Phân tích hình tượng người chiến sĩ yêu nước trong Lưu biệt khi xuất ngựa tổng hợp 4 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Với 4 bài văn phân tích hình tượng người chiến sĩ yêu nước mà Mytour giới thiệu sẽ giúp các bạn tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Lưu biệt khi xuất ngựa đã khắc họa rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sôi sục ý chí chiến đấu của người chiến sĩ nhưng không quá cứng nhắc, mà vẫn đủ nhưng phong thái lãng mạn, bay bổng của người anh hùng khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11.
Dàn ý hình tượng người chiến sĩ yêu nước
1. Mở bài
- Phan Bội Châu là người đầu tiên có ý tưởng cứu nước bằng con đường tư sản, ông có nhiều hoạt động sôi nổi trong phong trào cách mạng thời kỳ đầu. Phan Bội Châu còn được biết đến là một nhà văn, nhà thơ lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, là người ươm những mầm mống đầu tiên cho nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị của Việt Nam lúc bấy giờ.
- Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước.
2. Thân bài
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên qua quan điểm về chí làm trai trong thời đại mới
- 'Làm trai phải lạ ở trên đời', quan điểm nam nhi sống ở trên đời cần có lý tưởng cao đẹp, tráng chí bốn phương, dám vươn mình bước ra khỏi sự giới hạn, bó hẹp khuôn phép, để làm việc đại sự có tính phi thường, hiển hách.
- 'Há để càn khôn tự chuyển dời': Nam nhi phải nắm giữ và làm chủ vận mệnh của mình, tầm vóc sánh ngang với trời đất, thậm chí dịch chuyển càn khôn => Khẩu khí tự tin, táo bạo và mạnh mẽ.
* Hình tượng người chí sĩ thông qua quan điểm về vai trò và trách nhiệm của đấng nam nhi trước thời cuộc
- 'Trong khoảng trăm năm cần có tớ': Nhận thức rõ ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân, phải đứng lên đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trọng trách vai trò to lớn, phục hưng đất nước. Làm sao cho xứng với sự sắp đặt của tạo hóa, trời đã đem đến cho ta một kỷ nguyên đầy chông gai.
- 'Sau này muôn thuở há không ai': Tầm nhìn xa trông rộng, lo nghĩ cho mai sau, cho con đường cứu quốc bằng việc lay động thức tỉnh thế hệ thanh niên tiếp nối, cổ vũ họ bằng chính tráng chí, lý tưởng của một nhà cách mạng tiên tiến.
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên qua nhận thức về số phận đất nước, dân tộc và cả nền Nho học vốn từng huy hoàng nhưng nay chỉ còn là quá khứ
- 'Non sông đã chết sống thêm nhục': Việc mất nước, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là trong tư tưởng truyền thống thì đối với mỗi một kẻ đọc sách thánh hiền, một đấng nam nhi nỗi nhục ấy còn đau đớn và dằn vặt hơn gấp bội lần.
- 'Hiền thánh còn đâu học cũng hoài': Ý thức rõ ràng về một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại mới => Đau đớn xót xa, nhưng người chí sĩ không hề nản chí, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt sẵn sàng từ bỏ thứ vô dụng, để tiến tới một chân trời mới với tư thế hiên ngang mạnh mẽ, tâm hồn tự do và phóng khoáng.
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người vượt biển đi tìm một chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình
- Không gian rộng lớn, khoáng đạt được gợi ra từ những hình ảnh kỹ vĩ của thiên nhiên từ 'bể Đông' rồi 'muôn trùng sóng bạc', điều ấy thể hiện những khát vọng hành động mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước.
- Từng đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sục sôi trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện những khó khăn trùng trùng phía trước.
3. Kết bài
- Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác mang khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, nổi bật với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp kiêu hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái, tự tin, quyết liệt dựa trên cơ sở một lý tưởng và tráng chí cao đẹp - phụng sự và cống hiến cho Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới mẻ.
Hình tượng người chí sĩ yêu nước - Mẫu 1
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai sĩ phu yêu nước nổi bậc nhất trong phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Tuy hai đường hướng đấu tranh khác nhau nhưng cả hai chí sĩ đều chủ động dùng văn thơ là vũ khí truyền bá tư tưởng và kêu gọi đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết sôi nổi, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của hình tượng người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Sinh ra gặp lúc đất nước đang trong cảnh lầm than, đói khổ dưới kiếp đời nô lê, Phan Bội Châu có ý thức nhận rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước. Dưới ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến, Phan Bội Châu xác định cho mình chí làm trai lớn lao, gắn bản thân mình với vận mệnh tổ quốc. “Lưu biệt khi xuất dương” được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905, trước khi lên đường sang Nhật để từ giã bạn bè đồng chí, bài thơ vừa mang ý nghĩa cổ vũ, động viên tinh thần người ra đi, cũng vừa thôi thúc, củng cố niềm tin và tinh thần của những người ở lại về một tương lai tốt đẹp của dân tộc, với con đường cứu nước mới mẻ, nhiều hứa hẹn, mặc dù Phan Bội Châu mới chỉ bắt đầu những bước đi đầu tiên.
Hình tượng người chí sĩ yêu nước hiện lên trước tiên là ở quan điểm của danh sĩ về chí làm trai trong thời đại mới. Trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động, thù trong giặc ngoài thì:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”.
Phan Bội Châu quan niệm rằng kẻ nam nhi phải mong có điều “lạ”, nghĩa là không thể sống tầm thường mà phải có những hoài bão, lý tưởng cao đẹp, có bản lĩnh mưu đồ việc lớn, dám vươn mình bước ra khỏi sự giới hạn, bó hẹp khuôn phép, làm những cái mà không ai dám làm, với lòng kiên định và niềm tin vững chắc, lưu lại tiếng thơm muôn đời. Con người ấy sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ thiên nhiên, “há để càn khôn tự chuyển dời”. Nam nhi chí tại bốn phương, phải nắm giữ và làm chủ vận mệnh của mình, sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ, chớ để mặc trời đất, tạo hóa kiến sinh, buông trôi vận mệnh như chiếc lá xuôi theo dòng nước không biết sẽ lạc lõng về đâu.
Tinh thần ấy, bản lĩnh ấy đúng như Xuân Diệu từng nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Người nam nhi đứng giữa đất trời cũng vậy, cuộc đời ngắn ngủi 60 năm, ít nhất phải có một lần được vụt sáng lên, trở thành vĩ đại, còn nếu cam chịu cuộc đời bình lặng, đằng đẵng thì quả là uổng phí.
Ý thơ chính là sự khích lệ của Phan Bội Châu dành cho những thanh niên trẻ tuổi, phải dám đặt ngang tầm vóc của bản thân với trời đất, với tạo hóa, giành lấy thế chủ động quyết định vận mệnh của mình, thậm chí là thay đổi càn khôn bằng một khẩu khí vô cùng mạnh mẽ, tự tin và táo bạo.
Quan niệm về tinh thần làm người của Phan Bội Châu không chỉ mới xuất hiện trong thơ ông, mà nó đã từng ẩn hiện trong ca dao và thơ ca của nhiều danh sĩ khác. Tuy không hoàn toàn giống nhưng cũng có những điểm tương đồng về tinh thần và tính cách. Ví dụ như trong bài thơ “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ có câu:
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Phan Châu Trinh cũng đã từng viết:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non”.
Cũng trong ca dao Việt Nam, có nhiều câu rất ý nghĩa:
“Làm người cho đáng nên người
Xuống phía Đông tìm tĩnh lặng, lên phía Tây tìm yên bình”.
Sau khi xác định vai trò của người làm người, Phan Bội Châu tiếp tục đưa ra quan điểm về vai trò và trách nhiệm của người đàn ông trước thời cuộc, đó là phận sự với đất nước, đặc biệt trong giai đoạn đất nước có biến động thì người đàn ông càng phải đứng ra thể hiện rõ vai trò, chí khí của mình để phục vụ Tổ quốc:
“Trong vòng một thế kỷ cần có người như tớ
Sau này không ai có thể thay thế”.
Hình tượng người chí sĩ hiện lên với khoảng thời gian “trăm năm”, một là để chỉ cuộc đời, sau là chỉ một thế kỷ biến động của đất nước. Người chí sĩ nhận thức rõ ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân, phải đứng lên đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trọng trách vai trò lớn, phục hưng đất nước. Làm sao để xứng đáng với sự sắp đặt của tạo hóa, trời đã mang đến cho chúng ta một thời đại đầy khó khăn, thì thân là người đàn ông phải xác định rằng đất nước đang cần và bản thân chính là cột mốc của nước nhà.
Ngoài ra, người chí sĩ còn hiện lên không chỉ là sự tự nhận thức mà còn hiện lên với tầm nhìn xa trên, lo cho tương lai, cho con đường cứu nước bằng cách kích thích sự tỉnh thức của thế hệ trẻ, khích lệ họ bằng chính tráng chí, lý tưởng của một nhà cách mạng tiên tiến. Câu hỏi “Sau này không ai có thể thay thế?” là hỏi tất cả thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ và các thế hệ sau này, khuyến khích tinh thần yêu nước, lý tưởng sống, tráng chí đề cao để xứng đáng với phận nam nhi, hướng họ đến một nhận thức mới, một niềm tin và hy vọng mới, khơi dậy trong tâm hồn họ sự tự tin, quyết đoán của bậc đại trượng phu.
Hình tượng người nhà văn tiếp tục hiện lên với những nhận thức về số phận đất nước, dân tộc và cả nền tri thức truyền thống vốn từng huy hoàng nhưng nay chỉ còn là quá khứ:
“Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Phan Bội Châu viết “non sông đã chết”, cái chết ở đây là cái chết của chủ quyền dân tộc, đất nước bị đàn áp bởi kẻ thù xâm lược. Trong khi đó những người được xem là trí thức, trụ cột, nguồn cội của một dân tộc lại yếu đuối, sợ hãi, chỉ quan tâm đến sự thịnh vượng và quyền lợi cá nhân mà quên đi số phận cùng với sự sống nhục nhã dưới thời kỳ thuộc địa, để con người phải chịu đựng cảnh khốn khổ.
Một đất nước mất quyền tự chủ, một dân tộc không có người lãnh đạo có thể đã “chết” rồi hay không, giống như một cái bóng rỗng, những giá trị truyền thống, văn hóa của dân tộc đã bị đàn áp dưới chế độ thực dân. Như vậy việc mất nước, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là trong tư tưởng truyền thống thì đối với mỗi người đọc sách thánh hiền, một đấng nam nhi nỗi nhục ấy còn đau đớn và dằn vặt hơn gấp bội lần.
“Hiền thánh còn còn đâu học cũng hoài”, một danh sĩ từng được giáo dục theo truyền thống từ thuở nhỏ, việc phủ nhận và nhận thức rõ ràng về một nền tri thức lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có ý nghĩa, không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại mới chính là nỗi đau đớn khó chấp nhận. Việc nhận thức ấy, chẳng khác nào tự bác bỏ công lao của mình và phải bắt đầu lại từ đầu. Tuy vậy, người chí sĩ không chịu đầu hàng, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt sẵn sàng từ bỏ những thứ vô dụng, để tiến tới một tương lai mới với tư duy mạnh mẽ, tinh thần tự do và mở cửa sáng tạo.
Thoát ra khỏi ý thức hệ phong kiến, chí làm trai của Phan Bội Châu hướng về Tổ quốc và nhân dân, như ông đã viết: “Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua – tôi: “Dân là dân nước, nước là nước dân”.
Hình ảnh con người vượt biển đi tìm một chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, cống hiến và phụng sự cho Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại, sánh ngang trời đất khẳng định mạnh mẽ hình tượng kì vĩ của người chí sĩ yêu nước:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”.
Hình tượng thơ kì vĩ lên một chí lớn mang tầm vũ trụ. Không phải gió nhẹ mà là trường phong. Không phải quanh quẩn chốn quan trường hoặc nơi trường thi chật hẹp, mà là đi ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lên với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất của Phan Bội Châu biểu lộ một bầu nhiệt huyết, khát vọng hành động mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước. Từng đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sục sôi trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện những khó khăn trùng trùng phía trước, ngoài ra cụm từ “tiễn ra khơi” còn thể hiện sự ủng hộ của thiên nhiên với quyết định và lý tưởng đúng đắn của người anh hùng dân tộc.
Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên rộng lớn, đứng trước thời cuộc đầy biến động, vẫn giữ cho mình tráng chí ngất trời, phong thái tự tin, kiêu hãnh ra đi tìm con đường mới cho Tổ quốc và dân tộc, đó thực sự là một hình ảnh đẹp đẽ vô cùng.
“Lưu biệt khi ra đi” là một tác phẩm thể hiện tình cảm chính trị và trữ tình, với ngôn ngữ trang trọng, uy nghiêm, hùng vĩ, mạnh mẽ, cuốn hút, nhấn mạnh vào hình ảnh người chí sĩ yêu nước với vẻ đẹp hùng vĩ, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái tự tin, quyết đoán dựa trên lý tưởng và chí tráng cao đẹp - phục vụ và hiến dâng cho Tổ quốc, cứu nước bằng con đường mới. Bài thơ đã mô tả rõ nét tâm hồn nhiệt huyết, ý chí chiến đấu của người chí sĩ mà vẫn giữ được phong thái lãng mạn, bay bổng, khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp. Đây không chỉ là lời nói hào nhoáng mà sự thực lịch sử đã chứng minh Phan Bội Châu đã sống và hành động theo những điều ông đã viết.
Hình ảnh người chí sĩ yêu nước - Mẫu 2
Phan Bội Châu (1867-1940), nguyên quán ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh ra trong một gia đình theo trường phái Nho học, từ khi còn nhỏ ông đã tỏ ra thông minh và học giỏi hơn người. Sau khi trưởng thành, với tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, ý thức về việc nước mất nhà tan Phan Bội Châu đã nhanh chóng tham gia vào các phong trào chống Pháp. Tuy nhiên, vì thiếu kế hoạch cụ thể và lãnh đạo đúng đắn, hầu hết các cuộc khởi nghĩa theo cách cũ đều thất bại, và lúc đó Phan Bội Châu là người đầu tiên đã khám phá ý tưởng cứu nước theo con đường tư sản - một con đường mà Nhật Bản đã đi rất thành công. Ông thành lập hội Duy Tân và khởi xướng phong trào Đông Du, khuyến khích thanh niên ưu tú sang nước ngoài học tập. Ngoài vai trò là một nhà cách mạng nổi tiếng với nhiều hoạt động, Phan Bội Châu cũng được biết đến là một nhà văn, nhà thơ lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, góp phần không nhỏ vào văn học của Việt Nam. Có thể nói rằng Phan Bội Châu đã khai mở những bước đầu tiên cho văn học chính trị trữ tình của Việt Nam lúc đó. Bài thơ 'Lưu biệt khi ra đi' là một ví dụ tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước, trước khi sang nước ngoài học tập, với niềm hy vọng, niềm tin mạnh mẽ vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài thơ 'Lưu biệt khi ra đi' của Phan Bội Châu được viết vào năm 1905, trước khi ông sang Nhật Bản, làm lễ từ biệt bạn bè đồng môn. Bài thơ này vừa truyền cảm hứng, động viên tinh thần của người ra đi, vừa củng cố niềm tin và tinh thần của những người ở lại vào một tương lai tốt đẹp của dân tộc, với con đường cứu nước mới, đầy hứa hẹn, mặc dù Phan Bội Châu chỉ mới bắt đầu những bước đi đầu tiên. Hình ảnh người chí sĩ yêu nước hiện lên đầu tiên là quan điểm về chí làm trai trong thời đại mới, trong hoàn cảnh đất nước đang trải qua nhiều biến động, đối mặt với thù địch ngoài và mâu thuẫn nội.
'Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời'
Đọc cả hai câu thơ, ý về chí nam nhi tập trung vào từ 'lạ', những từ khác chỉ làm nổi bật từ này. Phan Bội Châu tin rằng, người đàn ông phải có ước mơ cao đẹp, vượt qua những thứ thông thường như cơm áo gạo tiền, dám mơ ước việc lớn lao, làm những việc mà người khác không dám, với lòng kiên định và niềm tin vững chắc. Đặc biệt, người đàn ông phải tự mình rời bỏ sự an nhàn, hạn chế, 'ao tù nước đọng', vượt qua nỗi sợ hãi, mất mát và mở rộng tầm nhìn, mưu đồ những điều phi thường, vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu nam nhi. Như Xuân Diệu đã viết: 'Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm', người đàn ông cũng cần ít nhất một lần tỏa sáng, vĩ đại, không nên sống cuộc đời bình lặng, tẻ nhạt. Phan Bội Châu cũng nói rõ ý này trong câu thơ 'Há để càn khôn tự chuyển dời', người đàn ông phải tự mình quyết định và kiểm soát số phận của mình, không để số phận dẫn dắt mình như một chiếc lá trôi theo dòng nước không biết sẽ đến đâu. Ý thơ này là lời khích lệ của Phan Bội Châu dành cho thanh niên, họ phải dám đặt ra mục tiêu cao cả với chí trích trọng, tự tin, quyết đoán và mạnh mẽ, không ngần ngại thay đổi số phận bằng lòng quyết tâm và ý chí mạnh mẽ. Quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu không mới, nó đã được thể hiện trong ca dao và thơ ca của nhiều danh sĩ khác, mặc dù không hoàn toàn giống nhau, nhưng cũng có điểm chung về chí trí và tính cách. Ví dụ, trong Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ có câu 'Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể', hoặc trong ca dao Việt Nam có nhiều câu rất hay như 'Làm trai cho đáng nên trai/Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên' hoặc 'Làm trai cho đáng nên trai/Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng'.
'Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai'
Sau khi nói về chí nam nhi, Phan Bội Châu tiếp tục thảo luận về vai trò và trách nhiệm của đàn ông trong thời cuộc, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn của đất nước. Người đàn ông phải tự nhận thức và nhấn mạnh trách nhiệm của mình, phải đứng lên và thể hiện vai trò, chí khí của mình để phục vụ Tổ quốc. Hình ảnh người chí sĩ hiện lên với thời gian 'trăm năm', một là để chỉ cuộc đời, hai là để chỉ một thế kỷ đầy biến động của đất nước. Người chí sĩ phải nhận thức rõ trách nhiệm của mình, phải đứng lên để đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trách nhiệm lớn, giúp đất nước phát triển. Đây là những người nhìn xa trông rộng, suy nghĩ cho tương lai, cho con đường cứu quốc bằng cách khích lệ thế hệ trẻ tiếp bước, truyền đạt chí trí và lý tưởng cách mạng. Câu hỏi 'Sau này muôn thuở há không ai?' hỏi tất cả thế hệ Việt Nam và những thế hệ sau, những người đang chìm trong bế tắc, khơi gợi họ với chí trí, lý tưởng sống, tráng chí để phấn đấu, phát triển đất nước. Đồng thời, nó khuyến khích tinh thần yêu nước, lý tưởng sống, tráng chí tung hoành bốn bể, phải xứng với vai trò của người đàn ông, hướng họ đến một nhận thức mới, một niềm tin mới, khơi dậy trong họ lòng tự tin, quyết đoán của một người đàn ông trưởng thành.
'Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài'
Trên cả hai câu luận, những người chí sĩ hiện ra với nhận thức sâu sắc về số phận của dân tộc, đất nước và cả nền Nho học đã từng vinh quang nhưng nay đã trở thành quá khứ. Phan Bội Châu viết 'Non sông đã chết', ý chỉ sự mất chủ quyền của dân tộc, đất nước bị xâm lược bởi giặc ngoại xâm. Trong khi đó, những người được xem là trí thức, cột sống, mạch máu của đất nước lại thể hiện sự nhát gan, sợ hãi, chỉ biết lo lắng cho cuộc sống giàu sang phú quý của bản thân mà quên mất vận mệnh của dân tộc, chấp nhận sống nhục nhã, dưới thời kỳ thực dân, để nhân dân phải chịu đựng đau khổ. Một đất nước mất quyền tự chủ, một dân tộc không có lãnh đạo có thể coi là đã 'chết' hay chưa, như một cái vỏ rỗng, những giá trị truyền thống, văn hóa của dân tộc bị đàn áp dưới chế độ thực dân. Việc mất quốc gia, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là với những người tuân thủ tư tưởng truyền thống, với mỗi người đàn ông, nỗi nhục đó còn đau đớn và ảnh hưởng nhiều hơn gấp bội. 'Hiền thánh còn đâu học cũng hoài', một người xuất thân từ trường phái Nho học, đã được giáo dục truyền thống từ khi còn nhỏ, việc nhận ra và ý thức rõ ràng về một truyền thống Nho học lỗi thời, lạc hậu, vẫn còn danh tiếng nhưng không còn hiệu quả trong thời đại mới, thực sự là một điều không thể chấp nhận. Việc nhận thức này, giống như việc một võ sĩ tự phế bỏ công lực của mình và phải bắt đầu lại từ đầu. Tuy vậy, chúng ta có thể thấy rằng dù có tiếc nuối, nhưng người chí sĩ không bao giờ nản chí, âm điệu của thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt, sẵn sàng từ bỏ những thứ vô dụng, để tiến lên phía trước với tư thế kiêu hãnh, mạnh mẽ, tâm hồn tự do và rộng lớn.
'Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi'
Cuối cùng, hình ảnh của người chí sĩ hiện lên như người vượt biển tìm kiếm chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, cống hiến và phục vụ Tổ quốc với tầm vóc vĩ đại, ngang ngửa trời đất. Không gian rộng lớn, phong cảnh tươi đẹp được mô tả qua những hình ảnh tự nhiên như 'bể Đông' rồi 'muôn trùng sóng bạc', thể hiện khát vọng mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước. Từng đợt sóng thể hiện trái tim đầy trung kiên của người yêu nước, cũng như những thách thức phía trước, đồng thời cụm từ 'tiễn ra khơi' còn thể hiện sự ủng hộ của thiên nhiên với quyết định và lý tưởng đúng đắn của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ đứng trước bức tranh thiên nhiên rộng lớn, đối diện với thời cuộc biến động, vẫn giữ cho mình tráng chí cao ngất, phong thái tự tin, kiêu hãnh ra đi tìm con đường mới cho Tổ quốc và dân tộc, đó thực sự là một hình ảnh đẹp và cảm hứng.
Lưu biệt khi xuất dương là một tác phẩm mang tính chất trữ tình chính trị đầu đời, nhấn mạnh vào hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp kiêu hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái quyết liệt, tự tin dựa trên lý tưởng và tráng chí cao đẹp - cống hiến và phục vụ Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới. Bài thơ đã miêu tả rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sôi động, ý chí chiến đấu của người chí sĩ mà không làm mất đi sự lãng mạn, bay bổng của người anh hùng khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp.
Hình ảnh người chí sĩ yêu nước - Mẫu 3
Trong thế kỉ XX, đặc biệt là những năm đầu, đất nước và nhân dân Việt Nam đã chứng kiến nhiều nhân vật cách mạng, nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… và không thể không nhắc đến Phan Bội Châu. Đóng góp lớn của ông cho thời đại không thể đếm hết, trước hết là tinh thần yêu nước. Ông đã nhiều lần truyền đạt ý nghĩa đó trong những tác phẩm sôi nổi, thúc đẩy thế hệ trẻ phải đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, có Lưu biệt khi xuất dương đã thành công trong việc mô tả người chí sĩ yêu nước khi chuẩn bị bước vào hành trình thực hiện ước mơ lớn:
Làm trai phải lạ ở trên đời
…
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Dễ dàng nhận thấy, vào những năm đầu của thế kỉ XX, tinh thần yêu nước đã trở nên mạnh mẽ đến đâu, đặc biệt là từ những nhà nho. Sự thất bại của phong trào Cần Vương, hoặc câu chuyện “Bình Tây phục quốc” không thành… đều là thực tế đau lòng của dân tộc. Nhưng sức mạnh của truyền thống yêu nước hàng nghìn năm, kết hợp với những “bức tranh mới” của thời đại, đã tạo ra những phong trào như Duy tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục… đã đánh thức một tầng lớp nhà nho nhiệt huyết. Họ đã đáp ứng tiếng gọi của lịch sử: một số cắt tóc đầu, chấm dứt việc học để đi tìm lối sống mới, một số tạm biệt gia đình, người thân, quê hương để sang Tàu, Xiêm, Nhật để tìm kiếm một tương lai đầy hy vọng và mơ ước. 'Tất cả những ý chí của thế hệ trí thức yêu nước đã hướng về một mục tiêu vĩ đại: 'khôi phục nước nhà' (Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu cũng đã hướng sự nghiệp đó về phía Nhật Bản. Chưa nói đến sự đúng sai của con đường đó, nhưng ông đã tạo ra một nguồn sinh khí mạnh mẽ thổi bùng khát vọng đấu tranh của dân tộc trong một thời gian dài. Lưu biệt khi xuất dương ra đời trong bối cảnh như vậy. Khúc trang ca khi ra đi này ông viết để chia tay bạn bè, đồng đội nhưng đã mô tả chân thực và lãng mạn hình ảnh người chí sĩ yêu nước trong lúc lên đường.
Bức tranh về những nhà nho ái quốc hiện ra với hình ảnh phi thường, thách thức cả không gian và thời gian:
Làm trai phải lạ ở trên đời
…
Sau này muôn thuở há không ai?
Người chí sĩ ấy vẫn mang theo khát vọng chí làm trai từ ngày xưa, nhưng khát vọng đó thật oai hùng, phi thường của một vĩ nhân. Có hai vấn đề, mà không phải là sự nghiệp “công danh” thông thường đấng nam nhi hay nghĩ tới, đó là phải lạ giữa càn khôn và phải cần có tớ trong khoảng trăm năm này. Phan Bội Châu chọn không gian và thời gian đặc biệt để cái chí của người làm trai được thỏa sức tung hoành. Điều lạ là phải làm được những điều kỳ diệu, phi thường không phải ở đời mà phải giữa càn khôn. Suốt một trăm năm đời người không thể sống hoài, sống phí mà phải trở thành nhân vật lịch sử lớn lao. Ý thức cá nhân, bản ngã lịch sử đẩy tâm tư của người chí sĩ thoát khỏi những suy nghĩ thông thường mà khát vọng mưu đồ việc lớn, xoay chuyển càn khôn, cụ thể là đất nước lâm nguy thì cần phải ra tay cứu nước. Tớ cần phải xoay vần vũ trụ, phải làm điều kinh thiên động địa trong thế kỉ này. Ở Phan tiên sinh, cái tôi yêu nước đầy chủ động, không trông chờ, không hô hào mà trở thành lý tưởng hành động.
Bởi vậy cái phải lạ không phải là một lời nói suông, mà trở thành hành động thực sự:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Người chí sĩ yêu nước như nhân vật trữ tình trong bài thơ này thật khiến người ta thán phục. Cái tráng lệ trong tinh thần không chỉ toát ra từ ý thức cá nhân đầy mạnh mẽ mà ở cả nhận thức đã hoàn toàn chuyển mình. Nhiều nhà nho thời ấy đều biết sự nhục nhã khi phải sống trong cảnh ngoại bang xâm lăng, sự vô nghĩa khi giá trị của nền học vấn cũ giờ đây đã không còn phù hợp. Nhưng để viết nó ra một cách đầy khảng khái, khí chất chỉ có Phan Bội Châu. Cách ông hình tượng hóa hiện thực đất nước rất chân thực: non sông đã chết. Nó không đơn thuần còn là lẽ sống vinh nhục, mà là nỗi đau của nước mất nhà tan. Từ đó không chỉ riêng ông mà biết bao người chí sĩ đã từng là “sản phẩm” của một nền Hán học uy nghi, vững chãi cả ngàn năm, đã từng xuất thân từ chốn cửa Khổng sân Trình cũng đau đớn nhận ra, cái hiền thánh năm xưa đã không còn. Nếu ở trên, hình ảnh người chí sĩ yêu nước thật ngang tàng, thách thức, có phần bướng bỉnh trước vũ trụ, cuộc đời, thì đến đây còn trở nên quật cường, quyết liệt hơn trong nhận thức. Còn sống là còn nhục, còn học là còn ngu. Táo bạo, dứt khoát, người chí sĩ ấy không né tránh mà đối diện với hiện thực thật oai hùng. Bởi vậy điều lạ trong con người của nhân vật trữ tình đã đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy yêu nước của thời đại.
Muốn làm điều kinh thiên động địa, muốn làm cho đất nước thoát cảnh lầm than, muốn thay đổi con đường cứu nước cho dân tộc, người chí sĩ đã vượt xa hơn lời nói mà trở thành hành động cụ thể, đó là: xuất dương.
Vượt bể đông theo cánh sóng
Sóng bạc trải ra khơi.
Câu thơ cuối hình ảnh người chí sĩ lên đường thật phi thường, oai hùng mà lãng mạn. Như một bức tượng đài sừng sững, nguy nga, bức chân dung nhân vật lịch sử năm ấy được đẩy bởi cái nhất thể giữa tự nhiên và con người, giữa ngoại cảnh và ý chí. Mạnh mẽ của sóng bạc hòa cùng nhau đẩy khát vọng, hoài bão của người chí sĩ vút cao. Ba chữ nhất tề phi bản dịch đã không nhắc tới, khiến sắc thái, tinh thần của kẻ sĩ lên đường chưa thể lột tả hết được. Cảnh tượng cuối bài thơ thể hiện một bầu nhiệt huyết sục sôi, lý tưởng lớn lao của bậc sĩ phu yêu nước khi lên đường. Điều đó đã tạo nên một khúc khải hoàn ca tráng lệ, hào hùng để mang theo bao hi vọng, bao niềm tin, bao ước mơ về một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu không phải tự nhiên có sức ảnh hưởng to lớn đến thời đại mà ông sống đến vậy. Bởi tinh thần đó đã khai sáng biết bao nhiêu kẻ sĩ còn mò mẫm trên hành trình phục sinh Tổ quốc. Dẫu Phan tiên sinh sau này vẫn chưa thành công được trong sự nghiệp kinh bang tế thế, nhưng lòng yêu nước và sức mạnh quả cảm của tấm lòng ấy mãi mãi trở thành ngọn lửa sáng rực cả bầu trời Cách mạng những năm nửa đầu thế kỉ XX.
Lưu biệt khi xuất dương bởi vậy không còn là bài thơ giãi bày cảm xúc lưu luyến, bịn rịn trong cảnh chia tay thông thường mà là ý chí quyết tâm ra đi để mưu đồ nghiệp lớn. Bài thơ mãi mãi còn đó sự bất diệt trong khát vọng đấu tranh và tinh thần yêu nước cho những thế hệ sau này.
Hình tượng người chí sĩ yêu nước - Mẫu 4
Phan Bội Châu, người lãnh đạo của phong trào yêu nước ở đầu thế kỉ XX. Mặc dù sự nghiệp của ông không thành công, nhưng tâm huyết và lòng yêu nước cháy bỏng của ông vẫn được nhớ mãi. Ông dùng văn chương như một vũ khí mạnh mẽ để cổ vũ, tuyên truyền cho cách mạng. Bài thơ Xuất dương khi lưu biệt là một trong những tác phẩm như vậy.
Phan Bội Châu được xem như người mở đầu cho văn học trữ tình chính trị của Việt Nam vào thời điểm đó. Bài thơ Xuất dương khi lưu biệt là minh chứng cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước, trước khi sang Nhật học tập, với hy vọng và niềm tin vào một tương lai tươi sáng của đất nước.
Bài thơ Xuất dương khi lưu biệt được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905, trước khi sang Nhật. Bài thơ không chỉ là sự cổ vũ, động viên tinh thần người ra đi, mà còn là sự củng cố niềm tin và tinh thần của những người ở lại về một tương lai tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh người chí sĩ yêu nước hiện ra ở quan điểm về chí làm trai trong thời đại mới, trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều biến động, thù trong giặc ngoài.
'Đàn ông phải sống lạ
Không để số mệnh tự thay đổi'
Đọc cả hai câu thơ, ý thơ về chí làm trai tập trung vào từ 'lạ', những từ khác chỉ nhấn mạnh ý 'lạ' ấy. Phan Bội Châu cho rằng, đàn ông, với sức mạnh của mình, phải có hoài bão, lý tưởng cao đẹp, làm những việc phi thường, không ai dám làm, với lòng kiên định và niềm tin vững chắc. Người đàn ông phải tự đưa mình ra khỏi sự yên bình, hạn hẹp, phải vượt qua mọi khó khăn, mưu đồ những việc lớn lao, hiển hách, xứng đáng với hai chữ 'đàn ông'. Để củng cố quan điểm này, Phan Bội Châu thêm vào câu thơ 'Không để số mệnh tự thay đổi', ý rằng đàn ông phải nắm giữ và làm chủ số phận của mình, không để số phận tự biến đổi theo ý trời đất, mà phải tự tin, mạnh mẽ và táo bạo, quyết định số phận của mình.
'Chí làm người nam bắc, đông tây
Cho phất sức, vẫy vùng bốn bể'
Trong ca dao Việt Nam cũng có nhiều câu rất ý nghĩa.
'Làm người cho đáng nên người
Xuống Đông Đông Tĩnh, lên Đoài Đoài yên'
hay
'Làm người cho đáng nên người
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng'
'Trăm năm cần có người trợ
Sau này có lẽ không ai'
Sau hai câu đề quan niệm chung về chí nam nhi, thì đến 2 câu thực, Phan Bội Châu tiếp tục đưa ra quan điểm về vai trò và trách nhiệm của đấng nam nhi trước thời cuộc, đó là phận sự với đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước có nhiều biến động thì người nam nhi lại càng phải đứng ra thể hiện rõ ràng vai trò, chí khí của mình để phụng sự cho Tổ quốc. Hình tượng người chí sĩ hiện lên với khoảng thời gian 'trăm năm', một là để chỉ đời người, sau là chỉ một thế kỷ nhiêu biến động của đất nước. Người chí sĩ nhận thức rõ ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân, phải đứng lên đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trọng trách vai trò to lớn, phục hưng đất nước. Làm sao cho xứng với sự sắp đặt của tạo hóa, trời đã đem đến cho ta một kỷ nguyên đầy chông gai, thì thân là nam nhi phải xác định rằng đất nước đang cần và bản thân chính là rường cột nước nhà. Ngoài ra người chí sĩ còn hiện lên không chỉ là sự tự nhận thức mà còn hiện lên với tầm nhìn xa trông rộng, lo nghĩ cho mai sau, cho con đường cứu quốc bằng việc lay động thức tỉnh thế hệ thanh niên tiếp nối, cổ vũ họ bằng chính tráng chí, lý tưởng của một nhà cách mạng tiên tiến. Câu hỏi 'Sau này có lẽ không ai?, là hỏi tất cả thế hệ thanh Việt Nam bấy giờ và các thế hệ mai sau, kéo những con người đang chìm trong vũng lầy của sự bế tắc ra khỏi cảnh bất lực trước thời cuộc. Đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước, lý tưởng sống, tráng chí tung hoành bốn bể cho xứng với phận nam nhi, hướng họ đến một nhận thức mới, một niềm tin niềm hy vọng mới, khơi dậy trong tâm hồn họ sự tự tin, quyết đoán của bậc đại trượng phu.
'Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài'
Ở hai câu luận, bậc chí sĩ lại hiện lên với những nhận thức về số phận đất nước, dân tộc và cả nền Nho học vốn tùng huy hoàng nhưng nay chỉ còn là quá khứ. Phan Bội Châu viết 'Non sông đã chết', cái chết ở đây là cái chết của chủ quyền dân tộc, đất nước bị giày xéo bởi lũ giặc ngang tàn. Trong khi ấy những kẻ vốn được coi là đầu não là xương sống, kinh mạch của một đất nước lại hèn nhát, sợ hãi, chỉ biết lo đến cái vinh hoa phú quý phù phiếm của bản thân mà quên đi vận mệnh dân tộc, chấp nhận sống đê hèn, nhục nhã dưới kiếp thuộc địa, để con dân phải lầm lũi thở than. Một đất nước mất quyền tự chủ, một dân tộc không có người lãnh đạo có phải đã 'chết' rồi hay không, chẳng khác nào một cái vỏ rỗng tuếch, những giá trị truyền thống, văn hóa của dân tộc đã bị đàn áp dưới chế độ thực dân. Như vậy việc mất nước, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là trong tư tưởng truyền thống thì đối với mỗi một kẻ đọc sách thánh hiền, một đấng nam nhi nỗi nhục ấy còn đau đớn và dằn vặt hơn gấp bội lần. 'Hiền thánh còn còn đâu đọc cũng hoài', một danh sĩ xuất thân Nho học, nhận được sự giáo dục truyền thống từ thuở còn tấm bé, việc phủ nhận và ý thức rõ ràng về một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại mới chính là nỗi đau đớn khó chấp nhận. Việc tự nhận thức ấy, chẳng khác nào bảo một người luyện võ tự phế đi công lực của mình và phải bắt đầu lại với hai bàn tay trắng. Thế nhưng ta có thể nhận thấy rằng dẫu rằng có xót xa, nhưng người chí sĩ không hề nản chí, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt sẵn sàng từ bỏ thứ vô dụng, để tiến tới một chân trời mới với tư thế hiên ngang mạnh mẽ, tâm hồn tự do và phóng khoáng.
'Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi'
Cuối cùng, hình ảnh người chí sĩ hiện ra với hình ảnh người vượt biển đi tìm một chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, cống hiến và phụng sự cho Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại, sánh ngang trời đất. Không gian rộng lớn, khoáng đãng được gợi ra từ những hình ảnh kỹ vĩ của thiên nhiên từ 'bể Đông' rồi 'muôn trùng sóng bạc', điều ấy thể hiện những khát vọng hành động mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước. Từng đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sục sôi trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện những khó khăn trùng trùng phía trước, ngoài ra cụm từ 'tiễn ra khơi' còn thể hiện sự ủng hộ của thiên nhiên với quyết định và lý tưởng đúng đắn của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên rộng lớn, đứng trước thời cuộc đầy biến động, vẫn giữ cho mình tráng chí ngất trời, phong thái tự tin, kiêu hãnh ra đi tìm con đường mới cho Tổ quốc và dân tộc, đó thực sự là một hình ảnh đẹp đẽ vô cùng.
Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác mang khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, nổi bật với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp kiêu hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái, tự tin, quyết liệt dựa trên cơ sở một lý tưởng và tráng chí cao đẹp - phụng sự và cống hiến cho Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới mẻ. Bài thơ đã khắc họa rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sôi sục ý chí chiến đấu của người chí sĩ nhưng không quá cứng nhắc, mà vẫn đủ nhưng phong thái lãng mạn, bay bổng của người anh hùng khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp.