Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ cuối Tràng Giang của Huy Cận mang đến gợi ý cách viết và 18 bài văn mẫu cực chất đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi trên cả nước. Qua bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 4 giúp các em lớp 11 hiểu được trình tự làm bài, trình tự quan sát, biết cách liên tưởng, so sánh, lựa chọn ngôn từ, chỉnh sửa câu nói cho phù hợp với giọng văn của mình.
Khổ 4 Tràng Giang để chúng ta cảm nhận một bức tranh đẹp nhưng buồn. Ẩn sau từng chữ viết là tâm hồn thi sĩ đơn côi nhưng chứa đựng nhiều tình cảm sâu sắc, đậm đà với quê hương, đất nước. Dưới đây là TOP18 bài văn phân tích khổ 4 Tràng giang hay nhất mời các bạn cùng theo dõi. Bên cạnh đó, bạn có thể tìm hiểu thêm kết bài Tràng giang và mở bài Tràng giang.
Phân tích khổ cuối Tràng Giang
- Dàn ý phân tích khổ cuối Tràng Giang
- Phân tích Tràng giang khổ 4
- Phân tích khổ cuối Tràng giang
- Phân tích khổ 4 Tràng giang
- Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang
Dàn ý phân tích khổ cuối Tràng Giang
I. Khởi đầu: giới thiệu phần khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang
II. Thân bài: phân tích chi tiết về phần khổ thơ cuối của bài Tràng Giang
1. Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên
- Các hình ảnh về mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
- Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn sâu thẳm của tác giả
- Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng
- Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn thể hiện cái tôi nhỏ bé, cô đơn của tác giả
2. Hai câu cuối:
- Nhà thơ cảm thấy nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
- Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và rõ nét
- Khao khát về sự đẹp đẽ, tươi mới của quê hương đất nước, mong muốn góp phần cho sự phát triển của quê hương, đất nước
III. Phần Kết: nêu cảm nhận của tác giả về khổ thơ cuối của bài Tràng Giang
Ví dụ:
Khổ thơ cuối của bài Tràng Giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ bên sông nước. Đồng thời, nó cũng thể hiện cái tôi nhỏ bé của tác giả.
Sơ đồ tư duy khổ 4 Tràng Giang
Phân tích khổ 4 bài Tràng Giang
Ai đó đã từng nhận xét như này về thơ Huy Cận: rằng, thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén mà là men được lên, không phải là hoa trên cành, mà là dòng nhựa đương chuyển. Có lẽ muốn nói về sức sống cũng như sức gợi của sự hàm súc, cô đọng trong cách dùng từ đặt câu của thi nhân. Khổ thơ 4 bài Tràng Giang có thể xem là chuẩn mực cho nhận định ấy.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Thế giới thiên nhiên do Huy Cận tạo ra luôn là một không gian hùng vĩ rợn ngợp và gợi buồn. Như Hoài Thanh đã nói, 'tưởng như Huy Cận đã lượm lặt hết những chút buồn rơi rải rác để viết nên những vần thơ âu sầu ảo nao như thế'. Khi bước vào thế giới thơ, ta ngay lập tức chạm trán với hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà thấm màu buồn được phác lên như một bức phông nền cho cảnh vật. Lớp lớp, mây cao và núi bạc. Những chất liệu rất quen thuộc trong thơ cổ điển, được Huy Cận sử dụng, nhưng điều mới ở đây chính là cách ông kết hợp, nhào nặn chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Vì vậy, Huy Cận không chỉ tập trung vào cổ điển mà còn không ngần ngại sáng tạo. Hình ảnh trong câu thơ này đưa ta về dáng dấp của một câu thơ trong thơ Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Đều là cách diễn đạt gợi lên không gian buổi chiều, hoàng hôn đẹp mà buồn nhưng diễm lệ, mờ ảo. Đồng thời, gợi lên chất hùng vĩ nét khoáng đạt của cảnh vật. Để tiếp tục câu thơ sau, là nghệ thuật đối rất chỉnh của thi nhân:
“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
Cánh chim nghiêng như đã đỡ cả buổi hoàng hôn rực rỡ trên đôi cánh nhỏ bé của mình, như đang mang trong nó cả cái lồng lộng hùng vĩ của dáng chiều. Vẫn là sự thủ pháp đối lập quen thuộc trong thơ cổ, cánh chim nhỏ nhoi, đơn độc giữa chân trời của nó và đối lập là hình ảnh thiên nhiên, là bóng chiều rợn ngợp, rộng lớn, mênh mông. Điều đó tạo cảm giác mới mẻ trong cảm nhận cho người đọc. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ. Tưởng như không chỉ trong cảm giác, mà cả trong dòng chảy của nghệ thuật đang tiếp diễn trên trang giấy, thì cánh chim đơn côi và cô đơn ấy cũng đang gồng gánh và mang trong nó cả bóng chiều lồng lộng.
Đứng trước không gian rộng lớn ấy, nhân vật trữ tình chảy tràn những xúc cảm bồi hồi về quê hương:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Từ 'dợn dợn' thực sự là điểm chính để thấy bút thơ tài hoa của Huy Cận, vừa gợi lên cái cảm giác khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt khôn nguôi trong tâm can, sự khắc khoải, đau đáu của một kẻ đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối, là một chỉ dấu để hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Rằng dù không cần một điểm tựa, điểm gợi đến từ khói trắng của chiều tà, của hoàng hôn thì trong lòng nhân vật trữ tình vẫn dấy lên niềm tha thiết với quê hương. Đây là cảm giác trống vắng, thiếu thốn bất định của cái tôi thơ Mới thời kì bấy giờ. Nhưng đồng thời cũng đặt ra một câu hỏi, liệu có sự gắn kết giữa con người và cảnh vật, con người và con người ở đây không, khiến tôi cảm thấy bơ vơ, cô quạnh và lạc lõng đến vậy. Đó có thể là một sự đứt gãy phổ quát và sự mất mát của giá trị truyền thống và sự chuyển mình của xã hội.
Khổ 4 cuối là khổ thơ đặc sắc, nắm bắt hồn cốt thơ Huy Cận, và cho ta biết, nỗi buồn sầu trong thơ ông không chỉ là nỗi buồn của một hồn thơ luôn vọng ngưỡng về quê hương của mình.
Phân tích Tràng giang khổ 4
'Huy Cận nhặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ. Những dấu tích không bao giờ tan được'. Quả thực là như vậy trong tác phẩm Tràng Giang khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn, ông đã bày tỏ cái tôi nhỏ bé cô đơn và nỗi buồn man mác.
Huy Cận sinh ra ở Hà Tĩnh, ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Nếu thơ của Xuân Diệu phản ánh sự trẻ trung sáng tạo, thì Huy Cận với những dòng thơ sâu lắng, mang nhiều cảm xúc bâng khuâng vui buồn của một hồn thơ đa cảm của văn học Việt Nam. Ông được biết đến là một nhà thơ đa tài. Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét: 'Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, mà ông còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị, xã hội với những dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp của mình'. Ông đã tham gia vào nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, đồng hành cùng nhiều bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng và văn học Việt Nam. Huy Cận đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn học nghệ thuật quan trọng như Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tràng Giang được sáng tác vào mùa thu năm 1939, được truyền cảm hứng từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước bốn phía. Bài thơ là biểu hiện của sự cô đơn trước vẻ đẹp vĩ đại và nhẹ nhàng của thiên nhiên, với tình yêu nước sâu sắc và thiết tha.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Khổ thơ cuối của Tràng Giang vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, gợi cảm nhận sâu sắc nhưng buồn bã. 'Lớp lớp', 'mây cao', 'núi bạc'. Đây là những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ điển, nhưng với Huy Cận, chúng trở nên mới lạ. Điểm đặc biệt của ông là kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, biến hóa chúng bằng tư duy thơ hiện đại. Hình ảnh của mây và núi gợi lên những cảm xúc mới mẻ, như câu thơ trong thơ của Đỗ Phủ.
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Hai câu thơ của hai nhà thơ cách nhau nhiều thế kỷ nhưng đều có một điểm chung, đó là gợi lên không gian buổi chiều, một buổi hoàng hôn đẹp nhưng buồn. Đồng thời, gợi lên chất hùng vĩ, khoáng đạt của cảnh vật. 'Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa', cánh chim nghiêng như đỡ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh bé nhỏ của mình. Với thủ pháp đối lập cánh chim nhỏ nhoi đơn độc giữa chân trời với hình ảnh thiên nhiên bóng chiều rộng lớn mênh mông. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ, dấu hai chấm không chỉ thể hiện cảm giác cô đơn trong tâm hồn mà ngay cả trên trang giấy cánh chim ấy vẫn đơn côi, đang gồng gánh mang trong mình cả bóng chiều. Khi đứng trước không gian rộng lớn nhân vật trữ tình bồi hồi
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Từ 'dợn dợn' gợi nỗi nhớ cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt trong thâm tâm của một kẻ đang đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối giúp ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Nếu như Nguyễn Du viết tâm trạng con người buồn sẽ ảnh hưởng tới cảnh vật:
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'
Còn trong thơ Huy Cận không cần một sự gợi tả từ cảnh mà nhân vật trữ tình vẫn có thể nhớ quê hương tha thiết. Đó là cảm giác trống vắng thiếu thốn của cái tôi trong thơ mới thời kỳ lúc ấy. Phải chăng giữa thiên nhiên và con người không có sự gắn kết nên nhân vật trữ tình cảm thấy bơ vơ cô quạnh và lạc lõng. Nỗi nhớ quê hương trong thơ Huy Cận giống với hai câu thơ của Tô Hiệu thời Đường:
Quê Hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Đây cũng là tâm trạng của Huy Cận với nỗi nhớ quê sâu sắc, nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt.
Thơ Huy Cận hàm xúc cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý tư tưởng. Với một hồn thơ bơ vơ, sầu não luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo hóa trên một không gian mênh mông, phẳng lặng. Trong tràng giang cảnh sắc tươi đẹp mà buồn. Đó là những vần thơ mãi mãi vấn vương lòng người. Với thể thơ thất ngôn, tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính trang trọng thể hiện sâu sắc những cảm hứng và tác giả đã viết. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại vẽ lên bức tranh thiên nhiên mênh mông, quạnh hiu, hoang vắng ở đó ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng giữa đất trời bao la. Ẩn sâu trong đó là tình yêu quê hương đất nước kín đáo sâu lắng.
Đọc xong khổ thơ cuối cùng của Tràng Giang có hai thứ ấn tượng để lại trong lòng người đọc đó là: không gian rộng lớn và nỗi buồn cô đơn của lòng người. Vượt lên trên hết bút pháp đặc trưng, giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tốt đẹp có buồn nhưng người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện diện trong Tràng Giang.
Phân tích khổ cuối bài Tràng giang
Nhà thơ Huy Cận có nhiều tác phẩm hay tả cảnh thiên nhiên, nhớ về quê hương đất nước, trong đó nổi bật là bài thơ “Tràng Giang” là nỗi lòng chung của cái tôi cá nhân trong phong trào thơ Mới. Đặc biệt khổ thơ cuối của “Tràng Giang” đã nói lên tâm trạng cô đơn, buồn bã của tác giả khi nhớ nhà:
Huy Cận đã vẽ nên vẻ đẹp vừa hoài cổ vừa mang tinh thần hiện đại:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Tác giả đã sử dụng tính từ “lớp lớp” miêu tả rõ hình ảnh từng lớp mây như đang dát bạc cả bầu trời. Câu thơ sử dụng phép so sánh hình ảnh ẩn dụ và lối ngắt câu với “mây cao đùn núi bạc” tạo thành “lớp lớp” khiến ta hình dung những đám mây dưới nắng như dát bạc. Hình ảnh cổ điển và càng thi vị được lấy cảm hứng từ một tác phẩm Đường cổ của nhà thơ Đỗ Phủ:
Để tô điểm cho vẻ đẹp thiên nhiên, tác giả đã so sánh mây trắng như “bạc”, từ “đùn” khiến mây chuyển động bằng nội lực hình thành lên núi bạc. Và tính thời đại càng thể hiện rõ ràng hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ sau gợi nên mối quan hệ giữa cánh chim và bóng chiều.
Mây trời bao la, cùng tiếng chim nghiêng, mà nghiêng không phải là nghiêng bình thường mà lại là “chim nghiêng cánh nhỏ” trong bóng hoàng hôn. Bóng chiều đè nặng xuống cánh chim nhỏ, in bóng lê mặt nước khiến tất cả cùng nghiêng đi. “Cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh trong thơ cổ điển.
Nếu như những lời thơ của Bà Huyện Thanh Quan, và Lí Bạch … thì cánh chim là chỉ là sự báo hiệu về hoàng hôn thì trong thơ Huy Cận là cảm xúc đơn độc trước cuộc sống.
Thi nhân cho thấy gốc nhìn mới trong hai câu kết :
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”
Hai câu thơ xuất phát từ thơ của Thôi Hiệu trong tác phẩm “ Hoàng Hạc Lâu ” :
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu ”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Thôi Hiệu nhìn khói mà nhớ quá khứ, nhớ miền quê, nơi chôn rau cắt rốn. Nỗi sầu đậm sắc tố cổ xưa. Còn Huy Cận, đang ở quê nhà mình nhưng vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. Nhớ nhà có thể hiểu là nỗi nhớ về quốc gia đang mất chủ quyền, nỗi buồn mang tầm thời đại. Lòng quê ở đây nói lên nỗi nhớ quê hương với hai từ “gợn” cho ta bóng hình sóng đang ở bên cạnh, sóng cũng biết cũng nhớ hay tác giả đang nhớ về quê hương? Sự lên xuống của con sóng hay nỗi nhớ da diết của nhà thơ không chỉ một lần mà liên tục. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ về quê hương tự do thanh bình của tác giả khi sống trong cảnh sông nước.
“Hoàng hôn không khói cũng nhớ nhà”
Nhà thơ mượn từ “khói” trong thơ Thôi Hiệu để nói lên cảm xúc của mình, nếu nhà thơ nhìn khói mà nhớ nhà thì nhà thơ Huy Cận không có “khói” nhưng vẫn nhớ về mái ấm nơi chôn rau cắt rốn đã nuôi tôi khôn lớn. Huy Cận lại buồn trước cảnh vắng vẻ, những con sóng “gợn sóng” gợi nhớ quê hương nhưng lại chỉ thấy hư vô, Huy Cận một mình đối diện với cảnh trống vắng. Chính vì thế mà khát vọng được yêu thương và được gắn bó với đời là nguyện vọng của tác giả.
Bằng cách tài tình so sánh và miêu tả khéo léo, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện rõ nỗi buồn sâu sắc về quê hương của mình. Nỗi nhớ, nỗi buồn trở nên càng sâu sắc khi đứng trên vùng đất quê nhà, nhưng giờ đây quê hương không còn nữa, chỉ còn lại cảnh tan hoang mất nhà.
Phân tích khổ cuối Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Thơ của Huy Cận thường mang trong mình những nỗi buồn về cảnh vật và thế sự. Đó là nỗi buồn của con người trước quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang là nơi mà tác giả biểu đạt nhiều tình cảm về quê hương đất nước. Khổ thơ cuối cùng trong bài thơ đã thể hiện được nỗi sầu thảm của thi sĩ và của con người.
Ba khổ đầu của nhà thơ đã sử dụng phép tả cảnh ngụ tình. Nói về những con người thấp bé, chúng ta họng cạn cảnh. Trong khổ cuối, ông kết hợp sự cô đơn của bản thân với nỗi nhớ về quê hương, đưa lên tầng cao hơn của thiên nhiên.
'Lớp mây cuồn cuộn, cao vút như núi bạc,
Chim mảnh mắn, nghiêng cánh, bóng chiều xao xuyến'
'Lớp mây dày đặc, cao vút như núi bạc' - câu thơ dường như đơn giản nhưng khiến người đọc say mê. Họ mê mải bởi hình ảnh núi mây ở đó. 'Lớp mây' là từ chọn lọc thể hiện sự dày thêm của mây, màu sắc của chúng như bạc huyền ảo. Trong câu thơ này, tác giả cũng lấy cảm hứng từ thơ của Đỗ Phủ.
'Xếp chồng lên chồng, đàn hình mây cao tỏa rộng xa. Điều này làm cho người trữ tình cảm thấy cô đơn hơn, nhỏ bé hơn giữa bao la thiên nhiên. Hình ảnh này cũng đẩy người đọc suy tưởng đến nỗi buồn trong tâm trí của tác giả. Từng lớp mây xếp chồng lên nhau như tấm lòng dày vò.
'Trái tim dậy sóng với nỗi nhớ quê nhà
Khi hoàng hôn buông rồi, lòng vẫn chợt nhớ nhà'
Giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, hình ảnh của những con chim nhỏ bé đang vẫy cánh hiện lên. Hai câu thơ cuối cùng nói lên sự nhớ nhung sâu sắc của nhà thơ. 'Dậy sóng' là từ chọn lọc riêng biệt của ông, hai thanh nặng này như nỗi buồn trong lòng tác giả đang lún sâu vào cảnh tuyệt vọng. Chúng như những con sóng buồn trong tâm trí tác giả.
Khúc cuối bài Tràng Giang lấy cảm hứng từ tác phẩm của Thôi Hiệu. Tình yêu quê hương đất nước luôn tồn tại trong tác giả, không cần sự kích động nào khác.
Bài làm mẫu 2
Nhìn vào những dòng thơ của Tố Hữu, chúng ta cảm nhận được một tâm hồn thơ phong phú, một trái tim nhân ái, một ý chí trung kiên với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó sâu sắc với đồng bào, đồng chí.
“Dù cuộc sống thay đổi theo thời gian
Chúng ta vẫn giữ vững lý tưởng cách mạng
Luôn sẵn sàng chiến đấu
Với lòng dũng cảm, vì giống nòi, vì quốc gia”
Tất cả tác phẩm thơ của Tố Hữu đều phản ánh lý tưởng cách mạng, sự đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, với lòng trung kiên, chính trực, công bằng và lẽ phải trên mọi lĩnh vực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính tích cực được thể hiện một cách tinh tế và sâu sắc qua các tập thơ nổi tiếng như: 'Từ ấy', 'Việt Bắc', 'Ra trận', 'Gió lộng',...
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; tựa đề của bài thơ trở thành tên của tập thơ đầu tiên của ông. “Từ ấy” là tiếng gọi của tuổi trẻ yêu nước Việt Nam hiểu biết lý tưởng Mác Lênin trong ngày hội to lớn của cách mạng:
Từ khi ấy trong tôi rực sáng như nắng hạ
Mặt trời chân lí lóe sáng qua lòng
Tâm hồn tôi là một vườn hoa rộn ràng
Với hương thơm thẹn và tiếng chim rì rào
“Từ ấy” là một khoảnh khắc lịch sử đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời của nhà thơ khi ông nhận thức được chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của tuổi trẻ yêu nước gặp gỡ lý tưởng cách mạng. Trong giai đoạn đó, những người thanh niên như Tố Hữu, dù đầy nhiệt huyết, nhưng vẫn phải đối mặt với ách thống trị của thực dân phong kiến, “phải tìm kiếm lẽ sống”. Trong bối cảnh ấy, lý tưởng cộng sản trỗi dậy như mặt trời mùa hạ, sáng rực, xua tan những u tối, buồn phiền, làm sáng sạch bầu trời và đem lại cho thanh niên một lối sống cao quý, vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tuổi trẻ học sinh Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng ấy không chỉ bằng trí óc mà còn bằng cả trái tim, không chỉ qua tri thức lý trí mà còn bắt nguồn từ tình cảm:
Từ lúc ấy trong tôi chiếu sáng tỏa như nắng hạ
Mặt trời chân lí chiếu rọi vào tâm hồn
Từ ấy đã làm cho trái tim của Tố Hữu 'bừng sáng' như một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng tràn ngập hạnh phúc ấm áp. Nhìn vào những bài thơ sau này, chúng ta mới thấu hiểu được niềm vui của Tố Hữu trước ánh sáng rạng ngời của chân lý.
“Trong bóng tối cuộc đời ta phải tìm ánh sáng
Chúng ta đi tới một con đường cách mạng”
Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã khiến cho chàng trai 18 tuổi ấy đắm say, mê mải trước một điều kỳ diệu:
Mặt trời chân lý rọi sáng vào tâm hồn
Mặt trời chân lý là biểu tượng ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng, của cách mạng, mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu, với tấm lòng nhiệt thành của mình, đã tự hào chấp nhận ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động vì lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bởi vì lí tưởng đã 'chói' vào tâm hồn - nơi tinh tế của tình cảm, là nơi hòa quyện hài hòa giữa tâm trí và ý thức chỉ khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lý chiếu sáng.
Lý tưởng Cách mạng đã gây ra một sự biến đổi toàn diện trong một con người, một cuộc đời. So sánh được dùng để khẳng định một sự thay đổi kỳ diệu mà lý tưởng Cách mạng mang lại:
Hồn tôi như một vườn hoa xinh đẹp,
Với hương thơm đậm và tiếng chim rộn ràng.
Dòng lưu điệu tỉnh táo và say sưa, ngọt ngào là do ảnh hưởng chủ yếu của lý tưởng, của niềm hạnh phúc mà lý tưởng mang lại: 'hồn' con người đã biến thành 'vườn hoa', một khu vườn xuân tươi đẹp, đong đầy hương thơm, tiếng chim hòa mình vào không gian. Ở đây, hiện thực và lãng mạn hòa quyện với nhau, tạo nên một sức sống, một cảm giác sống động cho câu thơ.
Bài viết mẫu 3
Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến tâm hồn thơ buồn, trong thơ ông luôn chứa đựng những nỗi đau của một người nhà thơ với nỗi đau của nhân loại. Một trong những bài thơ đặc trưng cho phong cách của ông là “Tràng giang”, tác phẩm được sáng tác vào mùa thu năm 1939. Khổ thơ cuối của bài “Tràng giang” là phần hay nhất của bài thơ, miêu tả nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn đầy ám ảnh của thi nhân.
Mây xếp lớp lớp cao vút như núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều mơ màng.
Lòng quê dợn dợn dưới dòng nước,
Ngay cả khi không có khói hoàng hôn, vẫn nhớ nhà.
Trong bao la của trời đất, nhà thơ Huy Cận không tìm thấy điểm đồng điệu, âm nhạc chung, không ai hiểu được những suy tư, nỗi buồn ẩn sâu trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi buồn u uất, không thể nói ra, chỉ có thể giữ trong lòng, càng giữ lại càng đau đớn, âm thầm.
Mây xếp lớp lớp cao vút như núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều mơ màng.
Các hình ảnh truyền thống như “mây”, “chim” được tác giả kết hợp với các động từ “xếp”, “nghiêng”, “mơ màng” để diễn đạt vẻ đẹp và sức sống của thiên nhiên. Những tầng mây “xếp lớp” tạo thành dãy núi bạc lớn, bay cao giữa bầu trời xanh. Một cảnh tượng vô cùng tráng lệ! Thiên nhiên không còn im lặng như trước mà đang chuyển động. Mây xếp lớp cao nhấp nhô trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ tung bay trong bóng hoàng hôn, tạo nên một không gian tươi đẹp, sôi động và sống động. Tuy nhiên, trong cảnh đó, vẫn có một nỗi buồn, cô đơn ẩn chứa trong tâm hồn thi nhân khi thấy “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều mơ màng”. Cánh chim nhỏ bé, yếu ớt bay giữa những tầng mây cao, núi bạc, cô đơn giữa vũ trụ bao la, tráng lệ như hình ảnh thi nhân bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Bởi vậy, nỗi buồn dâng trào, vô tận, ngập tràn trong cảnh vật, thấm đẫm trong tình cảm.
Có thể nói, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm quý báu của các thi nhân dành cho đất nước, quê hương. Thôi Hiệu từng nhìn thấy khói sóng trên sông mà nhớ về nhà:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
Như Lí Bạch từng nhìn trăng và nhớ về quê hương da diết:
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Dù đứng trên quê hương, nhưng Huy Cận vẫn nhớ quê hương da diết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Từ cụm từ “dợn dợn” đã mô tả rõ nét sự chuyển động liên tục trong tâm trí của nhà thơ, một cảm giác nhớ mãi không phai, đậm sâu và ám ảnh. Dường như, không có khoảnh khắc nào là thi sĩ không nhớ về quê hương, đất nước của mình, đặc biệt là khi tổ quốc đang chịu sự xâm lăng, bị giày xéo bởi quân thù.
Có thể nói, khổ cuối bài thơ đã vẽ ra một bức tranh đẹp nhưng đầy buồn bã. Trong mỗi từ, là tâm trạng cô đơn của thi sĩ nhưng cũng chứa đựng một tình yêu sâu sắc, tha thiết với quê hương, đất nước.
Bài làm mẫu 4
Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một tài năng có chất thơ ảo diệu nhất. Thơ của ông luôn mang trong mình nỗi sầu nhân quyền. “Tràng Giang” là một tác phẩm nổi tiếng của Huy Cận, thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với quê hương. Đặc biệt, nỗi nhớ thương ấy càng được thấy rõ trong khổ thơ cuối của bài Tràng giang.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Không chỉ nhìn thấy dòng nước buồn hiu hắt, nhà thơ còn dẫn dắt chúng ta hướng tới cái cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Trong thơ của Huy Cận, cánh chim và đám mây không chỉ xuất hiện như trong thơ cổ để mô tả buổi chiều, mà chúng còn mang ý nghĩa trái ngược. Trong bức tranh của chiều muộn, mây vẫn chất chồng nhau tạo thành những dãy núi bạc trên bầu trời. Đây không phải là những đám mây lẻ loi trôi nổi giữa không gian, mà là mây đồng lòng, tô điểm cho bầu trời rực rỡ. Giữa bức tranh đó, một cánh chim nhỏ xuất hiện, làm nổi bật sự nhỏ bé giữa vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên. Cánh chim ấy trở nên lạc lõng giữa trời đất bao la, giống như tâm hồn của nhà thơ bơ vơ giữa cuộc sống này.
Việc đặt cánh chim và những dãy mây bạc ở vị trí trái ngược nhau thêm vào nỗi buồn sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn đó lan tỏa khắp không gian:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đôi mắt quay trở lại nhìn dòng nước. Từng đợt sóng nhẹ nhàng trôi, uốn lượn mềm mại nhưng cũng tồn tại lâu dài, lan tỏa xa xôi. Đó không chỉ là hình ảnh mà còn là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn,
Người xưa thường nhìn khói sóng trên sông khi hoàng hôn buông xuống mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn, trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương sâu sắc. Đó như một tình cảm luôn hiện hữu, luôn chất chứa trong lòng người con xa xứ, không cần bất kỳ tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê.
Phân tích khổ cuối bài Tràng Giang càng làm rõ hơn bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời, trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn về “nỗi sầu nhân thế”.
Phân tích khổ 4 của bài Tràng Giang
Bài văn mẫu số 1
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, mang một giọng thơ ảo nao. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng phổ biến của cả thế hệ dân tộc.
Bài thơ 'Tràng giang' được lấy từ tập 'Lửa Thiêng' thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước dòng sông.
Khổ thơ cuối là biểu hiện của nỗi nhớ đầy dạt của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi dòng sông dài trời rộng:
'Tầng mây cao đùn núi bạc...
Không khói hoàng hôn cũng gợi nhớ nơi nhà'
Đây là khổ thơ tinh tế của làng quê 'dợn dợn vời con nước' của Huy Cận, của một tâm hồn sâu lắng thương yêu quê hương, đất nước.
Hai câu đầu là một bức tranh tự nhiên uy nghi, tươi đẹp:
'Tầng mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa'
Cách hiểu của nhà thơ rất tinh tế tạo nên những nét vẽ đẹp mắt của thiên nhiên buổi chiều: 'tầng mây' chồng lên nhau tạo thành núi mây trắng tròn trịa như được dát bạc. Từ 'đùn' rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ:
'Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa'
Một cánh chim nhỏ hiện ra trong câu thơ gợi lên sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách hiểu gần gũi, một cách hiểu tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim:
'Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa'
Trước không gian bao la ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:
'Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'
Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch:'Cử đầu vọng minh nguyệt - Đê đầu tư cố hương'?
Âm hưởng hai câu thơ của Đường, tác phẩm của Thôi Hiệu, phảng phất ở đây:
Mộ quan hương nhớ nhà ở miền xa
Trên đỉnh núi yên bình, người ngẩn ngơ.
Tuy nỗi buồn của Thôi Hiệu cần có 'khói sóng' để trở nên 'buồn lòng ai', nhưng nhà thơ chúng ta lại 'không cần khói hoàng hôn' để lòng nhớ quê tràn đầy 'dợn dợn vời con nước'! Từ 'dợn dợn' và 'vời' lan tỏa nỗi buồn vô tận, xa xôi, khắp mọi nẻo đường!
Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trái tim mình trên từng dòng thơ để thể hiện tình yêu sâu đậm đối với quê hương, đất nước.
Huy Cận, một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, luôn nổi tiếng với sự hoài niệm buồn và u sầu trong thơ. Trong bài thơ Tràng Giang, khổ thơ thứ tư đã phản ánh điều đó rất rõ.
Đó là một khổ thơ đẹp và có chút buồn trong bài, tạo nên một hình ảnh buổi chiều trên dòng sông, gợi lên nỗi buồn sâu thẳm của nhân loại:
Trên cao mây đọng như bạc,
Chim nhỏ nghiêng cánh: bóng chiều sa.
Đây là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh buổi chiều rất sinh động. Đọc câu thơ đầu, ta tự hỏi. Phải chăng đây còn là câu thơ nổi bật một nỗi buồn trong thi sĩ, nỗi buồn này đang dâng lên trùng trùng lớp lớp, như dồn nén và ứ đọng lại trong mảnh hồn của thi nhân, đến tràn ngập cả bầu trời. Đặc biệt trong thơ Huy Cận luôn ẩn chứa những hình ảnh cánh chim, một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ. Nét cổ điển một cánh chim nhỏ chấm phá trên nền trời khi chiều bắt đầu buông, thể hiện rõ nét sự nhỏ bé, đơn côi trong lòng thi sĩ và càng khiến bài thơ trở nên mông lung, vắng lặng, buồn hiu hơn nữa.
Dòng sông lặng lẽ trôi êm đềm,
Nhưng lòng ta mãi nhớ về quê nhà.
Đây là hai câu thơ đã diễn tả được hết nỗi nhớ quê hương và tình yêu với tổ quốc trong lòng thi sĩ. Thơ Huy Cận mang nặng ý vị cổ điển là đây. Trời rộng, sông dài, một người đứng đơn côi giữa mênh mông rộng lớn, khiến ta liên tưởng một ý thơ toát ra từ thơ Đường:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Người xưa thường nhìn sóng trên dòng sông và nỗi nhớ nhà ngập tràn. Nhưng đối với Huy Cận, nỗi buồn trong lòng đã sâu sắc đến mức không cần phải thấy sóng trên sông, vẫn nhớ nhà đầy đau thương. Điều này thể hiện tình yêu quê hương mạnh mẽ và cốt lõi trong tâm trí nhà thơ.
Tố Hữu từng nói 'sống giữa quê hương như kiếp đi đày', đúng với tâm trạng của thanh niên và Huy Cận. Bức tranh này càng làm hiểu sâu hơn về nỗi đau trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Khổ thơ cuối cùng trong Tràng Giang là điểm nhấn về tâm trạng của một người thanh niên trí thức. Đây là lý do vì sao Huy Cận được xem là một phần của linh hồn văn học Việt Nam, với sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật và nội dung sâu sắc.
Bài văn mẫu 2
Trong bài thơ Tràng Giang, khổ thơ cuối cùng là điểm nhấn về tâm trạng trữ tình và lo lắng về vận mệnh của người trẻ. Đây là sự pha trộn giữa hiện đại và cổ điển, thể hiện một cách rõ ràng nỗi nhớ quê hương và lo lắng về tương lai của dân tộc.
Trong đoạn thơ này, thiên nhiên hiện lên với sự sôi động mạnh mẽ. Những đám mây trắng từ xa đang kéo về, tạo thành những dãy núi bạc trên bầu trời, phản chiếu trên dòng sông, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và hữu tình. Câu thơ 'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc' là biểu hiện của sự hùng vĩ và tráng lệ của non sông, đồng thời thể hiện tình cảm sâu sắc của thi nhân với quê hương.
Câu thơ thứ hai mô tả hình ảnh một cánh chim chiều mà rất đặc biệt, bóng chiều như có trọng lượng, đè nặng lên cánh chim nhỏ. Con chim dường như đang vội vã trốn thoát khỏi bóng chiều. Hình ảnh này thể hiện sự lạc loài, nỗi cô đơn của nhà thơ. Ông muốn chạy trốn cuộc sống nhưng không biết phải đi về đâu.
Câu thơ thứ ba 'Lòng quê dợn dợn vời con nước' diễn tả một cách dí dỏm. Lòng quê như là nỗi nhớ mãi không nguôi, như những con sóng trên sông liên tục trào dâng về phía chân trời.
Nỗi buồn nhớ quê hương bao trùm không gian xung quanh. Huy Cận đang sống xa quê hương, cảm thấy như không còn quê nhà. Trước sự mênh mông của sông nước, ông cảm thấy cô đơn và khao khát được sum vầy, được quay về với quê nhà.
Câu thơ cuối cùng 'Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà' gợi nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu nhưng mang ý nghĩa khác biệt. Trong khi Thôi Hiệu nhớ quê hương khi nhìn thấy khói sóng trên sông, Huy Cận lại nhớ nhà chỉ khi chiều buông, điều này thể hiện nỗi nhớ của ông càng sâu sắc và đau đớn hơn.
Cả bài thơ Tràng giang đã chứa đựng một nỗi buồn sâu sắc, và trong khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn ấy trở nên càng sâu hơn. Tác giả sử dụng những từ như 'cánh nhỏ', 'chiều sa', 'dợn dợn', 'vời', 'nhớ' để làm nổi bật nỗi buồn trong tâm hồn nhà thơ. Khổ thơ này cũng đề cập đến quê hương và nhà của mình. Cuối cùng, sau những mô tả mênh mông về cảnh vật, nhà thơ bày tỏ nỗi nhớ thương trong hai dòng thơ cuối cùng.
Bài thơ Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối cùng, là sự kết hợp giữa hình ảnh thơ hiện đại và cổ điển. Sự kế thừa sáng tạo từ thơ của Thôi Hiệu cùng với diễn đạt độc đáo của nhà thơ đã tạo ra một phong cách riêng biệt. Thông qua bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp của non sông và nỗi cô đơn, bất lực của người thanh niên đứng trước cuộc sống.
Bài văn mẫu 3
Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ quý giá trong phong trào Thơ mới Việt Nam. Phong cảnh trong tập thơ này, đặc biệt là trong các bài như Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa..., đều phản ánh một nỗi buồn sâu sắc:
Tôi ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều gà lại gáy trên đê.
Đó là dòng sông Ngàn ở núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương yêu dấu của nhà thơ. Trong bài thơ Tràng Giang, nỗi buồn tràn ngập như dòng chảy và lan tỏa đến mọi nơi, đặc biệt là trong bốn dòng cuối của bài thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bài thơ Tràng Giang là một tác phẩm nghệ thuật rộng lớn, đẹp đẽ và đầy xúc cảm. Trong đó có dòng nước buồn dâng trào. Có những chòm sóng vỗ về. Có những hòn đá nhỏ vơi vơi. Có dòng sông xanh mướt chảy qua. Đằng trước mắt nhà thơ là một khung cảnh lớn mênh mông và trống trải: Sông dài, trời cao, bờ cỏ xanh trải dài.
Cuối cùng, nói về hoàng hôn trên sông. Một cái nhìn xa xôi. Trước mắt là những đám mây trắng nhô lên, tạo thành những dãy núi bạc. Cảnh thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời có lẽ xanh thẳm, hoặc tím nhạt trong khoảnh khắc hoàng hôn tới. Giữa mảnh vô cùng mênh mông, có một con chim nhỏ nhoi. Cánh chim mang theo bóng chiều, bay đi vội vã. Trên nền tím nhạt của chiều tà, nhấp nhô những đám mây trắng bạc và một con chim nhỏ nghiêng cánh. Hai hình ảnh này tượng trưng cho những cảnh chiều tà trong tâm tư của con người: Đường sông rộn ràng, tiếng chim rụt rè (Hàn Mặc Tử), Chim trời xa xăm đưa buổi chiều (Hoàng Cầm). Sự đối lập giữa con chim nho nhỏ và đám mây bạc hùng vĩ, giữa trời đất bao la khiến cho cảnh vật trở nên mênh mông, xa xăm hơn, và cũng buồn thêm.
Bốn dòng cuối mang vẻ cổ điển rất sâu sắc. Cảnh nhà thơ một mình đứng giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận sự vô cùng của không gian, thời gian đối với cuộc sống ngắn ngủi. Một con chim, một đám mây bạc cũng đưa ta đi qua mọi nẻo đường, đến với mọi phương hướng trên chân trời: Bến sông im lìm lòng nước sâu - Cánh đồng mênh mông đỉnh núi xa (Lưu Quang Vũ). Ý cổ điển đó được thể hiện rõ trong bốn dòng thơ Đường:
Quê hương thảnh thơi với dòng nước
Ngắm hoàng hôn, lòng vẫn rưng rức nhớ nhà.
Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông sóng khói buồn lòng ai.
(Tản Đà dịch)
Huy Cận ngẩng đầu nhìn xa theo dòng sông mênh mông, ở đây nhà thơ đã phủ định: Không một chiếc đò nào qua lại - Không cần gợi lên chút niềm thân quen, nhưng ở đây, ông lại nói: Ngắm hoàng hôn, lòng vẫn rưng rức nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê hương tràn ngập tâm hồn người xa xứ, bên bờ sông trôi về phương trời xa xôi.
Thơ của Huy Cận sâu lắng, cổ điển và chứa đựng triết lí sâu sắc. Một tâm hồn thơ buồn bã, cô đơn luôn khao khát sự hòa hợp giữa con người và tự nhiên trên một không gian bao la, êm đềm. Cảnh đẹp trong Tràng giang vừa lạnh vừa đẹp. Tình quê, tình thương quê hương trong bốn câu kết thật sự sâu sắc và ấm áp. Đó là những câu thơ mãi mãi gợi nhớ trong lòng người qua mọi thời đại và không gian.
Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu đứng một mình sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện cảm xúc sâu sắc mà tác giả đã ghi lại trong lời giới thiệu: Bâng khuâng nhớ sông dài trên bầu trời rộng lớn. Nỗi buồn và niềm nhớ đó là của một tấm lòng hướng về quê hương. Âm điệu của những dòng thơ trầm bổng như hàng ngàn sóng buồn trong lòng người đọc từ lâu. Hoàng hôn và tình yêu quê hương được mô tả trong đoạn thơ vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng vĩnh viễn trong trái tim chúng ta. Tràng giang vẫn mang theo biết bao lí tưởng về tình yêu quê hương.
Phân tích khổ thơ cuối cùng trong bài Tràng Giang
Bài văn mẫu 1
Thời kỳ văn học từ năm 1930 – 1945 đã đóng góp cho văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu chúng ta theo Thế Lữ vào thế giới tưởng tượng, vào cuộc sống vô tận với sự nhiệt huyết hăng hái của Xuân Diệu “muốn nắm lấy bông hoa xuân” thì chúng ta cũng có thể theo Huy Cận vào thế giới u sầu của con người. Không cần phải đào sâu vào tập thơ Lửa thiêng, chỉ với bài Tràng giang của ông cũng đã khắc sâu hồn thơ “mơ mộng” của Huy Cận. Và khổ thơ cuối cùng là biểu hiện sâu sắc nhất của tâm trạng buồn bã trong bài Tràng giang của ông.
Lớp mây trùm cao ngút ngàn núi bạc
…
Ngay cả khi hoàng hôn buông lơi, lòng vẫn hướng về quê nhà.
Trong ba khổ thơ đầu, chúng ta chứng kiến tâm trạng buồn của một thế hệ, nỗi buồn không lối thoát, giống như sự triền miên vô tận, như dải sông nước trải dài. Đến khổ thơ cuối, tâm trạng ấy được nâng lên cao hơn, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn.
Lớp mây trùm cao ngút ngàn núi bạc
Chim lảo đảo cánh nhỏ dưới ánh chiều buông
Trong dòng thơ này, ta cảm nhận được ánh mắt của nhà thơ nhìn xa, đến nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy, không gì hạnh phúc bằng lúc bình minh sáng rực, nhưng cũng không gì đau buồn bằng cái buổi chiều tàn của “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc đó, trong thơ Huy Cận với “Tràng giang”, lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây tụ thành “núi mây” khổng lồ, được tia nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp kia cứ phình to lên như hình quả núi, và phía sau hình quả núi ấy là mặt trời sắp tắt, khiến cho núi mây biến thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn dần buông, không gian như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ dày dạn lên chiếm trọn bầu trời, khiến cho không khí ấy đầy nỗi buồn rợn ngợp.
Tác giả đã sử dụng tự nhiên để diễn đạt nỗi buồn của con người trong vũ trụ bao la này. Câu thơ này gợi lên nỗi buồn của Đỗ Phủ, khi ông nhớ về quê hương mà không có nơi nương tựa.
Mặt đất phủ mây, xa ngắm cửa ải.
Trong hành trình Tràng Giang, hình ảnh của thi nhân cô đơn hiện lên trong những cảnh vật biến đổi, nhưng cùng chung một dạng vẻ “trôi nổi mông lung, lạc loài vô định”. Một cành củi khô lênh đênh trên sóng sông (cành củi một đoá độc chiều sông), một đám bèo xanh trôi trên dòng nước (bèo trôi về đâu, hàng nối hàng). Với khổ thơ cuối, hình ảnh của thi nhân, nỗi buồn của thi nhân hiện lên mờ ảo trong một bức tranh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, con chim nhỏ nhắn đang chịu gánh nặng của bóng chiều, cánh nhỏ đang nghiêng theo dòng khí trời, cố gắng vươn về phía chân trời xa xăm.
Con chim lượn bay, mặc dù tạo ra chút ấm áp cho cảnh sắc, nhưng càng làm mơ hồ hơn, nỗi buồn ở đây trở nên đậm đà hơn trong sự nhớ nhung. Nó không chỉ giới hạn ở cảnh sông nước phía trước mà mở ra tận cõi xa xôi của quê hương. Nếu câu thơ “Mây phủ mạch đất, xa ngắm cửa ải” tạo ra vẻ cao vút, nhẹ nhàng của bầu trời mây, thì câu thơ tiếp theo lại đọng lại theo hình ảnh của “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều đó đang mang theo ta nỗi buồn nhớ nhà của thi nhân, nên mới có từ “sa” chứ không phải “xa”. Có lẽ nỗi buồn cô đơn cùng với nỗi buồn “đau khổ nhân sinh” ấy càng hiện lên trong lòng thi nhân. Nó được thể hiện sâu sắc trong hình ảnh của thi nhân đơn độc đứng giữa vũ trụ bao la, trong im lặng cảm nhận sự vĩnh hằng, vô biên của không gian so với cuộc sống con người.
Lòng quê dậy sóng, vời dòng nước
Ngay cả khi hoàng hôn buông rơi, lòng vẫn nhớ nhà.
Chuyển sang câu thơ thứ ba, bất ngờ xuất hiện hai từ “lòng quê”, không phải là ánh mắt quan sát bên ngoài, nhìn chăm chú vào “Tràng Giang”, mà chính là cảm xúc sâu thẳm trong lòng nhìn vào bản thân, sau đó lại hướng về phía chân trời xa xôi.
“Lòng quê” ấy là sự nhớ về quê hương. Và cũng có thể hiểu đơn giản là: của người trí thức theo phong cách phương Tây, từng bị đô thị hóa, giờ đây trở lại là trái tim của người con hương xưa, giàu tình thương làng xóm. Hai ý trên sẽ định hình cho sự giải thoát khỏi cô đơn. Phải trở thành một phần của mình để có thể quay về quê hương chính mình.
Hai từ “dợn dợn” vang vọng như nhịp sóng: sóng nước, sóng tâm trạng, miêu tả sự xao lãng của nhà thơ trước cảnh trời biển mênh mông vào khoảnh khắc hoàng hôn kết nối với tình quê của quê cũ:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Dòng thơ cuối cùng gợi lên ngay hai câu của Thôi Hiệu thời Đường, cũng là tâm trạng về quê hương của Huy Cận. Với Huy Cận, lòng quê luôn nhớ quê sẵn có. Đó là kỷ niệm nhà, nhớ những người thân thương, những gốc cây bên bờ sông. Vì vậy, dù không có bất kỳ sự gợi nhớ từ bên ngoài, trái tim ấy vẫn hướng về quê hương, mong tìm được một chút ấm áp ở làng quê yên bình, nơi mà tất cả đều gắn bó với nhau.
Khi đọc bài thơ Tràng Giang, ta cảm nhận như thể toàn bộ là thiên nhiên. Nó vô cùng hoang vắng, tựa như đang nói với chính bản thân mình. Tuy nhiên, bốn dòng thơ cuối cùng phản ánh sâu sắc nhất, chân thực nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và trong thời kỳ đất nước bị đô hộ, mỗi lời yêu quê hương càng thêm sâu sắc, thi nhân càng trở nên “mê muội” nhiều đến thế.
Có lẽ ai đó đã khơi gợi lòng người, thức tỉnh những điều tốt đẹp nhất, sâu kín nhất trong tâm hồn để tiến lên phía trước. Tràng Giang đã làm sống lại tình yêu thiêng liêng, cao quý trong lòng người đọc, nó mở ra con đường cho tình yêu đối với Tổ quốc, tình yêu dành cho đất nước và dòng sông.
Bài văn mẫu 2
Khi đọc thơ của Huy Cận, người đọc có thể cảm nhận được tình yêu sâu đậm đối với thiên nhiên và quê hương, đất nước trong lòng ông. Với tình yêu mãnh liệt luôn sáng rực trong tim, ông luôn hướng về quê hương và đất nước dù hiện tại ông đang ở trên mảnh đất quê nhà. Khổ cuối của bài thơ Tràng Giang là biểu hiện của tình yêu với thiên nhiên và quê hương, đất nước.
Với tình yêu sâu sắc đối với quê hương và đất nước, tác giả yêu thích vẻ đẹp của quê hương nên bức tranh thiên nhiên vẫn được mở ra với những chi tiết mới:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Câu thơ đầu đã mở ra cảnh phía xa bên chân trời, những đám mây trắng đầy trùng điệp dưới ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận học theo thơ Đỗ Phủ qua dịch của Nguyễn Công Trứ: “Mặt đất mây đùn từ ải xa.” Đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ lung linh.
Nhưng ở câu thứ hai: “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Thơ xưa thường dùng hình ảnh chim về tổ để điểm xuyết chiều buồn. Huy Cận vẽ cánh chim nghiêng đặt trong dấu hai chấm nhấn mạnh bóng chiều như rơi xuống gợi nỗi buồn về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ nỗi nhớ quê hương từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn dợn. Nó gợi lên cảm giác những sóng nước nhấp nhô mênh mang trên dòng sông, tấm lòng thương nhớ quê hương xâm lấn cảm giác của con người.
Câu thứ 4 “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” là tiếng thơ đối thoại với tình cảm quan niệm thơ trước.
“Dòng sông sóng khói buồn lòng ai”
Đối với Huy Cận, không cần khói sóng cũng nhớ quê hương, niềm thương nhớ luôn ở trong lòng. Đó là cách thể hiện tình cảm sâu sắc.
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Đứng trên quê hương nhưng vẫn nhớ quê hương. Đó là nỗi buồn của một trí thức sống trong thời đại bị ngoại xâm, nỗi buồn của thế hệ trẻ dưới thời Pháp.
Bức tranh thiên nhiên đẹp mắt nhưng cũng làm nổi lên nỗi cô đơn thương nhớ của nhân vật trữ tình.
Tràng giang là âm điệu buồn của tâm hồn thơ của Huy Cận, vừa được kích thích bởi sự tương phản giữa không gian bao la và sự bé nhỏ mong manh. Nỗi buồn này không chỉ là vô cớ mà còn là nỗi buồn về cuộc sống, về quê hương. Đây cũng là nỗi buồn của thế hệ trẻ mà trong thơ của Huy Cận thường đặt vào bầu trời rộng lớn. Bài thơ cũng là sự kết hợp tinh tế giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với những kỹ thuật thơ trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, và mô tả cảnh ngụ tình một cách tinh tế, nổi bật nhất là khổ cuối của bài thơ.
Mặc dù chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa quan trọng trong việc diễn đạt tâm trạng của Huy Cận khi nhìn vào quê hương và cảnh đẹp của đất nước, từ đó bộc lộ tình yêu sâu sắc của tác giả đối với thiên nhiên và quê hương.
Khi phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy nó khơi gợi trong chúng ta tình yêu quê hương và thiên nhiên, từ đó dạy cho chúng ta biết trân trọng cuộc sống và những gì mình đang có.
Bài văn mẫu 3
Nhà thơ Huy Cận có nhiều bài thơ miêu tả về thiên nhiên và tình yêu quê hương, nổi bật trong số đó là bài thơ 'Tràng giang', là biểu tượng của phong trào thơ mới. Khổ thơ cuối của bài thơ này thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn và hoài niệm của tác giả về quê nhà.
'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.'
Huy Cận vẽ lại sự hòa quyện của cổ điển và hiện đại trong bầu trời:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Tác giả sử dụng từ 'lớp lớp' để mô tả rõ hình ảnh của đám mây, từng lớp từng lớp làm bạc bầu trời, tạo ra vẻ đẹp cổ điển và tinh tế.
'Mặt đất mây đùn cửa ải xa' để tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ, tác giả so sánh màu của mây với 'bạc' một cách tinh tế.
Dấu hai chấm này kết nối chim với bóng chiều, tạo ra hình ảnh buổi chiều hiện lên bằng cách đặc biệt:
Những cánh chim chao nghiêng, gặp cảnh chiều buông, bóng chiều tới, nhưng liệu chúng có về đến tổ ấm mình trước khi trời tối?
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
'Lòng quê dợn dợn vời non nước' thể hiện nỗi nhớ quê hương, sự kết nối tâm hồn với đại dương, và cảm giác cô đơn.
'Dợn dợn' và 'vời con nước' thể hiện nỗi nhớ buồn của tác giả, như sóng biển uốn lượn và nỗi niềm nhớ thương không nguôi.
'Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà'
Kiều nhớ quê nhà, nhưng bốn phương đều giống nhau, làm sao để nhận ra đâu là nhà? Trong cuộc sống của cô, làm thế nào để biết nơi nào mới thực sự là nhà?
'Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'
Nhà thơ sử dụng 'khói' để diễn đạt nỗi nhớ về tổ ấm, quê hương. Không cần phải có khói, nhưng lòng vẫn nhớ nhà, nơi đã nuôi dưỡng ta lớn lên.
Xưa, thơ Tô Hiệu buồn khi xa quê, nhớ về cõi tiên mịt mù. Nhưng Huy Cận, trước hoang vắng, sóng 'gợn tràng giang', lại nhớ về quê hương như một nguồn ấm áp và hạnh phúc.
Bằng những biện pháp so sánh và miêu tả tài tình, nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn, nỗi nhớ nhung quê hương của mình. Nỗi nhớ quê khi đang đứng giữa quê nhà nhưng quê đã mất đi. Đây là tâm trạng chung của những nhà thơ mới ngày nay, nỗi đau xót trước cảnh mất mát quê hương.
Bài văn mẫu 4
Huy Cận, nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, tác phẩm của ông thể hiện nhiều tâm trạng, từ nỗi buồn cá nhân đến nỗi đau của nhân loại. Đoạn cuối của bài thơ Tràng giang là một minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hai câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu sắc, từ 'dợn dợn' là sáng tạo mới, kết hợp với 'con nước' gợi lên hình ảnh sóng biển lên xuống, tăng thêm cảm xúc trong tâm trí của nhà thơ.
'Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà', khói là ký ức quan trọng về quê hương, tác giả khẳng định rằng không cần phải có khói hoặc hoàng hôn để nhớ nhà, tình yêu và nỗi nhớ về quê hương luôn sâu sắc trong lòng thi sĩ.
Bài thơ Tràng Giang không chỉ thể hiện cảm xúc buồn và nhớ quê thông thường, mà còn phản ánh tâm trạng hiện tại của sự mất mát quê hương, đó cũng là trạng thái chung của những thi sĩ đương thời.
.............
Tải file để đọc phân tích chi tiết về khổ cuối của bài thơ Tràng Giang