hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
Nguyễn Đình Chiểu đã trình bày một quan điểm nhân văn sâu sắc: Thà chết chứ không chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ 'sống đánh giặc thác cũng đánh giặc' được nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. Chân lí ấy đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã hiến dâng tấm thân cho đất nước, quê hương.
Nước non vẫn nợ thác, sánh thơm đồn sáu tỉnh ngợi khen.
Ưng đình miếu để thờ thác, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Họ là tấm gương sáng cho muôn đời con cháu. Linh hồn của người nghĩa sĩ vẫn sống và được ngưỡng mộ trong lòng tác giả. Họ tận hưởng cuộc sống để theo đuổi sự nghiệp giết giặc cứu nước đến cùng.
Ôi chết thế không thể nào chết được
Không thể chết những người dân yêu nước
Những con người không chịu ô danh.
(Tố Hữu)
Họ đã hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân 'cày xong thửa ruộng'. Cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, bình thản. Nhưng cái yên lành, bình thản ấy lại gợi nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
Với văn phong giản dị, bình dân, sử dụng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra hình ảnh người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua 'Bức tượng đài nghệ thuật' đó, tác giả truyền tải một quan niệm sống đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.
Dù Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã kết thúc, nhưng lịch sử dân tộc vẫn tiếp tục. Chúng ta - những con người của đất nước phải ghi nhớ giá trị vĩnh cửu mà hàng ngàn thế hệ, hàng triệu người đã xây dựng nên. Điều mà Nguyễn Khoa Điềm đã cảm xúc viết lên trong những dòng thơ truyền cảm.
Có bao nhiêu người con gái con trai
Trong bốn nghìn tầng lớp người như chúng ta tuổi đời
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tĩnh
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một trong những ngôi sao sáng trên bầu trời của văn học Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho, cha là Nguyễn Huy người Thừa Thiên. Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu đầy trắc trở oan nghiệt, năm 1846 ông đi Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng khi sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất và phải bỏ thi giữa chừng trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận, ông tiếp tục mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân. Sau khi giặc Pháp đánh vào Gia Định, người trí thức yêu nước đó đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống giặc và tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” ra đời. Tác phẩm này là biểu hiện của lòng biết ơn và xót thương trước những mất mát của những người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc đã hy sinh vì đất nước.
Vậy, tại sao tác phẩm lại có tên là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”? Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu “văn tế” có nghĩa là gì nhé! Đó chính là loại văn được viết để tưởng nhớ và bày tỏ lòng thương tiếc tới những người đã có công lao to lớn. Văn tế thường mang một âm hưởng bi thương. Ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, văn tế được viết với mục đích khác nhau, có bài chỉ là tiếng khóc thuần túy, có bài mang tính sử thi bi tráng. Văn tế được viết theo nhiều thể loại như văn xuôi, thể thơ lục bát, song thất với từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh. Tiếp theo, “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” là ai? Trước khi trở thành những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, họ là những người nông dân chân chất, thật thà, quanh năm chỉ biết làm ruộng mặc dù cuộc sống khó khăn. Nhưng với tinh thần yêu nước bất diệt, những người này đã thể hiện tấm lòng yêu nước của mình bằng cách tham gia trận chiến ở Cần Giuộc dù trong lòng căn nhắc bao nhiêu. Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn viết để tưởng nhớ những người nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc năm 1861.
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng trời dân tỏ.
Tác phẩm mở đầu bằng một cảnh đau lòng với tiếng than “Hỡi ôi!” đó chính là tiếng khóc của nhân dân trước khung cảnh tang tóc, hòa với tiếng súng vang cả trời đất, thật là khung cảnh hỗn loạn. Chỉ có trời mới nhìn thấy được cảnh nhà tan cửa nát mà nhân dân phải chịu đựng và cũng chỉ có trời mới nhìn thấy được những hy sinh và tinh thần yêu nước mãnh liệt của dân ta. Câu văn này là lời tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và cũng thể hiện phẫn nộ của dân ta với chúng. “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao” chỉ làm ruộng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời chưa chắc ai biết đến, nhưng “một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất nhưng tiếng vang như mỏ” một trận đánh Tây tuy hy sinh nhưng công lao to lớn ấy luôn được lịch sử ngợi ca và ghi nhận công ơn. Để có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của ngày hôm nay phần lớn là nhờ vào mồ hôi xương máu của những người anh hùng đã hy sinh.
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Trước khi trở thành “nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì họ là những con người xuất thân từ nông dân, luôn chân chất thật thà, quanh năm chỉ biết “côi cút làm ăn” nhưng cái nghèo khó vẫn đeo bám không buông tha. Cuộc sống vốn bình dị như vậy, cung ngựa chưa quen, chưa từng tập khiên, súng, mác, quanh năm chỉ biết làm bạn với con trâu, con bò, quen với việc cầm cuốc cày, nhưng những điều đó không làm giảm đi ý chí kiên cường của họ. Chính tình yêu mãnh liệt đó đã tiếp thêm một nguồn sức mạnh phi thường, cởi bỏ sự hiền lành vốn có để đứng lên chiến đấu với bọn thực dân Pháp.
Với lòng yêu nước chân thành, họ luôn chờ mong những điều tốt lành “trông tin quan như trời hạn trông mưa” nhưng không phải cho bản thân mà chính là cho đất nước. Sự hoành hành của quân thù, những tội ác của chúng được thể hiện qua câu “mùi tinh chiên vấy vá” khiến cho dân ta ghét bọn thực dân Pháp như “nhà nông ghét cỏ” chỉ cần thấy hình dáng, tiếng nói thôi cũng làm cho người ta chán ghét và ghê tởm.
Bữa thấy bòng bong che chắn lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Là người Việt Nam tuy thấp bé nhẹ cân nhưng tinh thần chiến đấu thì không bé nhỏ chút nào, nó được thể hiện qua những hành động như là muốn ăn tươi nuốt sống “muốn ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Tuy có đáng sợ nhưng không có gì sợ hơn việc bị kẻ thù lấn áp, điều đó đủ để ta cảm nhận được ý chí kiên cường ấy.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, chốn xuôi chuyến này dốc tay ra bộ hổ.
Là một quốc gia tự do, có chủ quyền, họ nhận thức trách nhiệm của mình là phải bảo vệ đất nước. Nếu chúng ta không đứng lên, thì ai sẽ? Không trốn tránh, những người chiến sĩ theo đuổi tinh thần của Nguyễn Đình Chiểu quyết tâm đánh bại giặc ngoại xâm, bất kể chúng cao to hung dữ và trang bị vũ khí hiện đại. Bức tranh của những chiến sĩ này không lộng lẫy nhưng lại tuyệt đẹp trong mắt người dân Việt.
Chúng không được huấn luyện như quân lính, họ chỉ là dân thường, nhưng với tinh thần kiên định và lòng yêu nước, họ dùng những công cụ đơn giản như áo vải, dao, và cây cày để chống lại kẻ thù. Sức mạnh lớn nhất của họ không phải là vũ khí, mà là lòng dũng cảm và đoàn kết. Dưới bút tài của tác giả, những hình ảnh sống động về tinh thần chiến đấu của họ hiện lên trước mắt độc giả.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng…già trẻ hai hàng luỵ nhỏ
Tác giả tỏ lòng thương tiếc với sự hy sinh cao cả của những người anh hùng đã hi sinh vì đất nước, họ ra đi khi tâm nguyện chưa được thực hiện. Cái chết của họ gây ra nỗi đau thương cho cả trời đất.
Tác giả căm phẫn với những kẻ mang đến đau khổ cho dân tộc. Tại sao họ lại cướp đi hạnh phúc của chúng ta, khi mọi cống hiến của ông bà đã được gieo vào từng hạt cỏ? Đó là tiếng khóc của dân tộc.
Đau lòng quá! Người già mẹ ngồi khóc con trẻ, ngọn đèn trong lều le lói trong bóng tối;
Tâm trạng buồn thảm khi vợ yếu phải tìm chồng, cảnh bóng đêm u tối trước nhà
Chẳng có nỗi đau nào đau đớn hơn việc mất đi người thân. Chiến tranh đã làm họ ly biệt, mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, tạo ra một bầu không khí u tối.
Kết thúc bài viết là sự tôn vinh những linh hồn đã khuất của Nguyễn Đình Chiểu. Dù đã ra đi, nhưng những cống hiến của họ vẫn tồn tại mãi với thời gian. “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” - dù sống hay chết, tinh thần vì tổ quốc vẫn hiện diện, linh hồn của họ luôn theo dõi đất nước.
Với lối văn dân dã, giản dị, sử dụng nhiều tục ngữ, lời nói gần gũi với cuộc sống hàng ngày, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra hình ảnh của người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua 'Bức tượng đài nghệ thuật' đó, tác giả truyền đạt một quan niệm sống cao đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là lời cao cả khóc thương của một trái tim đầy tình dân, tình nước.
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 4
Ngày nay, khi đọc văn thơ của Đồ Chiểu, chúng ta không chỉ cảm nhận được tài năng và sự đam mê của nhà thơ mà còn thấy rõ cả một giai đoạn lịch sử, thấy lại bóng dáng của dân tộc trong một thời kỳ đau khổ nhưng vĩ đại. Văn thơ của Đồ Chiểu vẫn luôn là nguồn cảm hứng tinh thần của người Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét: “Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu là biểu tượng của lòng trung nghĩa, đã mô tả một cách sống động và sâu sắc, cảm xúc của dân tộc đối với những chiến sĩ của nghĩa quân … những anh hùng cứu nước”.
Bài thơ “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã thể hiện một tấm lòng yêu nước cao quý, sự quan tâm chân thành đến số phận của dân tộc và cũng là lời than thở bi thương.
Ngay sau khi được phổ biến, bài thơ đã tạo ra một tiếng vang lớn, đặc biệt là trong lòng nhân dân. Nó đã mở ra một trang mới trong văn học yêu nước chống Pháp vào nửa sau của thế kỷ 19. Bài thơ được xây dựng trên cơ sở của cuộc sống thực, những sự kiện thật, do đó ý nghĩa của nó trở nên sâu sắc hơn …
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã làm rung động lòng người bởi sự thấu hiểu, bởi vẻ đẹp của văn chương giản dị, lời văn sâu lắng, đầy cảm xúc vì dân vì nước. Bài tế bắt đầu bằng lời than khóc thương tâm:
“Hỡi ơi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”.
Chỉ một câu ngắn thôi, ta đã thấu hiểu cả một cảnh xã hội, cả hoàn cảnh hỗn loạn lúc ấy. Đó là cuộc xâm lăng dã man của kẻ thù, và cũng là ý chí kiên cường chống lại sự bạo tàn đó của nhân dân. Dù gặp khó khăn, bị áp bức, nhưng lòng dân chỉ tin tưởng vào trời: “Lòng dân trời tỏ” bởi chỉ có trời mới hiểu được lòng người, còn những người lãnh đạo thì chỉ biết tự cao tự đại mà thôi.
Cuộc đời của người nông dân trôi qua bình lặng, không ngờ rằng sẽ có những biến cố đầy bất ngờ xảy ra.
“Mười năm lao động trên ruộng, chưa chắc đã có danh vang như pháo”
Một trận chiến nghĩa đánh quân Pháp, dù mất đi nhưng vẫn vang dội như chuông
Chưa quen cưỡi ngựa đến trường, chỉ biết làm ruộng và chăn trâu theo làng …”
Cuộc sống trong thôn quê rất đơn giản, nghèo khó. Họ chỉ biết làm ruộng và chỉ cần có miếng cơm manh áo. Họ không quen với việc sử dụng gươm đao hay cưỡi ngựa, nhưng họ vẫn yêu nước và căm thù giặc đến mức muốn đánh chúng tới tận cùng. Điều này thể hiện rõ tính cách của người nông dân.
Những người nghĩa sĩ không phải là quân lính mà là dân làng nghèo khổ. Họ không mong chờ quân quân đến, nhưng khi không còn cách nào, họ sẵn lòng làm những việc lớn, nhưng thực ra họ chỉ có một chiếc áo vải, một cái nón rơm, và một cái gậy. Thái độ của triều đình nhà Nguyễn được đánh giá thấp, và vai trò của người nông dân được đề cao hơn trong lịch sử.
Họ không thể chịu đựng việc giặc giày xéo lên mồ mả tổ tiên, và họ quyết tâm phải đứng lên đánh chúng, đánh bại bọn ác đó:
Mười tám lớp võ nghệ không cần chờ rèn luyện
Chín chục vạn quân thư không cần chờ sắp đặt
Chỉ có một chiếc áo vải nhỏ,
Không cần mang theo gươm đao hay ngòi nổ,
Chỉ cần một cái gậy,
Chiếc nón rơm.
Bây giờ họ không cần gì nhiều, không cần rèn luyện, chỉ cần cái gì có đánh cái đó. Từ những dụng cụ thô sơ cũng trở nên quý giá và cần thiết với họ:
Súng bắn bằng rơm con cúi,
Cũng đốt cháy nhà giáo dục kia.
Gươm đeo bằng lưỡi dao phay
Cũng chém đổ đầu quan ác kia.
Nguyễn Đình Chiểu nói điều này để làm gì? Có lẽ ông nhận ra rằng bọn cần quyền có đầy đủ vũ khí nhưng không hề lay chuyển, trong khi người dân thì … Thái độ của nhà thơ phản ánh sự phẫn nộ, oán trách những kẻ vô trách nhiệm và yêu mến những người dân nghèo nhưng trung hiếu, yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả hình ảnh người nông dân một cách sống động? Đúng vậy. Và chỉ trong vài câu văn đã thể hiện phần nào lòng trung hiếu của nhà thơ Đồ Chiểu.
Tiếp tục, người nông dân nghĩa quân tiếp tục chiến đấu với sức mạnh mãnh liệt như cơn bão:
“Kẻ đâm bên này, người chém bên kia
Làm cho giặc hoảng sợ, ma quỷ run rẩy” …
Họ chiến đấu mạnh mẽ bằng tinh thần, ý chí và lòng căm thù. Họ không sợ mất mạng vì tình yêu nước. Phần trong bài tế này là:
“Cầm trống gác quan nơi cao bồi cổng,
Đạp rào bước tới, xem quân địch như không,
Không lo kẻ Tây nã đạn lẻ, đạn lớn
Liều mình như không…”
Hay là:
“Kẻ đâm bên này, kẻ chém bên kia…”
Có vẻ như ngòi bút tác giả đang thể hiện sự hùng dũng của nghĩa quân trên chiến trường. Lối văn hùng hồn, nhịp điệu sôi động, thể hiện rõ sức mạnh của trận chiến. Tiếng hò reo, tiếng súng nổ, cùng với lửa cháy trên đồn giặc làm sáng bừng dòng sông Cần Giuộc… Những yếu tố này đã thành công trong việc tạo dựng hình ảnh của người nông dân cứu nước. Đây là một hình tượng độc đáo trong văn học cổ điển Việt Nam. Bên cạnh đó là hình ảnh của quân quan nhà Nguyễn nhỏ bé, thấp kém. Bây giờ họ không còn gì. Thật: “Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn của ông đã diễn tả thật là sinh động và cảm xúc của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân. Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã đại diện, đã thay mặt cho dân tộc, cho tình cảm dân tộc để viết ca ngợi về người chiến sĩ. Nhưng nếu không có lòng “trung nghĩa” thì việc thay mặt cũng quả là khó khăn. Thơ văn ông thường là hồn, là tâm trạng của ông. Vì vậy, khi đối mặt với những người nghĩa sĩ, đối mặt với tang thương, làm sao nhà thơ có thể không rơi nước mắt:
“Ngắm sông Cần Giuộc cây cỏ trăm dặm lụy buồn,
Nhìn thị trấn Trường Bình già trẻ hai hàng người khó khăn
Nghĩ về lòng nghĩa lâu dùng, đâu có dễ bỏ”
Trong tình hình chiến trận hùng hồn, đột nhiên dường như có sự trì trệ, chùng lại. Người nghĩa quân đang dồn sức vào trận chiến mà không sợ cái chết, nhưng tưởng tưởng sẽ có một tình yêu trường còn lâu dài … nhưng làm sao có thể tránh khỏi sự hy sinh …
Tâm trạng của tác giả ngày càng bi thương cho những người dân nghèo cảng nhàn chỉ biết làm ăn mệt mỏi, khi kẻ thù tới, họ dũng cảm sử dụng những công cụ đơn giản để chống lại. Khi họ hy sinh trên chiến trường, tác giả càng cảm thấy đau lòng hơn. Cả cỏ cây và bầu trời đều trở nên buồn bã, u tối:
“Nhìn dòng sông Cần Giuộc cỏ cây buồn thảm
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai bên nỗi đau”
Dọc bờ sông Cần Giuộc, cỏ cây u buồn như màu tang, ở chợ Trường Bình, người già và trẻ đều chìm trong nỗi đau. Mọi người không cầm lòng được nước mắt khi họ nhớ về những người nghĩa quân đã hy sinh cho đất nước. Dòng nước mắt không ngừng rơi, lưu giữ hình ảnh của họ:
“Chùa Tông Thạnh, năm canh còn sót lại lạnh buốt
Tấm lòng son gởi đi hình bóng trăng tròn …”
Nhìn lại quang cảnh xưa, tâm trạng của tác giả tràn đầy sự thương tiếc, tức giận. Tức giận với những kẻ vô nhân tính, hung ác; thương tiếc cho số phận đáng thương của những người nghĩa quân, những người đứng lên vì lẽ phải. Họ đã mất tất cả: gia đình, người thân. Gia đình là nơi họ tìm sự bình yên.
Khổ đau ơi! Mẹ già ngồi khóc trẻ
Ngọn đèn khuya leo lét soi trong lều
Non nớt thay vợ yếu chạy tìm chồng
Ánh sáng rọi nhòe dần trước ngõ.
Đớn đau biết bao khi người con và chồng đã rời bỏ, chỉ còn lại tiếng khóc thảm thiết, xé lòng. Người vợ lang thang tìm kiếm chồng trong cảnh sầu vắng, mơ hồ giữa cõi mê man. Mẹ già không còn nước mắt nhưng vẫn khóc, khóc những tiếng đau đớn của trái tim.
Tác giả đã truyền đạt cảm xúc chân thành, phong phú, tạo nên sự sâu lắng cho đoạn văn, làm rung động tâm hồn độc giả. Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt tôn vinh cái chết vẻ vang của người nghĩa quân. Ông khẳng định quan điểm sống của họ: 'chết vinh còn hơn sống nhục':
Thà rằng mình đặng câu địch khái
Chấp tổ phụ cũng là vinh quang
Mà đành chịu chữ đầu Tây
Ở trong nơi lạ đời rất khổ.
Chết như vậy mới thật sự là cái chết của người nghĩa quân, chết để trả nợ với đất nước, để lưu danh mãi mãi. Qua những cái chết đó, tác giả đã lên án lối sống hèn nhát của bọn “tay sai bán dân”:
Vì ai mà quan quân phải gánh chịu khó nhọc, ăn tuyết nằm sương?
Vì ai mà tin đồn lũy vỡ tan tành, đối mặt với cơn mưa và gió xiêu vẹo?
Sống ở đó làm gì theo quân tà ác?
Quăng đi hương xô, bàn đến, chỉ thấy thêm buồn phiền
Sống làm chi ở đây, ở lính mã ác, uống rượu chua, ăn bánh mì cũ kỹ, nghe càng thấy đau khổ …”
Điệp từ “vì ai”, “sống làm chi”, như là sự dấy lên của căm phẫn, như là lời kết án, như là lời trách móc đối với những kẻ phản bội, những kẻ tham lam tàn bạo - đó chính là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ, tang thương … Nguyễn Đình Chiểu càng tôn vinh sự hy sinh vẻ vang của người nghĩa quân bấy nhiêu, càng chỉ trích lối sống ích kỷ của bọn thống trị. Ông mong muốn những người anh hùng đó luôn được dân tộc, đất nước ghi nhớ. Nhà thơ Đồ Chiểu qua đó một lần nữa khẳng định lối sống cao quý của người Việt Nam thông qua những tấm gương hy sinh sáng chói. Vì vậy, Phạm Văn Đồng đã đúng khi nói về cụ Đồ Chiểu: “Ngòi bút … xưa kia chỉ thường thấy cày cuốc bỗng chốc trở thành anh hùng cứu nước” …
Kết thúc bài tế là những lời như là lời thổ lộ tâm huyết:
“Sống là đánh giặc, chết cũng đánh giặc
Linh hồn theo giúp cơ bụng, muốn kiếp nguyện trả thù kia ..
Dù đã khuất nhưng tâm hồn vẫn hiện hữu, ý chí vẫn tồn tại. Có thể theo quan điểm của tác giả, linh hồn người nghĩa sĩ vẫn ôm trọn cuộc sống để theo đuổi sứ mệnh đánh giặc cứu nước đến cùng. Có lẽ Nguyễn Đình Chiểu tin rằng “những điều chính nghĩa không thể bị tiêu diệt …”
Dù bài văn tế đã kết thúc, nhưng hương thơm dân tộc vẫn vương vấn, dành cho linh hồn của những người nghĩa sĩ.
Theo đánh giá của đồng chí Phạm Văn Đồng: “Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu chính là tâm hồn của ông, đã diễn tả một cách sống động và cảm xúc, lòng yêu nước của dân tộc đối với những chiến sĩ nghĩa quân. Từ một người nông dân, đã từng chỉ quen làm việc cày cuốc, bỗng trở thành một anh hùng cứu nước …” Bài văn tế cho các nghĩa sĩ ở Cần Giuộc đã rõ ràng chứng minh điều này.
Bài văn tế sẽ mãi mãi mang trong mình hương thơm của dân tộc dành cho những người trung thành, những anh hùng của đất nước.
Phân tích về bài văn tế về các nghĩa sĩ ở Cần Giuộc - Mẫu 5
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu nước sâu sắc, chịu nhiều bi kịch và khổ đau trong cuộc đời. Ông cảm nhận mạnh mẽ nỗi đau mất nước khi thấy nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Ông viết bài văn tế cho các nghĩa sĩ ở Cần Giuộc, thể hiện lòng tôn kính và tiếc thương không lời của mình cũng như của nhân dân dành cho những anh hùng này.
Oh!
Âm thanh của súng giặc làm đất động; lòng dân bày tỏ trên bầu trời...
Khi Tổ quốc gặp nguy, khắp nơi trên lãnh thổ đều rộn ràng tiếng súng. Từ sự hiểm nguy, nỗi đau đớn đó, tình yêu đối với đất nước của những người nông dân thường dân mới thể hiện, và vẻ đẹp chân thật của tâm hồn trong họ mới được thể hiện trước trời đất.
Tấm lòng, tình yêu với quê hương, tổ quốc của những người nông dân khiêm tốn được thể hiện rõ ràng và sâu sắc hơn khi tác giả liên tục so sánh các phần đối lập trong các câu văn sau đó.
Hồi tưởng về những người lính xưa:
Không quen việc đầy đủ; sống trong hoàn cảnh nghèo khó,
Chưa biết cưỡi ngựa; không được đào tạo trong binh đoàn;
Chỉ quen với công việc trên cánh đồng, trong làng quê.
Việc canh tác, cày cấy, trồng trọt, là công việc họ quen thuộc;
Học cách sử dụng khiên, súng, găng tay, cờ, là điều mới lạ, họ chưa từng làm...
Trước đây, họ vẫn tồn tại, nhưng chỉ sống cuộc sống “cui cút làm ăn”. Họ tồn tại, nhưng chỉ là ẩn mình trong im lặng. Trong cuộc sống hàng ngày, họ chỉ có lo lắng về “miếng cơm manh áo”; họ chỉ làm việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, và trở thành bạn của con trâu, của ruộng đồng. Họ chưa từng biết đến “cưỡi ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa trải qua chiến trận, chưa được rèn luyện, chỉ vì lòng yêu nước mà họ dũng cảm đứng lên đánh giặc.
Khi “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ chờ đợi mệnh lệnh từ triều đình như chờ đợi mưa trong thời tiết khô cằn.
Nhưng thật bi kịch khi ở đây: triều đình yếu đuối, không hiểu được lòng yêu nước của nhân dân. Lòng căm thù giặc của những người nông dân không thể kiềm chế:
Mùi của đất đã được tinh chế suốt ba năm, họ ghét mọi thứ giống như những gì mà nhà nông ghét cỏ.
... Khi thấy một chút đám mây trắng che khuất mặt trời, họ muốn đi săn; khi thấy cột khói đen bốc lên từ xa, họ muốn ra đánh gục kẻ thù.
Hình ảnh của những người nông dân, những nghĩa sĩ yêu nước hiện lên rất quả cảm và hào hùng. Tình yêu đối với đất nước chính là nguồn cảm hứng từ trái tim của họ, khiến cho họ trở nên rực rỡ, lấp lánh. Vẻ đẹp của những nghĩa sĩ nông dân yêu nước phát ra từ sự sục sôi của lòng căm thù giặc. Đúng là lòng căm thù đó đã biến thành hành động bất khuất, quật cường.
Ai đòi, ai bắt, bây giờ xin ra sức đoạn kình này:
Không trốn lẫn, không né tránh, chuyến này quyết tâm đối đầu với kẻ thù.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, khi người nông dân phải ra đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua, họ mang theo tâm trạng “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa”. Tuy nhiên, ở đây, người nông dân theo Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác biệt. Họ tự nguyện, tự giác đứng lên chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, giang sơn, và điều này là nét đẹp chân thực nhất trong hành động của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã rõ ràng miêu tả vẻ đẹp trong tâm hồn và hành động của những người nông dân yêu nước. Họ mang theo động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử, tạo ra sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã đứng lên chống giặc mà không cần bắt đầu, chỉ cần “ngoài cật có một manh áo vải dạ mang theo tấu, bầu ngòi, cầm một cành tầm vông, đâu đó cầm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh của người nông dân trong tác phẩm khiến ta vừa tự hào vừa cảm thấy tiếc nuối. Những người nghĩa sĩ dường như là hiện thân của sức mạnh dân tộc, đối mặt với kẻ thù mạnh mẽ với vũ khí thượng hạng, họ chỉ có vũ khí thô sơ như “một manh áo vải', “một cành tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Mặc dù tình hình chiến đấu không cân xứng, nhưng những người nghĩa sĩ vẫn dũng cảm chiến đấu và thắng lợi, với tinh thần hy sinh bản thân để bù đắp sự chênh lệch về vũ khí.
Từ bi kịch này, hình ảnh của những người nông dân yêu nước trở nên rực rỡ. Bằng lòng ngoan cường và tình yêu quê hương mạnh mẽ, họ đã thể hiện điều phi thường và viết nên anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Mặc dù đối mặt với hiểm nguy và chênh lệch, họ vẫn dũng cảm và quyết tâm, hy sinh bản thân cho nghĩa vụ của mình, tạo ra một chiến công vĩ đại. Dù hoàn cảnh chiến đấu không thuận lợi, nhưng với tinh thần quyết chiến và hy sinh, họ đã chiến thắng mọi khó khăn.
Chỉ với những vũ khí đơn giản như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt cháy nhà giáo lý kia,
Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém đầu các quan địa phương.
Kẻ đâm từ phía sau, kẻ chém từ phía trên, khiến cho kẻ thù hoảng sợ.
Với những vũ khí giản dị nhưng tinh thần yêu nước, lòng dân đã tạo ra những điều kỳ diệu. Hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ lóng lánh với chủ nghĩa yêu nước dường như làm phai nhạt đi thời kỳ đen tối của lịch sử mất nước trong nửa sau của thế kỷ XIX.
Bài văn tế mang cảm xúc bi tráng, lời văn sắc sảo, âm điệu mãnh liệt, sôi động. Nghệ thuật so sánh đã được thể hiện hiệu quả nhất. Tất cả tạo nên một tác phẩm như một bản hòa âm chiến đấu hùng hồn, phấn khích của một ca khúc anh hùng tuyệt vời. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của những người nông dân nghĩa sĩ, với những tư tưởng vĩ đại mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động tự nguyện chiến đấu giải cứu đất nước.
Bài văn tế như một bức tượng đài bằng lời nói, điêu khắc ra hình tượng của những người nông dân nghĩa sĩ hào hiệp mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông họ. Bức tượng đài đó là biểu tượng thể hiện một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và cũng là dấu hiệu của một giai đoạn lịch sử đen tối của dân tộc ta - thời kỳ trăm năm Pháp thuộc. Tuy nhiên, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ và cả dân tộc Việt Nam vẫn chiếu sáng nhờ vào lí tưởng cao đẹp của những người nông dân nghĩa sĩ, họ sẵn lòng hy sinh cho nghĩa lớn, cho dân tộc.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 6
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ hàng đầu ở Nam Bộ thời kỳ văn học Trung đại, là một ngôi sao sáng trong văn học dân tộc. Ông để lại một di sản sáng tạo lớn, thể hiện tinh thần nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong số các tác phẩm của mình, không thể không nhắc đến bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Trong bối cảnh Pháp xâm lược, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổi lên và giành thắng lợi ban đầu. Nhưng sau đó, kẻ thù phản công mạnh mẽ, làm mất đi 20 người anh hùng. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết một bài văn tế để trình diễn trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Trong phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu bàn về sự sống và cái chết: “Súng giặc gõ đất; lòng dân hiện rõ/ Mười năm lao đao, danh tiếng vẫn không thể nổi như phao; một trận đánh Tây, dù không có tiếng vang nhưng vẫn là điều rất quan trọng”. Tác giả mô tả một thời đại với nhiều biến cố, cơn bão khốc liệt: giặc được trang bị vũ khí hiện đại, đã tàn sát nhiều người dân Nam Bộ. Tình yêu quê hương đã thách thức lòng can đảm của con người. Những người dân Nam Bộ không ngần ngại hy sinh tất cả, đánh đổi tài sản và tính mạng để giữ vững danh tiếng, để trở thành anh hùng trong lòng dân tộc. Họ làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm mô tả hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ, mộc mạc, giản dị nhưng cũng vô cùng kiên cường dũng mãnh. Trước khi giặc tới, họ chỉ là những người nông dân bình thường, sống cuộc sống bình dị, đầy gian nan và khó khăn. Họ chưa biết đến thế giới bên ngoài làng quê nghèo. Mỗi ngày, họ làm việc cày cấy, bừa mả, chẳng biết đến sự chuẩn bị cho chiến tranh. Nhưng khi giặc xâm lược, họ đã sẵn sàng đứng lên và thay đổi cảm xúc và ý thức của mình. Họ nhận ra trách nhiệm của mình với quốc gia và không ngần ngại đấu tranh chống lại kẻ thù.
Trong trận đánh, họ không có vũ khí, chưa từng được huấn luyện quân sự. Đồng thời, kẻ thù được trang bị vũ khí hiện đại và được rèn luyện tinh nhuệ. Mặc dù tỷ lệ lực lượng không bằng nhau, nhưng những người nông dân nghĩa sĩ vẫn không sợ hãi. Sử dụng ngôn từ mạnh mẽ và nhanh chóng, tác giả mô tả cảnh chiến đấu khốc liệt và vẻ đẹp của những người nông dân nghĩa sĩ: kiên cường, dũng mãnh và không khuất phục.
Những vũ khí tối tân của kẻ thù đã khiến rất nhiều người anh hùng hy sinh, gây ra niềm tiếc thương cho dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, gia đình và dân tộc là sự tiếc thương cho những người dũng cảm đã hy sinh. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc: “Thà chết để đối phó với kẻ thù, còn hơn là sống dưới sự áp bức; hơn nữa, sẵn lòng đối đầu với kẻ thù đầy đáng sợ”. Đoạn thơ thể hiện sự đau buồn nhưng không yếu đuối.
Các câu thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong lòng tiếc thương và ngưỡng mộ của người sống sót. Đồng thời, nó tôn vinh sự hy sinh của họ vì nền nghĩa lớn. Trong đó, câu: “Nước mắt anh hùng chưa từng dừng, thương vì chữ nghĩa quê hương; cây hương nghĩa sĩ càng thắm thơm, cảm ơn bởi từ vị đất nước” không chỉ diễn đạt sự đau xót và nhớ nhung với những người đã khuất mà còn ca ngợi công trạng của họ so với triều đình.
Ngôn từ mộc mạc, giản dị, gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ. Tạo dựng hình ảnh nghệ thuật - nông dân nghĩa sĩ chân thực, chi tiết, sống động, lần đầu tiên những người nông dân được mô tả với sự trang trọng, đẹp đẽ như vậy. Kết hợp hài hoà các chi tiết để diễn đạt tình cảm của người viết, tăng tính chân thành cho bài văn tế và dễ dàng gây ấn tượng với người đọc.
Bằng ngôn từ giản dị, phong phú cảm xúc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thành công vẽ nên bức tượng đài trường tồn về những nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời, qua tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tiếc thương trước công trạng và sự hy sinh bất khuất của họ.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 7
“Trên trời có những vì sao sáng chói... chúng ta phải tập trung để nhìn thấy và càng nhìn thấy, càng hiểu rõ” là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về cuộc đời và văn chương của Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu, mặc cho tình trạng mù màu của mắt, tâm hồn ông vẫn sáng ngời. Khi nhắc đến ông, người ta không thể không nhớ đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - một tác phẩm xuất sắc và thành công nhất của thể loại văn tế, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm này thể hiện lòng biết ơn, sự thương tiếc và tôn trọng của tác giả dành cho những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người dũng cảm, quên mình vì quê hương. Để phân tích bài văn một cách toàn diện và độc đáo nhất, chúng ta cần nhìn nhận từ góc độ tinh thần yêu nước của người nông dân.
Những người nông dân ban đầu là những người đơn giản của làng quê, nhưng bây giờ vì lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, họ đã trở thành những chiến binh anh dũng đã hy sinh trong trận đánh rạng sáng tháng 11 năm 1861 - thời điểm đau buồn của những ngày đầu chống Pháp.
Tại sao lại như vậy? Bởi vì câu “Súng giặc gầm; lòng dân trời biết” tóm tắt được hoàn cảnh, tình hình của đất nước vào thời điểm đó. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, chiếm đóng, thực hiện những chính sách áp bức, bóc lột nặng nề khiến dân ta chịu đựng trong cảnh lầm than cùng cực. Câu văn này đã cho thấy sự tàn bạo của thực dân Pháp. Họ có vũ khí hiện đại, sức mạnh tấn công dữ dội, tiếng súng nổ vang rền khắp nơi. Điều đó khiến chúng ta nhớ về tội ác của giặc Pháp được tác giả phê phán trong bài “Chạy giặc”:
“Chợ tan tiếng súng Tây vang
Bàn cờ thế phút phải sang tay
Nhà cửa trẻ em lơ lửng bỏ
Bầy chim dáo dác bay khắp nơi
Bến Nghé cửa tiền sóng nước bắn tan
Tiếng súng vô tình của quân giặc không tha thứ cho bất kỳ ai, không bỏ sót bất kỳ cảnh vật nào. Mọi thứ trở nên hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau tiếng súng của giặc. Giặc, với sự hiện đại hơn rất nhiều về trang bị và vật chất, số lượng lính đánh còn chúng ta chỉ có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước mạnh mẽ của người nông dân, của những con người Việt Nam. Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng một cách thành công, chính xác: Mười năm <> một trận, công (vật chất)<> nghĩa (tinh thần), không nhất thiết phải nổi danh như phao<> tuy là không có tiếng vang nhưng đã thể hiện quyết tâm đánh giặc, là nền tảng để người nông dân xuất hiện. Tiếng khóc “hỡi ôi” quen thuộc mở đầu cho bài tế. Tiếng khóc lớn diễn đạt nỗi đau xót, tiếc thương cho linh hồn của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.
Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại hình ảnh của những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người nông dân đơn giản của thôn quê, nhưng lại có tinh thần yêu nước mạnh mẽ với cụm từ “Nhớ linh xưa”. Ban đầu, họ là những người làm ruộng, làm nghề nông, gặp gỡ khó khăn trong cuộc sống. Nhà thơ thể hiện lòng thương cảm đối với họ, những người hiền lành, làm việc vất vả. Họ là những con người chất phác, làm việc nông nghiệp “chỉ biết ruộng trâu”, giao tiếp hạn hẹp “ở trong làng bộ” với công việc của người làm ruộng “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Họ chưa từng biết đến binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng” rồi “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Dù họ chưa có kinh nghiệm đó, nhưng khi giặc xâm lăng, họ dũng cảm trở thành những anh hùng cứu nước.
Ban đầu, họ cũng kỳ vọng vào sự hỗ trợ của triều đình. Nhưng trước tình hình nguy cấp, triều đình bất lực khiến cho nhân dân thốt lên rằng “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, chờ tin quan như chờ mưa trời”. Biểu tượng “tiếng phong hạc” lấy từ câu “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” để diễn đạt sự lo lắng, hồi hộp, sợ hãi trước sự tấn công dã man của kẻ thù. Là dân làng, họ chỉ biết trông cậy vào quan phụ mẫu của mình mong đất nước được yên bình để họ có thể an tâm lập nghiệp, nhưng chỉ là một sự chờ đợi mòn mỏi trong vòng mười tháng dài. Và tất nhiên, họ không thể nhìn thấy đất nước rơi vào tay kẻ thù. Trước đó, họ chỉ ghét chúng vì “mùi tinh chiên vấy vá”, tức là mùi hôi tanh của giặc Pháp với sự so sánh độc đáo “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Đó là điều tự nhiên. Cách sử dụng từ ngữ rất sáng tạo phản ánh tâm trạng và suy nghĩ của người dân. Sự căm hận được đẩy lên mức độ cao hơn khi “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Sự đau đớn tột cùng, sự căm thù đến tột cùng phải đến câu sau mới lên đến đỉnh cao “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Biểu tượng, kiệt tác, từ ngữ Hán Việt đặc biệt thành ngữ “treo dê bán chó” được dùng để thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc, cái nhìn sắc bén của nhân dân. Mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp bị lật tẩy, bộc lộ dã tâm cướp đoạt nước ta của chúng.
Truyền thống và tinh thần dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thúc đẩy họ nổi dậy đấu tranh với tất cả sức mạnh của người con Việt. Nhà thơ ngưỡng mộ tinh thần và hành động của họ, hoàn toàn tương phản với sức mạnh vật chất của người nông dân. Họ không chờ đợi ai mà tự nguyện chiến đấu “lần này dốc hết sức, không chần chừ, không trốn tránh, cuộc này dùng hết sức mạnh” hàng loạt động từ chỉ hành động thể hiện quyết tâm kiên trì, khí thế hào hùng tiếp nối tinh thần hào hùng của thời kỳ nhà Trần. Họ “Rũ bùn đứng dậy sáng loá” chiến đấu khi chỉ có trong tay những vật dụng đơn giản, là những công cụ làm việc hàng ngày của người nông dân như chiếc áo vải, cành vòng, rơm con cúi, lưỡi dao... Họ không phải là dòng họ binh lính, không được đào tạo, không có tổ chức, không có quy tắc, vũ khí của họ cũng thô sơ. Chính những “điều không” đó làm nổi bật lên “điều có” vô giá tiềm ẩn trong con người Cần Giuộc. Vì họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có tinh thần yêu nước bất diệt, có tình yêu cho dân tộc không biến. Điều đó tạo nên sức mạnh không thể đánh bại để họ vượt qua, coi giặc như không, không sợ đạn lớn đạn nhỏ mà dám mạnh mẽ tiến vào như không có, rồi người đánh trộm, kẻ chém ngược khiến quân giặc hoảng sợ. Giọng điệu hào hùng, sôi nổi qua cách ngắt nhịp, nhịp điệu nhanh, dồn dập cùng với các động từ mạnh mẽ “rũ bùn đứng dậy”, “xông cửa đâm vào”, “đâm ngang chém ngược” và một phong cách văn chất sắc bén, hùng tráng để thể hiện cái ý trung kiên, quật cường với thái độ căm hận giặc như muốn ăn gan, uống máu kẻ thù.
Sự thương tiếc của nhà thơ dành cho những người anh hùng đã khuất được thể hiện qua câu mở đầu “Khá thương thay” ở đoạn ba. Đến đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện để bày tỏ lòng thương cảm và lời cầu nguyện của người tôn kính. Giọng điệu bi ai giảm xuống đến cảm xúc đau buồn sâu sắc. Tác giả thương xót cho những người dân phải chịu đựng khó khăn, đau khổ “ăn tuyết nằm sương” khi “xiêu mưa ngã gió”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc rằng “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ không chịu khuất phục, uống mừng làm nô lệ. Sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng đầy thương tiếc là niềm hi vọng, mong muốn của tác giả. Ông mong muốn cho đất nước được thái bình, dân chúng được giải thoát khỏi cảnh lầm than khốn khó, mong muốn cho dân tộc không còn chịu bó shadow của kẻ thù. Dù bị mù không thể tham gia trận chiến nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn tham gia cùng các lãnh đạo nghĩa quân họp bàn, lên kế hoạch đánh giặc. Khi giặc chiếm đóng Nam Kì, ông ở lại Ba Tri bị chúng dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông kiên trung từ chối, giữ vững tấm lòng với dân tộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một trong những tác phẩm văn xuất sắc nhất thuộc thể loại văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm đã mang lại những đóng góp độc đáo cho văn học dân tộc cũng như nghệ thuật sáng tạo. Đầu tiên, nó đã đưa hình tượng người nông dân Việt Nam lên văn học với những nét đặc trưng nhất về ngoại hình, tính cách, và tâm trạng rõ ràng. Đề tài của tác phẩm liên quan chặt chẽ đến thực tế của đất nước. Đáng chú ý là sự thay đổi trong tư duy về quân thời gian đó theo hướng tăng cường hiện thực, giảm bớt yếu tố lý tưởng. Tác phẩm đã biến văn học trở thành vũ khí trong cuộc chiến chống lại quân thù, chống lại những tư tưởng đầu hàng và kẻ phản bội đất nước. Thứ hai, nó sử dụng thành công những kỹ thuật nghệ thuật quý giá. Bài văn được viết theo thể phú Đường luật với cấu trúc vần và độc vận. Ngôn ngữ biểu cảm trực tiếp, miêu tả rõ ràng các tình trạng khác nhau như buồn bã, hạnh phúc. Sử dụng linh hoạt các từ ngữ tạo hình ví dụ như cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ. Ngôn ngữ đơn giản, gần gũi với bản sắc văn hóa Nam Bộ: cui cút, vấy vá, rơm con cúi, dao phay. Kết hợp với những điển tích, biểu tượng như tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu. Nghệ thuật so sánh đặc trưng của văn tế hiện rõ qua cách sắp xếp câu văn cùng với việc sử dụng ngôn ngữ phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/không chờ...” Nghệ thuật này tạo ra sự tương phản hiệu quả giữa hai mức độ là “Hỏa mai...gươm đeo.../ Chi nhọc quan quản chẳng sợ thằng Tây.../ Kẻ đâm ngang bọn hè trước...súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt, từ trang trọng đến bi thương khi diễn tả những cảnh khác nhau trong tác phẩm.
Nhờ những điều đó, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã được vẽ nên với tư duy anh dũng, sẵn lòng hy sinh vì lý tưởng cao cả của họ “Hình ảnh ấy trở thành một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, tiêu diệt tất cả những kẻ phản bội và kẻ cướp nước”. Tinh thần và nhân cách của họ trở thành điều đẹp đẽ, đáng kính trọng và là nguồn động viên cho thế hệ trẻ Việt Nam. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu tập trung vào truyện thơ dài như Lục Vân Tiên để truyền bá lý lịch sử và tư tưởng làm người. Tuy nhiên, sau năm 1858, thơ văn của Đồ Chiểu trở thành điểm tựa cho văn chương chống Pháp đầu thế kỷ XIX, đẩy lên tinh thần yêu nước. Văn tế đã đóng góp để Nguyễn Đình Chiểu trở thành một ngôi sao sáng tỏa sáng theo cách đặc biệt của mình trong bức tranh văn học của dân tộc.
Bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 8
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc đời ông không được suôn sẻ, năm 1849 ông phải bỏ thi để về chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị đau mắt rồi mất khả năng nhìn, sau đó ông trở về dạy học và bốc thuốc cho dân, cuối cùng tham gia vào cuộc chiến chống Pháp. Có lẽ vì đã nhiều thời gian gắn bó với người dân, đặc biệt là nông dân, ông hiểu biết về những khó khăn, vất vả mà họ phải đối mặt, nhưng cũng nhìn thấy vẻ đẹp hào hoa, sẵn sàng hy sinh vì dân tộc của họ. Đó là lý do tại sao ông viết bài văn hùng tráng 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' theo yêu cầu của Đỗ Quang.
Bài văn được chia thành bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Với cấu trúc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên trong lòng người đọc, người nghe một tác phẩm vĩ đại về người nông dân.
Trong phần mở đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên ý nghĩa của cuộc sống và cái chết. Đó là sự đứng lên chống lại thế lực xâm lăng bằng cách sử dụng vũ khí để bảo vệ đất nước, trong khi lòng dân thì sẽ hiện ra. Ông đã diễn đạt sự phẫn nộ của nhân dân trước việc nước nhà bị xâm lăng. Ngoài ra, ông cũng so sánh giữa việc làm ruộng và chiến đấu, chỉ ra rằng việc làm ruộng mất công sức nhiều hơn, nhưng chiến đấu vì tổ quốc mang lại danh vọng lớn lao như một trận chiến.
Cũng bởi vì lòng yêu nước và sự căm thù giặc, những người nông dân đã đứng lên kháng chiến. Họ không sợ chết, đầy lòng kiêu hãnh và quyết tâm giết chết kẻ thù. Điều này khiến họ sẵn lòng hy sinh tất cả cho tổ quốc, dù vũ khí của họ chỉ là những công cụ đơn giản nhưng họ vẫn dũng cảm đối đầu với địch.
Trong phần kết, tác giả nhấn mạnh rằng cuộc sống của con người là phải hy sinh cho đất nước, giống như những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã làm. Dù họ đã ra đi, nhưng họ sẽ mãi sống trong lòng dân tộc.
Trong phần kết, tác giả nhấn mạnh rằng cuộc sống của con người là phải hy sinh cho đất nước, giống như những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã làm. Dù họ đã ra đi, nhưng họ sẽ mãi sống trong lòng dân tộc.
Tóm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là một bức tranh bi tráng về tinh thần chiến đấu và sự hy sinh của dân tộc, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiên cường. Bài văn cũng là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc về việc miêu tả nhân vật và sự kiện một cách sinh động và chân thực.
Phân tích về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 9
Nguyễn Đình Chiểu sinh ra trong một gia đình theo phái Nho giáo. Năm 1846, ông trở về Gia Định, mở trường dạy học, chữa bệnh cho người dân và sáng tác thơ văn. Mặc dù bị quân Pháp cám dỗ, ông vẫn giữ vững lòng trung kiên với đất nước và nhân dân. Tác phẩm của ông thấm đẫm lý tưởng cao đẹp, về đạo đức và lòng nhân từ, với những người sống cao quý, nhân hậu và trung trực, dám đấu tranh và đủ mạnh mẽ để đánh bại những thế lực tàn bạo, cứu người đang gặp nguy hiểm.
Bài 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' chính là một minh chứng cho điều đó. Đây là tiếng khóc từ tận đáy lòng tác giả và là tiếng khóc lớn của cả nhân dân trước sự hy sinh của những anh hùng. Văn tế là một dạng văn thường được sử dụng trong lễ tế cúng cho người đã khuất, nó mang tính tượng trưng. Bài văn tế gồm bốn phần: Lung khởi - miêu tả tổng quát về người đã mất, Thích thực - những kỷ niệm về đức tích của người đã qua đời, Ai vãn - lời than tiếc người đã mất, và phần kết nêu ý nghĩa và lời kêu gọi của người cúng tế đối với linh hồn người đã khuất. Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thực hiện đầy đủ cấu trúc này.
Mở đầu bài thơ là một đoạn than thở:
'Hỡi ôi! Súng giặc làm đất rơi, lòng dân thì trời sẽ hiện ra'
Tiếng khóc vang lên, thấu đến tận cõi lòng. Tiếng than đó là hình ảnh của tang thương chết chóc, biểu tượng cho cảnh chiến tranh tàn khốc, nơi mà những anh hùng hy sinh trên chiến trường. Người trời thấu hiểu lòng người, cảm nhận được nỗi đau thương của những người thân nhân đã mất. Tiếng khóc bi thương của tác giả phản ánh sự cảm phục và thương xót vô tận đối với những anh hùng nông dân. Các chi tiết như 'xác phàm vội bỏ', 'nào đợi gươm hùm treo mộ', 'tấc đất ngọn rau ơn Chúa', 'tài bồi cho nước nhà ta', 'quan quân khó nhọc', 'ăn tuyết nằm sương', 'đồn lũy tan tành' thể hiện lòng thương cảm và đau xót của tác giả, khẳng định nghĩa binh không chỉ là những người bình thường, mà còn là những người dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì lòng yêu nước.
Ngoài ra, tác giả mô tả hình ảnh của người chiến sĩ, với vẻ đẹp chân thực bên ngoài: 'chẳng qua là dân ấp dân làng', 'ngoài cật có một manh áo vải', 'trong tay cầm một ngọn tầm vông'. Đó là hình ảnh của những người dân chất phác, chân thật, sống trong cảnh cơm không đủ no áo không đủ ấm. Cuộc sống hàng ngày của họ được mô tả bằng những câu văn đơn giản, mộc mạc, hiểu được không cần phải nhiều từ, họ là những người 'cui cút làm ăn toan lo nghèo khó', 'chưa quen cung ngựa', 'việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó'. Từ đó, ta có cái nhìn tổng quan nhất về người dân. Họ không mong muốn chiến tranh, chỉ muốn cuộc sống bình yên nhưng khi tổ quốc lâm nguy, họ lại có tinh thần kháng chiến sôi nổi. 'Súng rền' cho thấy bọn giặc sử dụng vũ khí tân tiến, không chỉ là gậy gộc, khiên mác, điều này cho thấy khoảng cách về vũ trang giữa hai bên. Nhà văn đã miêu tả vẻ đẹp của người dân yêu nước, đơn giản mà tuyệt vời: 'Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng trông tin quan trường như trời hạn trông mưa mùa chinh chiến vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhà hồn ghét cỏ'.
'Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ'. Dù là dân ấp dân làng, ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm một ngọn tầm vông, họ vẫn sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn 'hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ', 'chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to xô cửa xông vào liều mình như chẳng có' và thế là 'kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho tà mã ma ní hồn kinh bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ'.
Tác giả đã thành công khi mô tả hình ảnh nghĩa quân Cần Giuộc. Từ nguồn gốc, hình dáng và hành động của họ, ta nhận thấy họ chỉ là những dân bình thường, chăm chỉ và giản dị. Nhưng khi nước nhà gặp nguy, họ tự nhận trách nhiệm và sẵn sàng hy sinh vì đất nước. Cách miêu tả họ rất tỉ mỉ, từ trang bị thô sơ đến hành động dũng cảm, họ dành trọn tình yêu cho đất nước.
.........
Mời bạn tải tài liệu để tham khảo thêm về Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc khách hàng và chỉ dành cho khích lệ tinh thần trải nghiệm du lịch, chúng tôi không chịu trách nhiệm và không đưa ra lời khuyên cho mục đích khác.
Nếu bạn thấy bài viết này không phù hợp hoặc sai sót xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email [email protected]