Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử cung cấp 15 bài văn mẫu cực kỳ hay kèm theo hướng dẫn viết chi tiết và tinh tế. Bằng cách này, học sinh lớp 11 sẽ có thêm nguồn tư liệu học tập và nâng cao kỹ năng viết văn một cách tiến bộ.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 là cảm nhận về tâm trạng và cảm xúc của thi sĩ về quê hương. Trong nỗi buồn sâu thẳm đó, tác giả như muốn tìm sự an ủi trong vẻ đẹp của tình người, nhưng cuối cùng lại chìm đắm vào những hoài niệm và tuyệt vọng. Dưới đây là 15 mẫu phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ, mời các bạn cùng theo dõi.
TOP 15 bài Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ chất lượng nhất
- Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ cho học sinh giỏi
- Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ (4 Mẫu)
- Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 (3 Mẫu)
- Phân tích chi tiết khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích chi tiết khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
I. Mở đầu: Giới thiệu khổ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Ví dụ:
Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài năng nhưng số phận không mấy may mắn. Ông để lại sau lưng một kho văn thơ phong phú. Trong số các tác phẩm nổi tiếng, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nổi bật với cảnh thôn quê thơ mộng, nơi ông luôn khắc ghi trong lòng. Khổ thơ 2 của bài thơ là điểm nhấn tôn vinh vẻ đẹp của nơi thôn Vĩ. Hãy cùng khám phá khổ thơ này của Đây thôn Vĩ Dạ.
II. Phân tích phần thân bài: Khám phá khổ thơ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Câu hỏi 1: Gió đi theo lối gió, mây đi theo đường mây
- Không gian trong câu thơ mở rộng ra hơn so với phần trước: gió, mây
- Cảm nhận được sự chia lìa, sự xa cách qua từng câu thơ
- Tâm trạng buồn bã, u uất: gió và mây không thể tách rời nhưng cũng không thể ở bên nhau
Câu hỏi 2: Dòng nước buồn bã, hoa bắp đung đưa
- Mọi cảnh vật đều trở thành bức tranh thể hiện tâm trạng
- Dòng sông như đóng băng, không muốn chảy, thể hiện tâm trạng u uất
- Từ “buồn bã” như làm nổi bật tâm trạng hơn
- Hoa bắp, sự bao bọc nhưng nhẹ nhàng, không gượng ép
Câu hỏi 3: Thuyền nào neo bến sông dưới ánh trăng ấy
- Sự xa xôi
- Không gian ngập tràn ánh trăng, huyền diệu, mơ màng
- Trăng là biểu tượng thân thuộc, thể hiện tình cảm, lòng yêu thương
Câu hỏi 4: Có mang trăng về kịp cho đêm nay không?
- Khung cảnh ở Huế đẹp như trong thơ ca
- Câu hỏi thể hiện điều mà tác giả ao ước, mong muốn
III. Tổng kết: Thể hiện cảm nhận của em về khổ thơ 2 của bài Đây thôn Vĩ Dạ
Ví dụ:
Khổ thơ thứ hai của bài Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện phác họa cảnh đẹp tuyệt vời, ảo diệu của thôn làng Vĩ, đồng thời thể hiện tâm trạng u buồn của nhà thơ.
Phân tích khổ thơ thứ hai của bài Đây thôn Vĩ Dạ từ góc độ của học sinh giỏi
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những biểu tượng hàng đầu của phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho văn hóa thơ Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Nắng vàng, Trên cầu Tràng Tiền,… Đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá cao nhất trong số những tác phẩm của Hàn Mặc Tử, là bức tranh tinh tế về bản sắc thơ của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ về tình yêu và khát vọng sống. Nếu ở đoạn mở đầu của bài thơ, chúng ta ngắm nhìn vẻ đẹp của tự nhiên và nét đẹp tinh thần của nhà thơ. Thì khi đến khổ thơ thứ hai, chúng ta cảm nhận được sự lưu luyến, cùng tâm trạng lo lắng của nhà thơ. Đây thực sự là một trong những khổ thơ thể hiện một cách chân thực nhất tâm lý và tình cảm của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai của Đây thôn Vĩ Dạ bao gồm 4 câu thơ thể hiện tâm trạng, tình cảm của nhà thơ - người lữ khách khi nhớ về quê hương. Ngay từ đầu khổ thứ 2, tác giả đã mở ra một bức tranh sông nước đêm trăng rõ nét:
Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước buồn bã, hoa bắp lay
Ở đây, chúng ta thấy được tài năng của Hàn Mặc Tử. Chỉ với vài nét chấm phá thôi nhưng có thể hiện lên hình ảnh xứ Huế mộng mơ giữa đêm trăng trong thơ mộng của ông. Đó là một xứ Huế yên bình, huyền ảo với mây trời êm đềm. Dòng sông Hương trong lời thơ của Hàn Mặc Tử hiện lên nhẹ nhàng nhưng cũng rất sâu lắng, thể hiện được bản sắc của xứ Huế mộng mơ. Đó là cảnh vật: gió nhè nhẹ lay đưa, mây nhẹ nhàng trôi,… Ở đây, mọi cảnh vật đều di chuyển nhẹ nhàng, êm đềm - đó là một đặc điểm đặc biệt của Huế. Giống như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói: “dòng nước sông Hương gần như chỉ còn là một mặt hồ yên bình. Sông Hương chảy chậm, thật chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế”.
Nhưng cảnh vật trong mắt của nhà thơ cũng mang nét buồn, không có sự kết nối. Mây và gió thường là những thứ gắn liền với nhau, hòa quyện vào nhau. Nhưng ở đây “Gió theo lối gió, mây theo đường mây”, như không có chút vấn vương nào.. Cùng với dòng nước “buồn bã” càng làm nổi bật nỗi buồn sâu thẳm ấy. Và trong không gian ấy, hoa bắp chỉ nhẹ nhàng “lay”. Động từ “lay” trong tình huống này nghe sao u buồn, nó giống như một sự níu giữ buồn bã. Hình ảnh “hoa bắp lay” như hiện thân cho sự cô đơn, lạc lõng, bị cuộc đời lãng quên của nhà thơ. Dường như nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, cảnh vật, khiến tâm trạng con người không thể vui lên được. Câu thơ nghe sao dài dằng dặc, làm cho nỗi buồn không thể xua đi.
Đêm trăng đã biến dòng sông Hương trở nên huyền ảo hơn bao giờ hết. Cùng với bầu trời trong lành, ánh trăng chiếu sáng mạnh mẽ tạo ra những dải ánh vàng trên mặt nước. Nó khiến cho dòng sông bỗng chốc trở thành “dòng sông trăng”. Ở đây, tác giả đã nhân hóa dòng sông. Dòng sông không chỉ đơn thuần là một cảnh vật tĩnh lặng nữa, qua lời thơ của Hàn Mặc Tử nó trở thành một sinh vật có tâm hồn mang nỗi niềm của con người. Dường như nó chính là biểu tượng cho người thi sĩ.
Cảnh vật trở nên u ám hơn khi các sự vật dường như xa lạ nhau. “Mây” và “gió” trở nên xa cách. Khung cảnh lúc này gió và mây dường như đã thuộc về hai thế giới khác nhau, không còn liên kết với nhau nữa. Câu thơ thể hiện hiện thực đắng cay và tâm trạng rối loạn của nhà thơ. Đó là tình trạng sống trong sự chia lìa với cuộc sống đầy biến động, khi gió và mây giống như hai đường thẳng song song, không hòa hợp gì. Lúc đó, chỉ một từ “láy” nhẹ nhàng của gió cũng đủ để thổi lên nỗi buồn muôn thuở của con người.
Tiếp sau đó, tâm trạng lo âu, bồn chồn của nhà thơ được thể hiện rõ ràng. Dường như nhà thơ đã đặt quá nhiều hy vọng, để rồi bây giờ nỗi thất vọng trỗi dậy ngay trên dòng sông Hương này. Đó không chỉ là nỗi thất vọng, mà còn là nỗi sợ hãi, lo lắng về sự chia lìa.
Thuyền nào neo bến sông trăng kia
Có đưa trăng về kịp tối nay không
Một cảnh vật lung linh, huyền ảo với ánh trăng ngập lối được mở ra. Hình ảnh này mang đến ý nghĩa vừa thực vừa mơ như tâm trạng của nhà thơ. Tác giả dùng “sông trăng” để miêu tả dòng sông ngập tràn ánh trăng, mang đến sự kỳ diệu. Chiếc thuyền neo trên dòng sông trăng giống như chính nhà thơ. Ánh trăng dường như đã lan tỏa khắp không gian và thời gian, tạo nên một cảm giác mơ màng.
Tác giả sử dụng “thuyền nào” vừa như câu hỏi, vừa như câu thán phục. “Thuyền nào” mơ hồ nhưng chúng ta biết đó là khát vọng của nhà thơ, mong mỏi về người xưa, nơi quê hương. Trong khi đó “thuyền nào” lại đem lại một hình ảnh cô đơn. Hình ảnh này mơ hồ, mong manh giống như ánh trăng lúc có lúc không. Điều này cũng thể hiện sự lo lắng, phấn khích của nhà thơ.
Có thể, Hàn Mặc Tử muốn sử dụng dòng sông trăng để mở ra một thế giới tâm sự sâu thẳm. Đó cũng là không gian để tác giả giải tỏa những nỗi đau, lo lắng. Trong câu thơ, chúng ta cảm nhận được niềm khao khát, lòng khắc khoải của Hàn Mặc Tử. Điều này được thể hiện qua từ “kịp” mà tác giả chọn. “Kịp” mang ý nghĩa không chắc chắn, khiến nhà thơ sống trong sự chờ đợi, mong muốn. “Kịp tối nay” như một lời cầu nguyện, vì chỉ còn ngày mai, mọi thứ sẽ kết thúc. Từ đó, chúng ta nhận ra cuộc sống của nhà thơ dần trở nên cạn kiệt. Sự chia ly có thể đến bất cứ lúc nào. Do đó, nếu thuyền không kịp chở “trăng” về tối nay, nhà thơ sẽ phải rời đi mãi mãi trong đau khổ, hối hận.
Với bút pháp tả cảnh tinh tế, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi, thân thuộc. Đó là quê hương, nơi gắn bó từ thuở thơ ấu. Bài thơ cũng là lời thổ lộ của một trái tim yêu người, yêu đời mãnh liệt. Tuy nhiên, niềm tin ấy lại sớm chìm vào vô vọng. Và khổ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ là minh chứng cho điều đó. Khổ thơ thứ hai là sự nhớ lại của tác giả về nơi mà ông đã gắn bó – dòng sông Hương và tâm trạng lo lắng, phấn khích khi mong chờ tâm hồn đồng điệu, tình cảm thấu hiểu. Đây có thể là khổ thơ thể hiện tâm trạng của tác giả khi chờ đợi tình yêu, sự chia sẻ.
Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ (4 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Ai đó từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe tiếng nói từ đáy lòng của thi sĩ. Thơ là cách thể hiện bản thân. Đến với bài thơ, ta cảm nhận được tình cảnh, số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử chính là một bài thơ như vậy. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta nhận ra một trong những điểm độc đáo tạo nên phong cách thơ của ông, đó là mạch thơ đan xen nhưng vẫn có sự thống nhất trong cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự hồi tưởng về vườn Vĩ Dạ đẹp đẽ lúc xuân tới thì khổ thơ thứ hai lại là hình ảnh xứ Huế đêm trăng lãng mạn cùng nỗi đau, nỗi buồn tuyệt vọng:
Gió dẫn mây, mây đi theo gió
Dòng nước u buồn, hoa bắp lay
Thuyền nào gắn bến dưới ánh trăng kia
Đưa trăng trở lại kịp trong đêm nay.
Chỉ với vài nét tinh tế, Hàn Mặc Tử đã khơi gợi một cách thần kỳ linh hồn của xứ Huế trong đêm trăng mộng mơ, huyền ảo. Bằng bút pháp mạch lạc, tác giả đã miêu tả chân thực vẻ đẹp êm đềm của mây trời Huế. Hai từ “buồn thiu” tạo ra hình ảnh sâu lắng, yên bình của dòng sông Hương. Trong cảnh trăng rọi sáng, dòng sông trở thành dòng sông trăng, những con thuyền nằm yên giữa dòng nước. Hàn Mặc Tử say mê trăng, yêu trăng. Bài thơ của ông luôn chứa đựng những dòng thơ về trăng. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta cảm nhận được vẻ đẹp dịu dàng và huyền ảo nhất của thơ trăng của thi sĩ.
Gặp sự từ chối của cuộc sống, thơ thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử chia sẻ tâm tư, thể hiện lòng mình. Bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” không ngoại lệ. Ngay từ câu thơ đầu tiên của khổ thứ hai, chúng ta nhận ra sự chia lìa, bất đồng:
'Gió dẫn mây, mây đi theo gió”, mối liên kết giữa gió và mây vốn không thể tách rời, nhưng ở đây lại chia lìa, gió một nẻo, mây một nẻo. Làm sao? Có lẽ trái tim thi sĩ luôn phải chịu nặng nề sự chia lìa, khiến mọi thứ đều trở nên xa cách. Không chỉ gió mây chia lìa, dòng nước hãy hoạ, dòng nước buồn bã, hoa bắp lay. Dòng sông ôm nỗi buồn im lặng, rơi rụng. Dòng sông đã chứa đựng mối buồn, nỗi chia lìa của gió mây đã truyền vào lòng sông câm lặng? Hay nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của thi sĩ đã ảnh hưởng đến dòng sông? Khó có thể giải thích một cách rõ ràng. Chỉ cần đọc câu thơ, lòng ta tràn ngập nỗi buồn, nhớ nhung cay đắng và thấu hiểu. Phụ họa với dòng nước buồn bã là hoa bắp mạt mạt bay trong gió. Động từ “lay” tự nó đã không vui, không buồn nhưng trong câu thơ này, nó mang nhiều ý nghĩa âm thầm và khó quên. Có lẽ chữ “lay” kia đã kèm theo nỗi buồn trong câu ca dao:
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong thế giới nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay đầy thương tâm. Tất cả dường như đang rời bỏ nơi này. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi đi, chỉ còn bông hoa bắp đơn côi, lạc lõng trên bờ sông hoang vắng. Hành động 'lay' như một sự níu giữ, một lưu luyến không hy vọng. Hình ảnh hoa bắp 'lay' giống như biểu tượng cho tình trạng lạc loài, lạc lõng, bị bỏ rơi của thi sĩ.
Đối mặt với sự ra đi, thi sĩ bỗng ao ước có một điều gì đó trở lại, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, điều đó là trăng, và chỉ có vậy:
Thuyền nào đậu bến sông trăng kia
Có thể chở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử ao ước có trăng như vậy? Có thể bởi ông đã bị lãng quên trong cung điện của sự chia lìa, trong bóng tối, 'không trăng, không nhạc' nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn nữa, với Hàn Mặc Tử, trăng là biểu tượng của sự sống, niềm hạnh phúc mà thi sĩ mong mỏi. Với những ý nghĩ như vậy, giờ đây, 'trăng là người bạn duy nhất', là tri ân, là cứu cánh với Hàn Mặc Tử. Câu thơ bày tỏ niềm khao khát, da diết, khắc khoải. Câu thơ mang vẻ khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật đau lòng, bi kịch thay cho thi sĩ, trong lời khẩn cầu da diết đó, ta thấy một nỗi lo âu, tuyệt vọng, đau đớn. Nỗi niềm ấy ghi sâu vào mấy chữ 'kịp tối nay'. Cơ hội để đón trăng, đắm mình trong trăng là ngắn ngủi mong manh.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là dấu chấm hết. Cái lưỡi hái tử thần đã chạm tận cổ, chuông chứng minh linh hồn nào đã ra đi. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn là thế mà bến sông trăng cứ ở xa xôi. Câu thơ không phải là lời cầu xin, mà là một câu hỏi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi thốt lên những lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã tìm được lời giải cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền chở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cuộc sống này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những dòng thơ này, ta cảm nhận sự đau buồn. Tiếc thương đổ dồn về đâu đây dự cảm xót xa:
Một sáng mai ở bên khe nước ngọc
Với những hạt sương anh nằm ngủ tựa như trăng
Không thấy nàng tiên mô đến khóc
Để âu yếm và lau chùi vết thương lòng.
Bằng bút pháp tinh tế, hình ảnh tinh xảo, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ cũng là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
Bài mẫu 2
'Thôn Vĩ Dạ ơi! Thôn Vĩ Dạ ơi
Biết che chắn cành trúc không gì buồn hơn khi say mê?'
Sắc đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê ấn tượng đến đáng nhớ. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.
Vĩ Dạ tươi đẹp với những khu vườn xanh mướt, mịn màng dưới ánh bình minh, với những con người hiền lành, hòa nhã thoáng qua những cành tre lá trúc thanh bình. Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng với dòng sông hiền hòa:
'Gió theo lối gió, mây dọc theo đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bên bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp tối nay không?'
Cặp câu thơ đầu sử dụng phép tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho chúng ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi đôi. Nhưng ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, mọi thứ đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Mây lững lờ bay trên cao, gió hiu quạnh thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của tác giả.
Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung đó: 'Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'. Dòng nước thấm đẫm cái buồn của cảnh vật là cái 'buồn thiu' của tâm trạng đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại cảnh. Bên bờ sóng, những bông hoa kia cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ lay động. Chúng ta cũng đã từng thấy hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó vẫn thật buồn.
'Lá ngô lay bên bờ sông
Bờ sông vẫn còn gió, người đã không thấy về'
Hoặc đó là nỗi buồn khi ngắm cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:
'Ai về Giồng Dứa qua đám đông
Gió lay bông sậy, gạt đi buồn phiền'
Dù là nỗi buồn của cảnh chia ly, nỗi buồn của nỗi mong chờ mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phản ánh tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc sống.
Trong bối cảnh sông nước thơ mộng, thời gian biến đổi mạnh mẽ. Một cái kết thúc, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Hai dòng thơ sau thể hiện tâm hồn của nhà thơ mang nỗi buồn và cô đơn nhưng vẫn đong đầy tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực nhưng lại như mơ với dòng sông biến thành dòng sáng, lấp lánh dưới ánh trăng vàng, hoặc là dòng ánh sáng lan tỏa khắp vũ trụ, làm cho không gian trở nên huyền ảo, lôi cuốn. Con thuyền, ban đầu đơn giản chỉ là một phần của dòng sông, giờ đã trở thành biểu tượng của ước mơ, đậu bên bến sông trăng để đưa trăng về một chốn trong mơ. Ai chủ nhân của thuyền? Người dân thôn Vĩ hay chính nhà thơ? Không rõ, chỉ biết rằng thuyền chở đầy trăng. Với sự liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương dưới ánh trăng. Đến cuối bài thơ, thuyền, dòng sông, ánh trăng kết hợp với hồi ức, gợi lên tâm trạng của nhà thơ trong hiện tại, khi nhìn thấy thuyền đang chở trăng về, liệu có kịp đến đâu vào tối nay? Có lẽ 'tối nay' là một tối buồn và cô đơn, nhà thơ có những suy tư mà chỉ trăng mới hiểu được. Điều này cho thấy Hàn Mặc Tử yêu thích trăng, yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người ở đây, nhưng có vẻ như không được đáp lại, nhà thơ tìm đến trăng như một người để tâm sự và giảm bớt cảm giác cô đơn, lạc lõng và những tâm trạng xấu xa.
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một tác phẩm nghệ thuật đầy suy tư. Với sự sáng tạo và khả năng quan sát tinh tế, Hàn Mặc Tử đã mô tả rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Bằng sông Hương, dòng nước nhẹ nhàng trôi, mây trôi nổi, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, và khắc khoải trong ước mơ về cuộc sống và tình người, nhà thơ đã để lại cho người đọc những suy tư sâu sắc về một Vĩ Dạ mộng mơ ở xứ Huế, nơi mà một đôi mắt đau đáu hướng về.
Bài làm mẫu 3
Hàn Mặc Tử nổi tiếng là một ngôi sao sáng trong phong trào thơ mới. Thơ của ông là tiếng nói của một tâm hồn yêu cảnh vật, yêu cuộc sống, yêu con người một cách nồng nàn. 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một bức tranh thơ phản ánh tình yêu và khát khao cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Khổ thơ thứ hai của bài thơ này là một tấm gương cho thấy ký ức và lo lắng của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai: bầu trời, sông nước của thôn Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn bã, chia rẽ, và tuyệt vọng, phản ánh sự khao khát được gặp lại của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đầu tiên với sự đan xen của nhịp 4/3 tạo ra sự đối lập. Hai hình ảnh tự nhiên là gió và mây, thường đi cùng nhau, nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử, chúng dường như đối lập. Sự đối lập này dự báo về sự xa cách và chia lìa sắp xảy ra. Thiên nhiên không hòa hợp vì con người mang theo nỗi lo âu và sự cô đơn, và vẻ đẹp của cảnh vật chỉ là một phần của tình trạng tinh thần của nhà thơ.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để biểu hiện tâm trạng 'buồn thiu' của dòng nước. Dòng nước trở nên im lặng, không muốn chảy, như đang từ từ mất đi sự sống. Hàn Mạc Tử mang trong lòng mình nỗi buồn nặng nề. Hình ảnh hoa bắp kết hợp với động từ 'lay', một sự chuyển động nhẹ nhàng, gợi lên không gian lặng yên với cảm giác hiu quạnh, thiếu vắng, u buồn, cô đơn. Cảnh sắc được nội tâm hóa thể hiện nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của nhân vật trữ tình.
Mặc dù cảnh vật đẹp nhưng lại cô độc, phân tán, u ám mang trong lòng nỗi cô đơn, u sầu của nhà thơ trước cuộc sống đầy gian khổ. Cảnh sắc của sông Hương xứ Huế hiện lên đầy nỗi buồn, hoa bắp lay động, gió mây đan xen tạo nên không khí hoang vắng chứa đựng nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn của nhà thơ kết hợp với nỗi buồn của xứ Huế cùng với những khát khao không nguôi.
Trong tâm trạng thê lương buồn thảm đó, bỗng nảy sinh những ước mơ hy vọng về một điều gì đó có thể trở về, để dựa dẫm, để giữ chặt. Dường như ước mơ của Hàn Mạc Tử thường liên quan đến ánh trăng, với chiếc thuyền thể hiện sự mong đợi, sự gặp lại.
Trong hai câu thơ tiếp theo, tác giả mô tả cảnh đêm trăng của thiên nhiên, cảnh sông Hương xứ Huế, một trong những địa danh đặc trưng khi nhắc đến Huế. Hình ảnh thuyền chở trăng là một biểu tượng lãng mạn và thú vị. Sông trăng: là dòng sông long lanh soi bóng ánh trăng vàng, mang trong mình linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên. Đại từ 'ai' tạo ra cảm giác mơ hồ, xa lạ, mơ màng, không biết đó là thuyền của ai, người dân xứ Huế hay của Hoàng Cúc. Hay chỉ là nhà thơ mơ mộng như thế. Sự mơ hồ đó lại thể hiện tâm trạng bâng khuâng, khó tả của nhà thơ.
Thể hiện vẻ đẹp huyền ảo của sông trăng, ánh trăng tác giả đã gợi lên được vẻ đặc trưng của xứ Huế, êm đềm và thơ mộng. Câu hỏi 'kịp tối nay?' thể hiện sự thắc mắc, lo lắng mang theo nỗi khắc khoải, khẩn thiết. Từ 'kịp' làm cho thời gian trở nên ngắn ngủi. Câu hỏi liên tiếp đầy lo lắng, chờ đợi và lo sợ trong tâm hồn của nhà thơ. Hình ảnh 'Thuyền chở trăng', 'bến sông trăng' là biểu tượng của sự lảng tránh giữa hư không và hiện thực, niềm ao ước gặp gỡ duyên phận.
Những ước ao đơn giản của Hàn Mặc Tử lại liên quan đến những nỗi đau và dự cảm tan vỡ. Cảnh vẫn đẹp nhưng chứa đựng vẻ hiu quạnh, buồn bã, lạnh lẽo. Tác giả cảm nhận nỗi buồn của một người phải xa cách với cuộc sống ở tuổi 28 vì căn bệnh phong quái.
Nếu trong khổ thơ đầu tiên tác giả mô tả cảnh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống, thì trong khổ thơ thứ hai, cảnh vật đột ngột trở nên u ám, buồn bã. Trong nỗi buồn tha thiết đó, tác giả muốn nương tựa vào đẹp của tình người và cuộc sống, nhưng vẫn không thể tránh khỏi những tuyệt vọng, và cuối cùng nhà thơ chìm sâu vào mộng mị.
Hàn Mặc Tử, một trong những tượng đài của phong trào Thơ Mới. Thơ của ông là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người một cách sâu sắc, nồng nàn. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là biểu hiện của tình yêu, khát khao cuộc sống. Khổ thơ thứ hai mang đến hoài niệm và lo âu của thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của thi sĩ. Mặc dù phải trải qua những bi kịch, thi sĩ vẫn khát khao yêu cuộc sống.
Những ước muốn tưởng chừng đơn giản của Hàn Mặc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm tan vỡ. Cảnh vẫn đẹp nhưng lại thấm đượm vẻ hiu hắt, buồn bã, lạnh lẽo. Tác giả đã cảm nhận được nỗi buồn của một con người phải xa cách với cuộc đời ở tuổi 28 chỉ vì căn bệnh phong quái ác.
Khổ thơ thứ hai mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, kèm theo tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được mô tả:
“Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi lên tâm trạng về sông Hương - linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm đềm, gợi lên đặc điểm riêng của Huế: gió nhẹ lay, mây nhẹ bay, hoa bắp nhẹ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm đềm, tạo ra không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đậm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió, mây theo đường mây”. Câu thơ chia nhịp 4/3, tách thành hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” lặp lại ở vế một, tạo khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” lặp lại ở vế hai, tạo ra một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật ban đầu đi cùng nhau thì giờ đây tách biệt và chia lìa. Gió bao trùm trong gió, mây che kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý nên gió vẫn gió, mây vẫn mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn của ca dao, chỉ hoạt động nhẹ nhàng của sự vật khi có gió nhẹ. Nó đặc trưng cho nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thuở của con người.
Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp tối nay”
Cảnh vật lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo được tạo ra. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng trôi như dòng nước. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lý giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỷ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.
Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trong bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 (3 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Đây thôn Vĩ Dạ là Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, xuất hiện trong tập Thơ điên. Bài thơ không chỉ làm nổi bật danh tiếng của một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời lại đầy cay đắng, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh đã trở nên nổi tiếng ở Huế:
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn, chia li tuyệt vọng và đau đớn của Hàn Mặc Tử.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Tiếp theo khổ một mô tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự di chuyển từ bên ngoài vào trong tâm trí. Do đó, bầu trời và sông nước cũng tràn ngập tâm trạng của thi sĩ. Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên tách biệt, không hoà nhập với nhau, điều này được thể hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng” của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các từ ngữ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thứ hai với hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” tiếp tục làm sâu thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu quạnh, hai câu thơ này không chỉ mô tả cảnh vật mà còn tả tình trong cảnh và nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia ly, sầu tủi, hiu quạnh. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.
Cùng với cảm giác chia xa, mạch thơ đã chuyển từ thế giới thực của thôn Vĩ sáng sủa, tràn ngập ánh nắng ở khổ một sang một thế giới mơ mộng, tắm trong ánh trăng ở khổ hai:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn ngập vũ trụ, tạo ra một không khí nửa thực nửa mơ, như trong cõi mộng. Trăng luôn là biểu tượng của sự đẹp, hạnh phúc và niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh ấy, trăng trở thành 'người bạn tri âm duy nhất, tri kỷ', giờ chỉ còn là một ước mơ, khao khát gặp gỡ và nỗi lo âu về sự trì hoãn, dang dở. Vì vậy, câu thơ của Tử vang lên như một câu hỏi đau đớn, một nỗi niềm day dứt đầy phấn khích “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Bài mẫu 2
Phong trào thơ mới từ 1932-1945 chứng kiến sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Thơ mới đặt biệt trọng vào cảm xúc, khác biệt hoàn toàn so với thơ trung đại về ý nghĩa và hướng đi. Hàn Mặc Tử đã miêu tả thơ như việc đánh một hồi chuông, bấm một sợi dây, để lại dấu ấn sâu đậm. Thơ ông luôn nhấn mạnh về nghệ thuật, nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, là sự kết hợp giữa vẻ đẹp kỳ dị và nỗi đau thương, xen kẽ những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu cảm xúc, thực nhưng cũng như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Bốn câu thơ được trích từ bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh sông nước xứ Huế với nét đẹp đan xen nỗi buồn. Mở đầu với hình ảnh của 'gió' và 'mây'. Hai yếu tố này thường đi đôi với nhau, nhưng trong thơ của ông, chúng lại tách biệt nhau.
Những điều không thể tách rời đã bị thơ của Hàn Mặc Tử chia cắt. Dòng nước, mặc dù vốn vô tri vô giác, nhưng với biện pháp nhân hóa, nó cũng mang những cảm xúc buồn vui của con người. Sự chảy 'buồn thiu' của dòng sông Hương lặng lẽ như làn điệu êm ái. Sự trôi chảy không định hình của nó chứa đựng nỗi buồn của sự vận động giữa mây và gió, hay là sự mất mát, chia lìa của Hàn Mặc Tử lan tỏa đến cảnh vật.
Đúng như câu của Nguyễn Du trong truyện Kiều: 'lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Trên dòng sông Hương xứ Huế, có những 'hoa bắp lay' nhẹ nhàng đong đưa ở hai bên bờ, đặt cùng với gió, mây, nước, hình ảnh 'hoa bắp lay' ấy trong ca dao và cũng gặp được nỗi buồn trong thơ, trong nỗi buồn của người chinh phụ. Trúc Thông đã viết: 'Lá ngô lay ở bờ rông'.
Trên bờ sông Hương xứ Huế, hình ảnh buồn hiện lên, gió mây đan xen, hoa bắp lay nhẹ, không gian vắng vẻ ngập tràn nỗi buồn thê lương. Tâm trạng u sầu của thi sĩ hòa quện với nhịp đời buồn của xứ Huế và những khát khao không nguôi:
Thuyền ai chở bên bờ sông trăng kia
Có thể đưa trăng về đúng tối nay?
Trong tâm trạng u tịch ấy, những ước mơ hy vọng tựa như bùng cháy, mong được giữ lại một phần gì đó, để níu giữ, để bám vào. Dường như ước mơ của thi sĩ thường liên quan đến trăng, với thuyền thì biểu hiện khao khát tương duyên. Thuyền chở trăng mang vẻ đẹp mơ hồ mà tác giả luôn theo đuổi, vẻ đẹp không thể nắm bắt được. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng, với hình ảnh sông trăng trôi, hoặc trăng hòa mình vào nước để trôi từ vũ trụ về đâu đó xa xăm. Thuyền chở trăng vừa mơ mộng vừa hiện thực. Bên cạnh những mong chờ ấy là những lo âu từ chữ 'kịp', nỗi mong đợi thầm lặng đã tìm thấy chỗ dựa là chiếc thuyền trên sông trăng, nhưng càng mong chờ hy vọng thì càng lo sợ vì mất mát hiện tại ngắn ngủi. Khát vọng ít ỏi nhưng tuyệt vọng lấp đầy tâm hồn. Những mong đợi giản đơn ấy của Hàn Mặc Tử liên quan đến những đau thương và sự vỡ vụn.
Nếu khổ thơ đầu tiên phản ánh cảnh thực, thì khổ thơ thứ hai của bài Đây Thôn Vĩ Dạ cảm nhận thế giới mơ màng. Trong nỗi đau lòng sâu kín, thi sĩ muốn tìm sự ấm áp trong vẻ đẹp của cuộc sống và tình yêu thương, nhưng mỗi lần hy vọng, ông vẫn không thể tránh khỏi những nỗi thất vọng, dần dần chìm vào cõi mơ. Khổ thơ thứ hai này đóng góp vào việc liên kết và gia tăng giá trị cho bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thành nhất của Hàn Mặc Tử - nhà thơ 'điên'.
Bài làm mẫu 3
Trong phong trào Thơ Mới, các nhà thơ được tự do thể hiện bản thân cá nhân. Nếu Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên và con người một cách cô đơn và hoài nghi, Lê Trọng Lư phiêu lưu trong những bài thơ tình yêu, thì Hàn Mạc Tử lại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ của Hàn Mạc Tử, ta không thể không nhớ đến bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ - một tác phẩm đầy cảm xúc về con người và đất đai Huế. Trong bài thơ này, ấn tượng nhất là khổ thơ thứ hai, khi nó chứa đựng bi kịch và nỗi buồn.
Bài thơ được viết khi nhà thơ nhận được một tấm thiệp từ một cô gái tên là Hoàng Cúc, mang tên một loài hoa. Nhà thơ gặp cô ấy tại Huế và họ đã có một thời gian ở bên nhau. Cả hai đều hiểu tình cảm của mình, nhưng nhà thơ lại là một người rất nhút nhát. Trước Hoàng Cúc, có nhiều cô gái đã yêu thương ông và ông cũng thích họ, nhưng ông không bao giờ tỏ tình, dần dần những cô gái ấy không chờ đợi nữa mà rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi họ chia tay, cô ấy đã lấy chồng, nhưng vẫn coi ông là một người bạn. Khi biết ông bị bệnh, cô ấy gửi cho ông một tấm thiệp hỏi thăm và trách móc vì sao ông không về thăm thôn Vĩ. Những kỷ niệm và cảnh vật của Huế hiện lên tự nhiên trong tâm trí nhà thơ, với nỗi nhớ và tình thương con người.
Khổ thơ thứ hai đem lại cho chúng ta thấy nhiều nỗi lo lắng và suy tư về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn thơ mang tâm trạng sâu nhất, buồn nhất và bi kịch nhất.
Bắt đầu bài thơ là một cảm giác chia ly buồn thảm. Hiện tại khiến nhà thơ nhớ về những gì đã qua, và bốn bức tường cách ly là rào cản ngăn cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo luật tự nhiên, gió thường thổi mây bay. Nhưng ở đây, nhà thơ lại tách rời gió và mây, gió theo hướng của gió, mây đi theo con đường của mây, thể hiện sự chia ly cách biệt. Nhà thơ đau đớn và buồn bã nên đã phá vỡ quy luật tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Có thể gió và mây ở đây là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu và xinh đẹp, hoặc có thể là nhà thơ và cuộc đời này. Khi nhà thơ rời bỏ Huế, ông không biết đó sẽ là lần cuối cùng và mãi mãi không thể quay lại để thăm lại những người và cảnh vật ở đây. Hàn Mạc Tử rất lưu luyến với cuộc đời này, nhưng số phận đã khiến ông phải mắc một căn bệnh không chữa trị, gây đau đớn hàng ngày. Vì vậy, mọi thứ đều trở nên chia ly và xa cách. Nhà thơ gặp khó khăn vô cùng, như Cù Huy Cận đã thể hiện qua câu thơ:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Tuy cũng buồn và chia ly, nhưng tại sao nó lại không trở thành bi kịch như câu thơ của Hàn Mạc Tử? Sự buồn không chỉ trải dài trên bầu trời mà nhìn vào ánh mắt của nhà thơ, ta còn thấy nó lan tỏa khắp cảnh vật xung quanh. Bởi vì:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước như được biến thành nhân vật, cũng biết buồn giống như thi sĩ, khiến mọi người cảm thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được cách dòng nước lững lờ trôi chậm như thế nào, tạo điều kiện cho nỗi buồn của nhà thơ chiếm lĩnh, gây ra thêm đau đớn. Cơn gió không mạnh mẽ, không tươi mát, không làm cho con người cảm thấy hứng khởi. Chỉ là nhẹ nhàng lay hoa bắp bên bờ sông. Những từ “buồn thiu”, “khẽ” khiến cho người ta cảm thấy đau lòng.
Ở bên bờ sông, bên cạnh những cánh đồng hoa bắp, một chiếc thuyền xuất hiện, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó'
Không ai biết đó là thuyền của Hoàng Cúc, của người dân xứ Huế hay của ai. Có thể nhà thơ chỉ nói một cách mơ hồ như vậy. Sự mơ hồ đó thể hiện tâm trạng của nhà thơ, là một cảm xúc khó diễn tả, đau đớn nhưng cũng không đau, nhớ nhung nhưng cũng thương tiếc, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng cũng không vui vì hiện thực này. Con thuyền có lẽ đã hoàn thành một ngày dài và đang yên bình trên bến đậu. Nhưng khi nghĩ về nhà thơ, trong khi con thuyền chỉ nghỉ ngơi rồi lại ra khơi vào sáng hôm sau, Hàn Mạc Tử chỉ có một cuộc đời duy nhất. Ánh trăng phản chiếu lên dòng sông, tạo nên một bức tranh thơ mộng nhưng lại buồn buông.
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, và bi kịch nhất chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:
“Có thuyền đưa trăng về đúng kịp tối nay không?”
Một câu hỏi hiu quạnh vang vọng, không có câu trả lời. Từ “kịp” đau đớn, đầy bi kịch. Nhà thơ lo lắng, bối rối, không biết liệu con thuyền có thể đưa ánh trăng về đúng giờ không. Đưa ánh trăng, cũng là trở lại người con gái, kịp với nhà thơ. Ông không tham lam, chỉ mong gặp lại người xưa một lần.
Cảm nhận về hai khổ thơ Đây Thôn Vĩ Dạ gợi lên cảm xúc về tình yêu và cuộc đời của nhà thơ. Ai cũng thương xót cho số phận đau buồn ấy. Khi sắp rời khỏi cuộc đời và còn trẻ, còn ước mơ, còn tình yêu dang dở, họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.
Phân tích hai khổ thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
Bài mẫu số 1
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ Mới, thơ của ông luôn mang nét buồn, nổi tiếng với bài thơ 'Đây Thôn Vĩ Dạ' trong tập thơ 'Đau Thương'. Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ trong bài thơ cũng là bức tranh tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, đặc biệt là trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn con người kết hợp vào nhau.
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?'
Ở khổ thơ này, Hàn Mặc Tử tập trung vào dòng sông Hương, một biểu tượng của thôn Vĩ Dạ, hiện lên với vẻ êm đềm, thơ mộng, tâm trạng của nhân vật hay chính là tác giả. Hai câu thơ đầu miêu tả vẻ đẹp của xứ Huế:
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay'
Cảnh vật diễn ra chậm rãi: gió nhẹ nhàng, mây trôi êm đềm, hoa bắp lay động nhẹ nhàng. Nhà thơ nhân hóa gió, mây, nước, chúng như mang tâm trạng và sự liên kết với nhau, tạo ra sự sống động nhưng cũng đầy buồn bã. Nhưng ở đây mây và gió lại xa cách, tạo nên sự xa lạ. Dòng sông buồn thiu, cây cỏ lay động nhẹ nhàng, cảnh vật trở nên hiu quạnh, buồn bã. Hai câu thơ sau khắc họa tâm trạng của nhân vật, hay chính là nhà thơ:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Dù mang tâm trạng u buồn, cô đơn, nhưng trong lòng tác giả vẫn chứa đựng tình yêu sâu đậm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế. Dưới góc nhìn của nhà thơ, dòng sông không chỉ là một dòng nước bình thường, mà còn trở thành một dòng 'sông trăng', nơi mà ánh trăng vàng lan tỏa, tạo nên cảnh vật huyền bí, thơ mộng. Con thuyền thực sự trên dòng sông được biến hóa thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền mang trăng về một bến trong giấc mơ của nhà thơ. Câu hỏi nhẹ nhàng 'Có chở trăng về kịp tối nay?' thể hiện sự mong chờ, chờ đợi của tác giả, mong muốn gặp lại trăng trong tối nay, một tối buồn, cô đơn. Nhà thơ hi vọng được chia sẻ tâm tư cùng trăng, và chỉ có trăng mới hiểu được lòng người. Mong chờ trăng cũng thể hiện tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với trăng, đối với cảnh vật và con người Huế, một tình yêu không được đáp lại, nhưng vẫn mãnh liệt và kiên nhẫn.
Qua khổ thơ thứ hai của 'Đây Thôn Vĩ Dạ', chúng ta cảm nhận được tâm trạng, suy tư của nhà thơ qua hình ảnh thiên nhiên xứ Huế. Mặc dù những cảm xúc đó chỉ là của riêng tác giả, nhưng lại có sức ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài trong lòng người đọc. Chỉ với bốn câu thơ ngắn, tác giả đã truyền đạt được tất cả, từ thiên nhiên xứ Huế đến tình yêu của ông dành cho đất nước và Vĩ Dạ cụ thể.
Bài làm mẫu 2
Hàn Mặc Tử được biết đến là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Tuy nhiên, thơ của ông lại mang một vẻ mơ hồ, bí ẩn, đến mức Hoài Thanh còn phải ca ngợi thơ ông như một nguồn cảm hứng dồi dào và lạ lùng.
Không chỉ vậy, Hoài Thanh đã dành một tháng để nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Hàn Mặc Tử và khen ngợi Vườn thơ Hàn Mặc Tử vô cùng phong phú và sâu sắc. Có lẽ do cuộc đời ông gặp nhiều bi thương và số phận đau buồn mà thơ của ông luôn thể hiện một tình yêu đắng cay dành cho cuộc sống.
Bắt đầu khổ thơ thứ hai của bài 'Đây thôn Vĩ Dạ', Hàn Mặc Tử đã mô tả ngay hình ảnh thiên nhiên sống động:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Hình ảnh gió và mây luôn liên kết như một cặp đôi tri kỷ, không thể tách rời - gió thổi mây bay. Tuy nhiên, với sự sáng tạo của mình, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một nghịch lý chưa từng thấy. Ông vẽ ra một bức tranh thiên nhiên rộng lớn: có gió - nhưng gió theo lối gió; cũng có mây, nhưng mây đường mây.
Mây và gió đi đường, rẽ ngả. Đồng thời, Hàn Mặc Tử còn sử dụng nhịp thơ 4/3 một cách tinh tế - cách này giúp câu văn của ông phân chia thành 2 phần đối lập, một bên là gió, một bên là mây, tạo ra sự chia lìa, cách xa. Từ đó, hai người bạn tri kỷ đó, dường như không thể tách rời, lại quay lưng, rẽ đường, chia ly.
Thực tế, có thể Chế Lan Viên đã đúng khi nói: 'Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn lại của cái thời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử.' Chỉ có ông mới có khả năng biến những điều dường như không hợp lý trong hiện thực trở nên hợp lí trong thơ văn.
Tuy nhiên, mọi thứ mà Hàn Mặc Tử nhân hóa chỉ để diễn tả cảnh gió, cảnh mây. Nguyễn Du đã viết trong tác phẩm nổi tiếng Truyện Kiều rằng: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.' Hàn Mặc Tử buồn vì biết mình mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, quái ác; buồn vì vẫn còn luyến lưu những cảnh vật thơ mộng và buồn vì mối tình đơn phương với người con gái xứ Huế chỉ còn lại trong giấc mơ! Nhưng trên tất cả, có lẽ ông sợ nhiều hơn là buồn. Ông sợ một ngày nào đó mình chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Có phải vì buồn, vì sợ mà cảnh Huế vốn dĩ rất thơ mộng, trữ tình đã dần nhuốm một màu bi ai sâu vào lòng:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Suốt từ ngày xưa đến nay, sông Hương được biết đến như một biểu tượng của vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng và được xem là một trong những biểu tượng lớn của xứ Huế. Vì thế, không có gì lạ khi Sông Hương luôn là đề tài chính trong các tác phẩm thơ ca của nước ta. Sông Hương không chỉ được nhắc đến với tình yêu nồng nhiệt, chân thành mà còn cháy bỏng trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Sông Hương biến thành rượu ta uống
Ta tỉnh, đền đài nghiêng ngả say…
Tuy nhiên, dưới bàn tay tài ba của Hàn Mặc Tử, sông Hương lại hiện lên với một vẻ buồn bã, huyền bí. Nỗi buồn này nhẹ nhàng nhưng kéo dài, nó thấm vào tâm hồn của nhà thơ và lan tỏa đến cả những vật vô tri vô giác: dòng nước, hoa bắp. Cuối cùng, dòng nước trôi lơ lửng; hoa bắp lay động, rung rinh thong thả theo nhịp của gió. Như là nỗi buồn của nhà thơ hòa quyện vào nỗi buồn của thiên nhiên, làm cho nỗi buồn trở nên sâu hơn, cô đơn trở nên hiu quạnh.
Buồn và cô đơn! Nhưng khi trăng lên, không chỉ cảnh vật, mà cả tâm trạng con người cũng thay đổi: Thuyền ai đậu bên bờ sông trăng ấy. Câu thơ này mang theo một khung cảnh đầy ánh trăng – người bạn tâm tình của nhà thơ. Dễ dàng nhận thấy trăng hiện diện khắp mọi nơi: trăng đậu trên con thuyền yên bình bên bờ; trăng chiếu rọi, phủ vàng cả một bến sông rộng lớn; trăng tan chảy, hòa quyện vào dòng sông Hương lặng lẽ trôi.
Chỉ có người có tâm hồn yêu trăng, mê trăng đến điên dại mới có thể tưởng tượng ra hình ảnh bến sông trăng độc đáo như vậy! Trước đây, trong thơ Trương Kế thời Đường chỉ có thuyền bên bến Cô Tô; trong Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước chỉ có Sông xuân mới tỏa sáng dưới ánh trăng. Có thể nói rằng hình ảnh sông trăng của Hàn Mặc Tử là vô cùng độc đáo và tinh tế.
Với sự tinh tế và sáng tạo đó, con thuyền trong thực tế đã chuyển dần vào thế giới mơ ước dưới sự phủ bóng của ánh trăng huyền bí. Liệu Hàn Mặc Tử đã sử dụng sự mơ hồ, huyền ảo của ánh trăng để che lấp nỗi đau và nỗi buồn hiện tại? Vì ông luôn xem thơ như là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn nhớ nhung mong muốn trở lại quá khứ. Không chỉ vậy, từ trước đến nay, trăng luôn xuất hiện trong những bài thơ của ông một cách kỳ lạ hơn nhiều lần:
…
Dòng nước biến thành trăng, trăng nhẹ nhàng tỏa sáng
Ánh trăng phủ lụa, thơm mát hương thơm
…
Say! Say lảo đảo cả bầu trời thơ mộng
Gió hát trong không trung, trăng nghiêng nghiêng
Tiêu tan thành vũng vàng khô
Tôi nằm trong vũng trăng.
(Say trăng- Hàn Mặc Tử)
Nhưng giờ đây, hình ảnh vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ lại đậm chất trữ tình hơn, sâu lắng hơn: Có mang trăng về kịp tối nay? Câu hỏi nhỏ nhẹ chứa đựng nỗi lo âu, bất an của nhà thơ. Nhưng vì điều gì mà nhà thơ phải chờ trăng về chính xác trong đêm nay, chứ không phải là tối mai hay bất kỳ đêm nào khác? Hơn bất kỳ ai khác, có lẽ ông hiểu rõ căn bệnh mình mắc phải và khoảng thời gian ngắn mà mình còn có thể tồn tại trên cõi đời này.
Chính vì thế, trong lòng nhà thơ sống lên một khát khao, một ước ao nhỏ nhoi – được gặp trăng, được nhìn thấy người bạn tri kỷ của mình trong đêm nay để chia sẻ nỗi buồn, nỗi cô đơn, nỗi tuyệt vọng cùng với vầng trăng ấy!
Vầng trăng hiện hình như một điểm sáng mong manh, là niềm hy vọng cuối cùng trong bóng tối, khiến Hàn Mặc Tử lo lắng liệu chiếc thuyền kia có kịp mang trăng về.
Bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng sâu lắng, tác giả đã tái hiện hình ảnh sống động, gợi lên nhiều cảm xúc và tưởng tượng, với những biện pháp nghệ thuật tinh tế và tuyệt vời.
Đoạn thơ không chỉ làm cho độc giả hiểu sâu thêm về tâm trạng của nhà thơ trước ngưỡng cửa sự ra đi, mà còn là minh chứng cho tình yêu cuộc sống và quê hương của một tâm hồn nghệ sĩ.
...............
Tải file để đọc phân tích chi tiết về khu đất thôn Vĩ Dạ.