TOP 6 mẫu phân tích chất thép và chất tình trong Chiều tối của Hồ Chí Minh mà Mytour giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11. Với 6 bài văn mẫu này sẽ giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần nghị luận.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối đã cho thấy tinh thần thép của một người chiến sĩ và một tâm hồn nhạy cảm của người thi sĩ ở Hồ Chí Minh. Và dưới đây là 6 bài văn mẫu phân tích chất thép và chất tình trong Chiều tối, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Dàn ý chất thép và chất tình trong Chiều tối
1. Mở bài :
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
- Nêu vấn đề cần thảo luận
2. Nội dung chính:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
- Giải thích:
+ Chất thép trong bài thơ Chiều tối: biểu hiện ý chí mạnh mẽ, kiên cường, và niềm tin vào mục tiêu của người chiến sĩ cách mạng.
+ Chất tình trong Chiều tối: là những cảm xúc, tình cảm sâu lắng của thi nhân trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
+ Phân tích chất thép và chất tình trong Chiều tối (Mộ)
+ Hai câu đầu thể hiện hình ảnh thiên nhiên: chất tình.
+ Hai câu sau thể hiện sự lạc quan, niềm tin, và quyết tâm vào mục tiêu của người chiến sĩ cách mạng: chất thép.
- Về chất thép, chất tình trong thơ Bác:
+ Bài thơ thể hiện con người và phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh: sự cân bằng tinh tế giữa chất thép và chất tình.
3. Kết bài:
- Xác nhận vấn đề nghị luận về chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối.
Chất thép và chất tình trong Chiều tối - Mẫu 1
Chiều tối là một trong những bài thơ nổi bật của Hồ Chí Minh, thể hiện rõ tư duy và phong cách sáng tác độc đáo của ông. Chính chất thép và chất tình trong bài thơ này đã phản ánh rõ tinh thần kiên cường của người chiến sĩ và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ.
Bài thơ Chiều tối (Mộ) gồm bốn câu thơ, được chia thành hai phần. Hai câu đầu mô tả cảnh núi rừng hoàng hôn, hai câu cuối thể hiện tinh thần lạc quan của người chiến sĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt, với những câu thơ đầu thể hiện một cái nhìn xa xăm cùng với khát vọng tự do mãnh liệt, như cánh chim trời, hoặc sự mong mỏi về cái tự do nhẹ nhàng của chòm mây.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được thể hiện hài hòa trong từng câu thơ. Hai câu đầu tập trung vào tình yêu thiên nhiên và sự mơ mộng của người chiến sĩ - thi sĩ sau một ngày làm việc.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Ý nghĩa thực sự trong câu thơ đầu là hình ảnh một con chim mệt mỏi cuối chiều về rừng tìm nơi nghỉ sau một ngày dài bay, cùng với bức tranh thiên nhiên hoàng hôn, tạo ra bức tranh yên bình của buổi chiều tối.
Buổi chiều tà cuối ngày khiến tâm trạng con người nhớ quê nhà trở nên khắc khoải hơn. Cảm giác nhớ người thân, nhớ quê hương, nhớ khói lam chiều vương vấn... Điều này làm nổi bật chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối.
Hồ Chí Minh đã khiến người đọc cảm nhận được cảnh chiều tà lặng lẽ, u buồn nơi đất khách, qua đó thể hiện khát khao tự do thông qua hình ảnh cánh chim trời và đám mây giữa tầng không.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Việt Bắc tiếp tục được thể hiện ở hai câu thơ cuối. Hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô tối đã chứng tỏ chất tình chất thơ trong tác phẩm.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”
Hình ảnh cô gái xóm núi hiện lên như điểm nhấn làm tỏa sáng cả bức tranh thiên nhiên chiều tà, thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên.
Trên nền chiều tà u buồn, bức tranh cô thôn nữ xóm núi đã làm cho bài thơ trở nên lãng mạn, đầy chất tình.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối đặc biệt độc đáo. Bên cạnh chất tình, chúng ta còn cảm nhận được chất thép mạnh mẽ của người chiến sĩ.
Hai câu thơ cuối bài thể hiện chất thép sâu sắc và đậm nét hơn cả, thể hiện tinh thần lao động chăm chỉ, sự lạc quan trong tư tưởng của người chiến sĩ.
Màu hồng của lò than, từ hình ảnh cô gái lao động chính là niềm tin, là sự sắt đá trong tư tưởng người chiến sĩ, và cũng chính là chất thép trong bài thơ này.
Hình ảnh cô gái sơn cước xay ngô khỏe khoắn, lao động mạnh mẽ là một phần phát triển của chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được thể hiện qua tinh thần hiện đại trong hai câu thơ cuối. Hình tượng lò than kết thúc màu hồng lạc quan đại diện cho tinh thần lạc quan của người chiến sĩ.
Tinh thần chiến sĩ bình tĩnh, chủ động trước khó khăn chính là chất thép trong bài thơ.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối thể hiện con người Bác là một tinh thần lạc quan luôn đầy tin tưởng.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối thể hiện phong cách thơ riêng của Hồ Chí Minh, giao hòa giữa lý tưởng chiến sĩ và sự lãng mạn của tâm hồn.
Cảm nhận về chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 2.
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn là một nhà thơ tài hoa. Văn thơ của Bác luôn thể hiện những ý tưởng cao đẹp, tâm hồn cao quý và cuộc đời vĩ đại. Tác phẩm Chiều tối đã thể hiện tinh thần thép và chất tình qua bài thơ, sáng tác trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
Bài thơ Chiều tối nổi bật phong cách thơ Hồ Chí Minh, thể hiện tư tưởng sáng tạo và chất thơ độc đáo với chất thép và chất tình hài hòa.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”
Bài thơ lột tả khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, sự hòa quyện của con người và thiên nhiên, tạo nên bức tranh sinh động. Ở 2 câu thơ đầu, tác giả mô tả bức tranh thiên nhiên chiều tối, với cánh chim và bầu trời chiều tối, áng mây buồn lãng vãng.
Trong con mắt của người thi sĩ, thiên nhiên chuyển động chậm trong buổi chiều tối, ánh nhìn buồn man mác, cảnh vật cũng buồn theo. Trong mắt thi sĩ, nó không chỉ đơn giản là thiên nhiên mà đó còn là tâm trạng của Bác, nhớ người thân, nhớ quê hương, có một chút lạc lõng, chơi vơi trong từng câu thơ.
Hai câu thơ đơn giản chứa đựng nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương, khao khát tự do, sải cánh như chim trời, nhẹ nhàng như áng mây. Hiện thực là cảnh trời đất u buồn, giềng xích, lạc lõng và cô đơn của người chiến sĩ ở nơi xa lạ, mênh mông và hiu quạnh.
'Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”
Hai câu thơ cuối thể hiện chất tình. Thời gian chuyển mình nhanh chóng, từ buổi chiều tà với đám mây như lò than sắp tắt đến bóng tối bao trùm và làm nổi bật ngọn lửa hồng. Hình ảnh cô em trẻ trung lao động hăng say dưới ánh lửa hồng rất lãng mạn. Đã có sự chuyển mình ở hai câu thơ cuối, tả tĩnh với cánh chim mệt mỏi, tả động với cuộc sống con người hòa vào thiên nhiên.
Sự lãng mạn của hai câu thơ, con người và thiên nhiên hòa làm một, bổ trợ cho nhau. Thiên nhiên sẽ thiếu sức sống nếu không có hoạt động con người. Sự chăm chỉ của cô gái chính là vẻ đẹp lao động của con người Việt Nam. Ánh lửa hồng chính là khát vọng trở về quê hương, về bếp lửa.
Bức tranh chiều tối u buồn đã hiện lên với điểm sáng từ hình ảnh cô thôn nữ và ánh lửa hồng khiến bức tranh đầy chất lãng mạn, chất tình.
Bên cạnh chất tình của bài thơ phải kể đến chất thép. Đây chính là tinh thần thép, ung dung, tự tại giữa sự hà khắc của cuộc sống. Đọc bài thơ, người đọc không chỉ cảm nhận đây là bức tranh thiên nhiên đẹp, là tâm trạng nhớ nhà khắc khoải, khát vọng tự do mà còn là thái độ ung dung, tự tại giữa cuộc đời phong ba bão tố. Chất thép hiện rõ lên trong từng ý thơ.
Để tìm hiểu chất thép chúng ta còn phải hiểu hoàn cảnh của bài thơ ra đời. Hoàn cảnh khắc nghiệt khi Bác bị đày từ nhà tù này đến nhà tù khác, chân bị gông cùm, tay xiềng xích, thân thế mệt mỏi rã rời, gầy guộc. Vậy mà trong lúc hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng thế này Bác vẫn có thể cảm nhận sự chuyển mình của thiên nhiên, vẫn có thể gửi gắm tâm tư mình vào thơ ca cho thấy một tinh thần thép, kiên cường, mạnh mẽ mà không phải người bình thường nào trong hoàn cảnh ấy cũng làm được.
Đặc biệt trong hai câu thơ cuối, tinh thần thép thể hiện sự chuyển động mạnh mẽ của hành động xay ngô tối và ánh lửa hồng. Ngoài tính chất lãng mạn nó còn thể hiện cho sự mạnh mẽ trong tâm hồn thi sĩ. Ánh lửa hồng xua tan đi mệt mỏi, chỉ còn lại sự hoạt bát, tinh thần sáng sủa, hân hoan hướng về ánh sáng.
Hình ảnh cô gái, màu hồng của ánh lửa chính là niềm tin, là việc sắt đá trong tư tưởng của người chiến sĩ. Đây chính là tinh thần thé trong bài thơ. Cô gái hăng say xay ngô tối chính là sự hăng say hoạt động cách mạng, ánh lửa hồng chính là niềm tin lý tưởng, ánh sáng cách mạng. Nó luôn rực cháy và càng trong đêm tối càng sáng rực lên.
Chất tình và chất thép hòa quyện vào nhau tạo nên phong cách thơ Hồ Chí Minh. Khi đọc thơ, người đọc vừa cảm nhận được sự lãng mạn, vừa cảm nhận được sự mạnh mẽ trong lý tưởng, tâm hồn. Bài thơ vừa tỉnh, vừa lặng, không gian mở rộng từ trên cao xuống dưới núi, thời gian từ chiều đến tối với những đám mây lững thững, lãng đãng u buồn đến sự sôi động của hành động xay ngô tối và ánh lửa phập phồng. Sự mạnh mẽ, dẻo dai, uyển chuyển ngày càng thể hiện rõ trong câu thơ như chính tâm hồn, ý chí của Bác, cũng chuyển đổi mạnh mẽ hơn giữa những thử thách khắc nghiệt của cuộc đời.
Qua tác phẩm trên, chúng ta cảm nhận được Bác, một vị lãnh tụ vĩ đại, một nhà thơ lớn với tâm hồn lãng mạn và một trái tim thép, mạnh mẽ, đã soi đường chỉ lối để dân tộc Việt Nam rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Bài thơ chính là phong cách thơ Hồ Chí Minh qua từng chặng đường của cuộc đời, hành trình cứu nước đầy gian nan. Tự hào thay vì được là con dân của Việt Nam, là cháu, là con của Bác Hồ. Người lãnh tụ vĩ đại, người cha già đáng kính của dân tộc.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối (Mở rộng) - Mẫu 3
Đọc tập “Ngục trung nhật ký”, Hoàng Trung Thông viết:
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.
Thật vậy, 'Ngục trung nhật ký' (NTNK) đã làm toát lên bức chân dung của một người tù tự do, một người tù mà không một nhà tù nào, một gông xiềng nào giam hãm được. Vì vậy, đọc thơ Bác, người yêu thơ vẫn nhận thấy bất cứ bài thơ nào, câu thơ nào cũng thấm đậm chất thép. Thép trong thơ Bác uyển chuyển, tinh vi, linh hoạt. Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất thép trong thơ Người đó là bài “Chiều tối (Mộ)”:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Đây là bài thơ thứ 31 nếu đặt trong logic của toàn bộ tập thơ gồm 135 bài kể cả 2 bản bổ sung. Bài thơ được Bác viết trong một cuộc chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm toát lên chất thép cao cường của người chiến sĩ cách mạng. Để thấy được chất thép trong tác phẩm này, đầu tiên ta cần phải hiểu nội hàm của chất thép. Trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi”, Người có viết:
'Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong'
Cần phải khẳng định chất thép trong thơ là một hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ. Nó là tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ Cộng sản; là lòng yêu nước già dặn, mãnh liệt, sôi nổi của một con người; thậm chí nó còn là thái độ ung dung tự tại của một tù nhân ở ngay trong tù ngục. Vì vậy, khi bộc lộ trong thơ, nó không thể là tiếng nói trần trụi của một ý chí. Nó phải chuyển hóa linh hoạt thành hình tượng thơ, thành tình cảm thơ vì thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm, hình ảnh và lý trí. Nếu tình cảm là gốc rễ, lý trí là thân cành thì hình ảnh sẽ là hoa trái. Như vậy, đi tìm thép trong tập NTNK, nhất là trong bài thơ “Mộ” nói riêng, ta không thể đi tìm thứ thép lộ thiên mà phải tìm nó trong hình tượng thơ, trong tình cảm thơ. Chất thép càng chuyển hoá thành hình tượng, thành tình cảm sâu sắc bao nhiêu thì nó càng cao siêu, cao cường bấy nhiêu. Cao siêu nhất, cao cường nhất chính là ở điểm như Hoài Thanh đã nói: “Không phải có nói chuyện thép, lên giọng thép mới là có tinh thần thép.”
Chất thép trong bài thơ Mộ được thể hiện đầu tiên là ở lòng nhân đạo của người chiến sĩ Cộng sản. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với 2 câu thơ đầu hiện lên là bức tranh thiên nhiên được Bác vẽ bằng tâm hồn của một thi sĩ lãng mạn thông qua những thi liệu, rất cổ điển. Đó là hình ảnh cánh chim và chòm mây trở đi trở lại nhiều trong thơ cổ trung đại. Nhưng cái hay ở đây là cánh chim trong thơ Người không chỉ đơn thuần là nhằm để điểm xuyết thời gian như trong thơ cổ điển, ví như bà huyện thanh quan trong “chiều hôm nhớ nhà” đã viết:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Rặng liễu sương sa khách bước dồn”
Hay như trong ca dao có câu:
“Chim bay về núi tối rồi”
Ở đây, Bác đã nhìn thấu và bên trong sự vật hiện tượng để cảm nhận được cái sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày lam lũ kiếm sống. Điều này được thể hiện rõ khi Người đặt chữ “quyện” nghĩa là mệt mỏi lên đầu câu. Như vậy, Bác đã bước xa hơn Nguyễn Du trong kiệt tác truyện Kiều với hình ảnh:
“Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà my đã ngậm trăng nửa vành”
Như vậy Bác đã nhìn thấu vào sự vật hiện tượng để thấy được những sự mệt mỏi của những vật tưởng như vô tri vô giác. Điều ấy có nghĩa là Mộ nói chung, cũng như câu khai đề nói riêng đã được viết lên bằng một trái tim vô cùng nhân đạo. Trong trái tim của Bác chất chứa biết bao nhiêu chỗ đứng, thân phận, cảnh ngộ và cả những vật vô tri vô giác như nhánh lúa nhành hoa mà như Tố Hữu đã nói là:
“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Mà ở chỗ nào tình cảm sâu sắc nhất, nơi ấy chất thép được bộc lộ cao nhất. Đúng như Hoàng trung Thông đã nói:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Mặt khác, chất thép ở đây cũng biểu thị tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước mạnh mẽ, mãnh liệt của một con người. Ý tưởng này được thể hiện ngay từ câu thơ khai đề. Cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh đang quy lâm để tìm nơi trú ngụ. Khác biệt rõ ràng so với hình ảnh cánh chim trong thơ của Lí Bạch:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
Cánh chim trong thơ của Lí Bạch bay về nơi vô tận, trong khi cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh lại quy lâm để tầm túc thụ. Không thể phủ nhận rằng hình ảnh cánh chim này là biểu hiện cho khát vọng tự do, khát vọng đoàn tụ trong tâm hồn của Hồ Chí Minh, như Maxim Gorky đã nói: “Văn học là nhân học.” Văn học luôn nói về con người, từ xa xưa đến mãi sau. Ở đất khách quê người, Hồ Chí Minh biết mình đang ở đâu và đi đâu, khi phía trước chỉ là nhà lao và điểm xuất phát chỉ là một nhà tù. Nỗi nhớ quê hương từng khiến Người rơi vào tình trạng ốm đau nặng:
“Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh
Nội thương nước Việt cảnh lầm than”
Thậm chí, nỗi nhớ quê hương và lòng thương dân đã khiến Hồ Chí Minh không thể ngủ được:
“Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
Rõ ràng, cánh chim đó biểu hiện khát vọng đoàn tụ, tình yêu quê hương mạnh mẽ của Hồ Chí Minh, chính là sự hiện thân của chất thép trong bài thơ “Mộ” và cả tập thơ “Ngục trung nhật ký” nói chung.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở câu thơ thứ hai, Bác mở ra không gian cuộc giải phóng:
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Đó là một bức tranh mỗi ý thơ, mỗi lời thơ như một nét vẽ cụ thể. Bầu trời cao rộng là nền, chòm mây cô đơn trôi chậm chậm giữa sơn cước. Bức tranh này được vẽ bằng tâm hồn của một tù nhân, chân vướng xiềng, nhưng tâm hồn Bác vẫn tự do. Điều này thể hiện tinh thần thép cao cường, vượt ngục của Người. Từ sự tự do ấy, Bác vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đẹp, biểu hiện tình yêu nước và bất bình với chế độ nhà tù. Bác bày tỏ sự mệt mỏi với việc áp giải tù nhân, thậm chí cảnh giải lao khiến Người khó chịu, bất bình:
“Đã giải đi Nam Ninh
Lại giải về Vũ Minh
Giải đi quanh quẹo mãi
Kéo dài cả hành trình
Bất bình!”
Sau khi bị áp giải từ sáng sớm, Người phải đi bộ năm mươi ba cây số với chỉ có lưng bát cháo tù cầm hơi:
“Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa rách hết giày”
Đến thời điểm “Mộ”, nghĩa là chiều tối, sức Người đã mệt. Sự mệt mỏi được thể hiện qua từng hình ảnh thơ, rõ ràng trong hai chữ “mạn mạn” có nghĩa là “chậm chậm” với hai dấu nặng đi liền kề để miêu tả bước đi nặng nhọc của tù nhân sau một ngày bị áp giải. Ở đây, Bác phản đối việc nhà tù bất nhân đã tước đoạt mọi quyền của con người, và cũng bộc lộ lòng yêu nước, thái độ bất bình. Tất cả đều là biểu hiện của chất thép trong bài thơ “Mộ”
Như vậy, Bác viết bài thơ “Mộ” nói riêng, và tập “Ngục trung nhật ký” nói chung, bằng một trái tim mà Tố Hữu đã từng nói:
“Bác ơi tim bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
Sự mênh mông của trái tim Bác được thể hiện rõ trong hai câu thơ cuối. Khi ánh nắng phai, chim trời tan biến, bầu trời buông xuống theo thời gian. Ánh nhìn bao trùm không gian “Độ thiên không” giờ đây lại thu lại để mô tả một xóm núi, nơi có sơn thôn. Trên núi, hình ảnh một thiếu nữ đang ở tuổi xuân đầu đời lại phải làm việc vất vả trong công việc nông nghiệp nổi lên:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Không chỉ ở đó, hình ảnh của người thiếu nữ còn xuất hiện trong thơ. Trong thơ cổ điển, họ thường là trung tâm của vẻ đẹp; trong thơ lãng mạn, họ là đối tượng thể hiện cô đơn, như Xuân Diệu đã viết:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Người thiếu nữ trong thơ Bác đang làm việc: “ma bao túc”. Câu thơ này tôn vinh giá trị và vẻ đẹp của lao động. Không chỉ dừng lại ở đó, thông qua từ ngữ và hình ảnh sống động, Bác thể hiện lại chất thép của mình qua tình thương dành cho người phụ nữ đang làm việc trong thời gian nghỉ ngơi.
Phải nhấn mạnh rằng lòng nhân đạo đó chính là sức mạnh của Bác. Điều này được nhận định rõ ràng về Hồ Chí Minh, khi mọi người đều đồng lòng rằng nguồn sức mạnh của ông nằm trong trái tim. Tình yêu thương và lòng nhân ái của Bác không chỉ giới hạn trong quốc gia mà còn vượt ra xa hơn:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”
Bác yêu thương tất cả những người mà Người gặp trong tù. Từ một đứa trẻ trong nhà tù Tân Dương, trong cảnh khó khăn của nhà tù, tiếng khóc của đứa bé mới nửa tuổi đã làm rung động tâm hồn và trở thành nguồn cảm hứng thơ của Nguyễn Ái Quốc:
“Oa… Oa… Oa
Cha trốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha”
Bác dành tình thương cho những người Bác gặp trên con đường chuyển lao. Có thể là một người phụ nữ làm công việc mài đá:
“Dãi nắng dầm mưa chẳng nghỉ ngơi
Phụ nữ mài đá vất vả lắm ai ơi
Ngựa xe hành khách đường qua lại
Biết cảm ơn anh được mấy người
Bác tiếp tục dành tình thương cho người phụ nữ trẻ tuổi đang làm việc vất vả vào thời điểm nghỉ ngơi ấy là chiều tối. Đằng sau tình thương đó, chúng ta cảm nhận được một sự bất bình khi Bác sử dụng nghệ thuật đảo ngữ. Ở cuối câu thơ thứ ba, chúng ta gặp “ma bao túc”. Ở đầu câu 4, Bác lại đảo ngược thành “bao túc ma”. Điều này làm cho hai câu thơ liên kết với nhau. Không chỉ là vòng tròn của chiếc cối xay ngô đơn thuần, mà nó còn biểu hiện vòng luân chuyển của cuộc đời, của những kiếp đời sống trong chế độ Tưởng Giới Thạch. Viết bài thơ này, Bác đứng lên để tố cáo chế độ bất nhân của Tưởng Giới Thạch.
Bài thơ cũng đặc biệt ở một điểm, đó là sức mạnh của nó tập trung vào hình ảnh “lô dĩ hồng”. Một trong những đặc điểm của thơ Bác là luôn đưa ra sự chuyển động, từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. “Mộ” không phải là ngoại lệ. “Mộ” có nghĩa là chiều tối, người ta nghĩ rằng sẽ kết thúc với một bức tranh tối tăm. Nhưng không, với cái nhìn của một người chiến sĩ, Bác kết thúc bài thơ của mình bằng màu hồng. Vì vậy, có lẽ, sức mạnh của bài thơ tập trung vào chữ hồng. Chữ “hồng” ở đây có nghĩa đa chiều. Chúng ta không nên hiểu nó theo nghĩa đen mà là một biểu tượng đa chiều. Màu hồng trong câu thơ này không chỉ là màu của lò than, mà còn là màu của hy vọng trong tâm hồn của Bác. Đó là màu của cuộc cách mạng sắp đến. Dường như Người nhìn thấy cuộc Cách mạng tháng Tám của đồng bào ta đang đến gần. Nhận định về vấn đề này, một nhà phê bình văn học khẳng định: “Thơ Bác, thơ người chiến sĩ cộng sản tay nắm chắc chân lý, mắt nhìn thấu cõi tương lai.” Chữ “hồng” ấy ta cũng không loại trừ đó là tình thương, là lòng nhân đạo của Hồ Chí Minh. Đây chính là màu hồng của chất thép bởi màu hồng ấy chính là Bác đi trong đêm tối, đi trong XH hội tăm tối và nó càng phát sáng. Như vậy, trái tim nhân đạo của Người bộc lộ rõ nét hơn nhiều. Có thể nói, màu hồng ấy chính là bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Nhận định về vấn đề này, Chế Lan Viên viết:
“Người ghét sự chói chang, nhưng chính Người là nguồn ấm nóng
Của vầng hồng đẹp chiếu sáng cho bóng đêm lui”
Như vậy, chỉ một từ “hồng” đã xua tan bóng tối, đã cân bằng 27 âm tiết khác của một bài thơ. Rõ ràng chữ hồng ở đây là điểm nhấn của bài thơ. Một lần nữa, bài thơ tỏ ra cứng cáp trong phong cách tự tin của tác giả.
Đọc bài thơ “Mộ”, ta không thấy những lời than thở, mặc dù Bác viết trong tình cảnh khó khăn. Vì sao? Bởi Bác có tinh thần kiên cường, vượt qua mọi khó khăn. Không có nhà tù nào có thể kìm hãm tinh thần của Bác. Bài thơ không có từ “thép”, không nói về “thép” nhưng vẫn tràn đầy sức mạnh. Để kết thúc, chúng ta hãy nhớ lời của nhà phê bình Hoài Thanh: “Khi Bác nói trong thơ có thép, chúng ta phải hiểu đó là tinh thần kiên cường. Cần linh hoạt để hiểu đúng. Không cần phải nói về thép, hay cố gắng hiểu về tinh thần kiên cường.”
Sức mạnh của thép và tình thương trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 4
Như đã được nhà thơ Hoàng Trung Thông cảm nhận:
'Vần thơ của Bác, vần thơ kiên cường
Nhưng vẫn chứa đựng đầy tình thương'.
Theo Hoàng Trung Thông, thơ Hồ Chí Minh có thể được tóm gọn trong hai từ: 'thép' và 'tình'. Trong bài Chiều tối, hai khái niệm này được thể hiện như thế nào?
Để hiểu rõ hơn về hai khái niệm này, cần biết rằng 'thép' ẩn dụ cho sự kiên cường, bất khuất, cứng cỏi, không chịu khuất phục. Đó là biểu hiện của ý chí mạnh mẽ, tinh thần kiên định. 'Tình' là sự rung cảm, là cảm xúc. Nó bắt nguồn từ trái tim luôn nồng nhiệt, sôi động. Hai khái niệm này có vẻ mâu thuẫn, nhưng lại tồn tại cùng nhau trong thơ của Hồ Chí Minh.
Thực ra, chất thép và chất tình là hai mặt của cùng một đồng xu, tạo nên tính cách quý giá của Hồ Chí Minh và trở thành điểm đặc biệt trong sáng tác của ông. Tinh thần kiên cường của tác giả thể hiện qua việc đối diện với khó khăn mà không nao núng; bị giam cầm, ông vẫn dũng cảm; đối mặt với nguy hiểm, ông vẫn ung dung... Chính Hồ Chí Minh đã nói:
'Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn thành công lớn
Tinh thần phải cao'.
Trên bức tranh Chiều tối, Hồ Chí Minh mở rộng tầm nhìn ra thiên nhiên vô biên, ngắm cánh chim chiều, nhìn những đám mây trôi, không quan tâm đến hoàn cảnh của mình trong tù. Mặc dù không ai miêu tả, nhưng chúng ta cần nhớ rằng ông đang phải sống trong những khó khăn của ngục tù. Trong tình cảnh đó, liệu chúng ta có đủ bình thản để viết thơ? Nhưng Hồ Chí Minh không chỉ viết thơ, mà còn viết rất hay. Đặc biệt, trong thơ, ông truyền đạt tinh thần lạc quan đáng kinh ngạc. Mặc dù nói về buổi chiều, nhưng không có chữ 'tối' nào, ông dùng màu hồng của lửa than để biểu hiện bóng tối. Ý nghĩa là, luôn luôn, đôi mắt của ông luôn hướng về ánh sáng, luôn tìm kiếm ánh sáng, dù đó chỉ là ánh sáng nhỏ nhoi. Nhưng ánh sáng nhỏ nhoi đó đủ để nâng cao tinh thần, tránh khỏi bị chìm vào bóng tối. Để làm được điều đó, cần phải có tinh thần thép, tinh thần tự do, tinh thần kiên cường. Đó chính là chất thép. Hồ Chí Minh không bao giờ chịu khuất phục, nhờ vào tinh thần cứng cỏi đó.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không phải là một vị thánh, không phải là người không biết đến nỗi đau của cuộc sống. Ông là một con người, biết cảm xúc vui buồn, hạnh phúc và khổ đau. Vì là con người, trong ông không thể thiếu đi tình thương. Tuy nhiên, tình thương trong thơ Hồ Chí Minh không chỉ là tình cảm cá nhân.
'Lòng Bác ấy thương chúng ta
Thương cuộc sống chung, thương cây cỏ hoa'
Tố Hữu đã khắc họa Hồ Chí Minh qua những vần thơ như thế. Tình thương của Hồ Chí Minh lan tỏa khắp nơi, sâu đậm và xa xôi. Ông yêu thương rộng lớn, tình thương đó dành cho thiên nhiên, quê hương, con người và những người cùng chịu khổ. Trong bài Chiều tối, tình yêu thiên nhiên được thể hiện rõ (mặc dù không cần phải nhấn mạnh, vì giáo viên đã giải thích cho học sinh về tình yêu thiên nhiên). Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là tình yêu dành cho con người, đặc biệt là người lao động. Dù là người lao động của nước ngoài - Trung Hoa. Đối với Hồ Chí Minh, mỗi người lao động đều đáng quý và đáng yêu. Tình thương của nhà thơ không bị giới hạn bởi địa lý. Đó chính là 'tình thương nhân loại'.
Chất thép nhờ vào tình thương mà trở nên ấm áp hơn. Nhờ vào ý chí mạnh mẽ, trái tim luôn đầy cảm xúc với nhiều thế hệ con người. Chất thép cũng nhờ vào tình thương mà được nâng lên. Trái tim chứa đựng tình yêu và sự hiểu biết về cuộc sống đã nuôi dưỡng và củng cố cho Hồ Chí Minh đối mặt với mọi khó khăn và duy trì niềm tin cách mạng. Đó là vẻ đẹp trong bài Chiều tối, trong Nhật ký trong tù, trong sáng tác văn học, sự nghiệp cách mạng và trong bản thân con người Hồ Chí Minh.
Chất thép và tình thương trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 5
'Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ vì Người là biểu hiện tinh hoa truyền thống của dân tộc. Người dân Việt Nam thấy Bác Hồ là hình mẫu đẹp nhất và trên thế giới, tên Bác Hồ gắn liền với tên nước Việt Nam: Việt Nam – Hồ Chí Minh. Thơ của Bác luôn chứa đựng tình yêu và ý chí mạnh mẽ, như Hoàng Trung Thông đã viết:
'Thơ của Bác, thơ của lòng kiên cường
Mà vẫn phản ánh bao dung và nhân ái'
(Đọc thơ Bác)
Chất thép và tình thương trong bài thơ Chiều tối (Mộ) là minh chứng cho điều đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo, là người cha già của dân tộc. Trong cuộc đời, Người đã đi khắp năm châu bốn bể tìm đường cho đất nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Người đã dẫn dắt dân tộc ta vượt qua đói nghèo, xây dựng chế độ xã hội như ngày nay. Bên cạnh con đường cách mạng, Người cũng là một nhà thơ, một thi sĩ tài ba.
Sự nghiệp văn chương của Người gắn liền với Cách mạng, với nhân dân. “Nhật ký trong tù” là tác phẩm tiêu biểu, trong đó bài thơ “Chiều tối” nổi bật với chất thép và tình thương.
“Chiều tối” (Mộ) là nhật ký của một đoạn hành trình gian khổ vào buổi chiều muộn - trong chặng đường khó khăn qua các tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc.
Chất thép trong bài thơ “Chiều tối” biểu hiện ý chí kiên cường, bất khuất, sự tự tin và niềm kiêu hãnh, luôn tin tưởng vào mục tiêu của người chiến sĩ cách mạng. Còn chất tình trong “Chiều tối” là những cảm xúc, tình cảm, rung động trước cái đẹp của tạo vật, của tình người. Chất thép và chất tình trong bài thơ “Chiều tối” được thể hiện hài hòa, đan xen vào từng câu, từng chữ.
Ở hai câu đầu, tập trung vào chất tình với phong cảnh chiều tà trong mắt người chiến sĩ - thi sĩ sau một ngày làm việc mệt mỏi:
“Chim về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa không trung”
(Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.)
Bức tranh chiều tối được thể hiện qua hai hình ảnh: chim và mây. Cánh chim và mây thường xuất hiện trong thơ ca truyền thống, gợi nhớ đến nỗi cô đơn, nỗi buồn, kỉ niệm. Tuy nhiên, trong “Chiều tối”, cánh chim xuất hiện trong tình huống khác: sau một ngày làm việc, chúng trở về nghỉ ngơi.
Trong thơ cổ, cánh chim thường gợi nhớ đến nỗi buồn, nỗi cô đơn, nhưng trong “Chiều tối”, chúng đại diện cho sự an bình, sự tĩnh lặng của cuộc sống.
Những cánh chim bay có hướng đi rõ ràng, có mục đích và nơi để về, không lênh đênh như trong thơ cổ, gợi nhớ về hoàn cảnh của Bác Hồ vào thời điểm đó.
Chòm mây trên trời lẻ loi, trôi nổi một mình giữa không gian rộng lớn. Bác có thể đã dùng hình ảnh của chòm mây để diễn đạt tâm trạng của mình vào thời điểm đó.
Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài mà còn chứa đựng cảm xúc của người tù nhân đối với thiên nhiên. Bác đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên với những cảnh vật sống động, tạo nên không gian chiều tà mơ màng và yên bình.
Đằng sau vẻ đẹp của thiên nhiên là nỗi cô đơn, mệt mỏi của người tù nhân sau một ngày dài di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác. Tuy nhiên, đằng sau nỗi cô đơn ấy là lòng kiên cường, hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối còn được thể hiện qua hai câu cuối cùng của bài.
Một cô gái ở xóm núi xay ngô đến tối
Khi đã xay xong, lò than rực ánh hồng.
(Một thiếu nữ ở làng Sơn ma bao phủ mình,
Phủ mình bằng áo dài màu hồng.)
Trong văn học trung đại, hình ảnh người con gái đẹp thường kết hợp với số phận lận đận, yếu đuối, và chìm nổi. Ví dụ như Vương Xương Linh trong thơ Đường có viết về Khuê oán:
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”
Dịch thơ:
“Một cô gái ở phòng trọ chưa biết buồn
Ngày xuân trang điểm lên lầu
Đầu đường thấy tơ xanh của liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.”
Hay Hồ Xuân Hương viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
(Bánh trôi nước)
Trong thơ Bác, hình ảnh người con gái hiện lên rất giản dị và bình thường, công việc mặc dù vất vả nhưng vẫn đáng yêu và đáng trân trọng. Hình ảnh “cô em” tỏa sáng giữa thiên nhiên, con người đang tự mình làm chủ cuộc sống với sự trẻ trung, sức khỏe, và làm việc hăng say, chăm chỉ.
Con người như hòa vào thiên nhiên, quyện vào nhau. “Ma bao túc….bao túc ma hoàn”, Bác đã tạo sự nhịp nhàng trong vòng quay công việc, liên tục và nhịp nhàng. Hình ảnh này đã tạo nên bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa trong buổi chiều cô quạnh.
Câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và lãng mạn. Tính cổ điển được thể hiện qua bút pháp ánh sáng để nói đến bóng tối. Trời đất cao rộng bên ngoài, dần thu hẹp lại bên trong không gian gia đình thông qua hình ảnh bếp lửa.
Cả câu chỉ với một từ “hồng” - nhãn tự của bài thơ cùng với bút pháp điểm xuyết khiến cho cảm xúc bùng nổ. Chữ “hồng” – ánh sáng của niềm tin, của hy vọng, là ngọn lửa xua tan đêm đen, là hơi ấm xua đi lạnh lẽo và cô đơn.
Chữ “hồng” – ánh sáng của ngọn lửa niềm vui, là niềm lạc quan xua tan nỗi buồn và mệt nhọc của thực tại. Ngọn lửa hắt lên khuôn mặt cô gái, làm cho khuôn mặt cô rạng rỡ.
Tứ thơ chuyển đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng bài thơ, đem ấm nồng và sức sống đến cho tác phẩm. “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ” (Hoàng Trung Thông).
Nhãn tự ấy xuất phát từ đâu? Chỉ cần một chữ “hồng” đã khiến người đọc cảm nhận được “thần” của bài thơ, là linh hồn của bài thơ tứ tuyệt. Có lẽ trong lòng tác giả cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy? Đó là ngọn lửa của tình yêu tha thiết cuộc sống, yêu con người không bao giờ tắt trong lòng thi nhân Hồ Chí Minh.
Trong cảnh giải tù đày, Bác không còn niềm vui cho riêng mình, chỉ có những nỗi đau, nỗi buồn, sự lo lắng cho đất nước. Nhưng lúc Người đi qua hẻm núi và chứng kiến cảnh cô gái xay ngô tối, niềm vui xuất hiện và tứ thơ hiện lên như ngọn lửa hồng rực cháy trong người thi sĩ. Đó là niềm vui cho người lao động.
Thể hiện sự trân trọng và nâng niu hạnh phúc thật bình thường, là ước mơ nhỏ nhoi của người lao động xóm núi. Đúng như Hoài Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu không có một tấm lòng nâng niu trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được trong thơ”
Thành công của bài thơ chính là sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, giữa chất thép và chất tình của người tù cách mạng. Bài thơ là tình cảm nhân ái, bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Dù ở trong tù đày nhưng Bác vẫn vượt lên tất cả khổ đau, đọa đày để đem đến cho bạn đọc những vần thơ tuyệt vời.
Qua bài thơ, ta càng hiểu và yêu thêm vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già của dân tộc. Xin mượn bốn câu thơ của Tố Hữu để kết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 6
Chiều tối là bài thơ nổi bật cho phong cách thơ Hồ Chí Minh, đặc biệt quan trọng thể hiện được tư tưởng sáng tác cũng như chất thơ độc đáo của tác giả. Chính chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối đã cho thấy một tinh thần thép của một người chiến sĩ và một tâm hồn nhạy cảm của người thi sĩ ở Hồ Chí Minh.
Chiều tối (Mộ) gồm có bốn câu thơ, được chia làm hai phần, hai câu đầu thể hiện khung cảnh thiên nhiên núi rừng đầy hiu quanh, hai câu cuối cho thấy tinh thần sáng sủa của người chiến sĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, những câu thơ đầu đã cho thấy một ánh nhìn xa xăm cùng với khát vọng tự do mãnh liệt được như cánh chim trời, hay sự tha thiết với cái vẻ nhẹ nhàng tự do của chòm mây.
Diễn giải theo ý nghĩa khác, chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được thể hiện hài hòa đan cài trong từng câu thơ. Nhìn chung, hai câu thơ đầu thiên về chữ tình với phong cảnh thiên nhiên lúc chiều tà trong con mắt người chiến sĩ – thi sĩ sau một ngày bị giải lao mệt mỏi.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Ý nghĩa tả thực trong câu thơ đầu là hình ảnh một cánh chim cuối chiều mệt mỏi với hướng bay về rừng nhằm mục tiêu tìm chốn ngủ sau một ngày sải cánh. Một bức tranh thiên nhiên cuối ngày như hiện lên trước mắt người đọc chỉ với vài nét phác họa tài tình của nhà thơ. Một buổi chiều tối êm đềm đầy tĩnh lặng là chất tình trong tác phẩm này.
Chính cái buổi chiều tà cuối ngày ấy lại khiến tâm trạng con người đang nhớ nhung quê nhà lại càng trở nên khắc khoải hơn. Đó là cảm giác nhớ người thân, nhớ hình bóng tổ quốc, nhớ khói lam chiều vương vấn… Một chút lạc lõng ấy lại càng làm nổi bật lên chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối.
Chỉ với hai câu thơ nhẹ nhàng, ngắn gọn, giản đơn ấy lại chứa đựng một nỗi lòng thiết tha với quê nhà. Cái khát khao được tung bay, được sải cánh như chim trời, được nhẹ nhàng như đám mây kia. Đơn giản qua hai dòng thơ này, Hồ Chí Minh đã khiến người đọc cảm nhận được cảnh chiều tà lặng lẽ, u buồn nơi đất khách cùng với hình ảnh đơn độc, lạc lõng, xiềng xích của người chí sĩ giữa trời đất chiều tà mênh mông hiu quạnh. Thông qua đó, nhà thơ cũng thể hiện khát khao tự do thông qua hình ảnh cánh chim trời và đám mây giữa tầng không.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Việt Bắc tiếp tục được thể hiện ở hai câu thơ cuối. Tất cả chúng ta thấy chất tình rất nên thơ từ hình ảnh giản đơn của con người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”
Cô gái xóm núi hiện lên như điểm nhấn làm tỏa sáng cả bức tranh thiên nhiên chiều tà. Đó là hình ảnh hài hòa, là sự việc gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Chính cái sự lãng mạn, thơ mộng này của cô em gái say than đã chứng tỏ chất tình chất thơ trong tác phẩm. Sự chăm chỉ, mải miết của cô gái xay ngô như đang gợi nên vẻ đẹp lao động của chính con người Việt Nam.
Có thể thấy, trong chiều tối một bức tranh chiều tà u buồn tĩnh lặng hiện lên cùng với điểm sáng từ hình ảnh cô thôn nữ xóm núi đã khiến bài thơ mang vẻ đẹp lãng mạn đầy chất tình.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối là nội dung độc đáo trong tác phẩm này. Bên cạnh chất tình, tất cả chúng ta còn cảm nhận được chất thép đầy rắn rỏi mạnh mẽ của một người chiến sĩ. Giữa cái khung cảnh chiều tà lặng lẽ u buồn ấy, người chiến sĩ vẫn không hề cảm thấy tẻ nhạt mà vẫn ấm lòng với một khát khao tự do, một ước vọng mạnh mẽ được giải phóng như cánh chim và đám mây đó.
Hai câu thơ cuối bài thể hiện chất thép thâm thúy và đậm nét hơn hết. Cô gái miền sơn cước trong sự lao động chăm chỉ mê say đã cho thấy tinh thần thép trong thơ của Hồ Chí Minh. Chỉ với tính từ “hồng” đứng cuối câu mà nhà thơ như xóa tan đi mọi sự mỏi mệt, chỉ còn sót lại tinh thần sáng sủa, sự hân hoan hướng về phía ánh sáng.
Màu hồng của lò than, từ hình ảnh cô gái lao động đó là niềm tin, là sự việc sắt đá trong tư tưởng người chiến sĩ, và chủng đó là chất thép trong bài thơ này. Quả thật, chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được hòa quyện thật tinh tế. Cô gái xay ngô miệt mài bên ánh lửa hồng không chỉ thể hiện tư tưởng của Bác bỏ luôn rực cháy mà còn cho thấy cái tình mênh mông, bát ngát mà Hồ Chí Minh đã giành cho con người và cảnh vật.
Xuất hiện nổi bật trong bức tranh Chiều tối đó là cô gái sơn cước đang xay ngô với một vẻ khỏe khoắn của con người lao động. Đây là một bước phát triển trong chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối và cũng của chính tác giả. Nếu như trong hai câu thơ đầu, thiên nhiên hiện lên vào trạng thái nghỉ ngơi thì hình ảnh con người gợi lên nhịp sống mạnh mẽ, dẻo dai và sinh động. Phải chăng lò than rực hồng của người thôn nữ ấy đã nhóm lên trong đếm tối niềm sự sung sướng, sự sáng sủa xua đi cái lạnh lẽo trong trái tim người tù xa nhà.
Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối còn được thể hiện ở tinh thần tân tiến trong hai câu thơ cuối bài. Lúc này, hình tượng thơ vận động tốt với sự kết thúc màu hồng sáng sủa của lò than. Và quan trọng hơn hết, đằng sau bức tranh ấy đó là tâm hồn của một thi sĩ, một tinh thần sáng sủa của người chiến sĩ cộng sản luôn hướng về cuộc sống với việc yêu đời và đầy tin tưởng dù cho tuyến phố đang lựa chọn chứa nhiều chông gai và khó khăn.
Tinh thần chiến sĩ bình tĩnh, giữ thế chủ động trước gian khổ cũng như biết vượt lên trên mọi hoàn cảnh đó là chất thép trong bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng viết về thơ Bác bỏ “Vần thơ của Bác bỏ vần thơ thép/Mà vẫn mênh mông bát ngát tình…”