Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ 1 Tràng Giang của Huy Cận cung cấp gợi ý về cách viết và 16 bài văn mẫu đạt điểm cao của các học sinh giỏi trên toàn quốc. Qua phân tích khổ 1 Tràng Giang, các em có thể hiểu được trình tự làm bài, kỹ năng quan sát, liên tưởng, so sánh và chọn lựa ngôn từ phù hợp.
Khổ thơ đầu Tràng giang với chỉ hai mươi tám chữ đã diễn đạt được những cảm xúc sâu lắng về tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Huy Cận tài tình khi miêu tả cảnh không gian rộng lớn, nỗi buồn của con người giữa cuộc sống xô bồ.
TOP 16 bài Phân tích khổ 1 Tràng Giang
- Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang
- Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tràng Giang
- Phân tích khổ đầu Tràng giang
- Phân tích khổ 1 Tràng giang hay nhất
- Phân tích Tràng giang khổ 1
- Phân tích Tràng Giang khổ 1
Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang
- Khổ thơ đầu thể hiện sự buồn bã về loài người của tác giả trong không gian thiên nhiên vô tận.
II. Thân bài:
* Bối cảnh sáng tác bài thơ
- Khi tác giả đứng trước dòng sông Hồng vào một chiều thu năm 1939, lúc mới hai mươi tuổi, ở bên bờ Nam bến Chèm, cùng nỗi buồn sâu thẳm trong lòng.
* Ý nghĩa của nội dung
- Trình bày hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên quê hương, nhưng sau đó là nỗi đau lòng về tình yêu quê hương mãnh liệt.
- Đem đến sự tương phản giữa vẻ đẹp bao la của thiên nhiên với cảm giác cô đơn, nhỏ bé của cá nhân, mất mát trong vũ trụ lớn lao.
- Mô tả nỗi buồn, cô đơn, và sầu muộn không tưởng trước vẻ đẹp trùng trùng của thiên nhiên.
=> Tác giả muốn thể hiện lòng mong mỏi được hòa mình vào cộng đồng, với thiên nhiên, nhưng đồng thời là sự yêu quý đặt biệt trong tình yêu đất nước (khi con người sống giữa quê hương nhưng lại cảm thấy cô đơn, lạc lõng, trên chính quê hương ấy => Tình cảm của người mất nước).
* Ý nghĩa về mặt nghệ thuật:
- Bài thơ kết hợp giữa phong cách cổ điển và hiện đại, sử dụng thể thơ thất ngôn, mang đậm chất thơ Đường nhưng lại mang tính cá nhân của thơ mới.
- Hình ảnh trong bài thơ tươi sáng, đầy cảm xúc.
- Thể loại thơ Đường hiện lên qua từ ngữ, cách sắp xếp thơ, và các kỹ thuật nghệ thuật như sự đối lập, song đối.
* Phân tích khổ thơ đầu:
- Tác giả đứng bên bờ sông Hồng, nhìn xuống dòng nước mênh mông, tạo ra những hình ảnh sống động và giàu cảm xúc.
- Một dòng sông êm đềm, những đợt sóng nhỏ vỗ nhẹ, với một chiếc thuyền nhỏ và một cành cây khô trôi nổi giữa dòng nước.
- Hình ảnh của 'sóng gợn': gợi lên hình ảnh của cuộc sống nước, những con sóng nhỏ nhẹ lướt trên bề mặt sông => Sự đau khổ, u sầu trong tâm trí của thi sĩ.
- Hai từ 'tràng giang': từ ngôn ngữ Hán Việt, với hai âm 'ang' tạo nên âm thanh rất đặc trưng cho câu thơ, tạo ra hình ảnh của một dòng sông lớn mạnh và cổ kính.
- Từ 'điệp điệp': những con sóng liên tiếp nhau => Nỗi buồn không nguôi trong lòng tác giả, một cảm xúc buồn sâu sắc.
- Một chiếc thuyền hiện lên giữa dòng nước mênh mông
+ Con thuyền không chèo chống, chẳng đối đầu với sóng mà thảnh thơi buông mái chèo, 'lao xuống', trơ trọi, bị cuốn theo dòng nước.
=> Con thuyền hiện ra với vẻ nhỏ bé giữa dòng nước, lảo đảo và không rõ ràng.
=> Trong việc so sánh 'điệp điệp – song song': bày tỏ nỗi buồn nhân sinh đang lan tràn trong tâm hồn Huy Cận, như chính ông cũng giống như chiếc thuyền đó, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, đứng nhìn, chấp nhận mọi biến cố.
- Hình ảnh 'Thuyền về … ngả':
- Hình ảnh thường gặp trong văn thơ
- Thuyền và nước có vẻ như gặp gỡ, hứa hẹn cùng nhau, nhưng thực tế, cuộc gặp gỡ chỉ là thoáng qua, rồi lại tách biệt về hai hướng.
- Hình ảnh 'thuyền về nước lại': thể hiện cảnh chia ly, xa cách.
- 'Sầu trăm ngả': Bi kịch vô tận, to lớn, lan tỏa khắp mọi nơi.
- Hình ảnh 'Củi …mấy dòng':
- Sử dụng đảo ngữ để tôn vinh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
- Nhấn mạnh tính nhỏ bé, cô đơn của một cành củi đơn lẻ giữa biển nước bao la.
- 'Cành củi khô': Tượng trưng cho sự khô héo, u sầu và không còn sức sống.
- 'Mấy dòng': Gợi lên bức tranh sông nước mênh mông, cũng như cuộc sống, vô số khó khăn mà không biết lựa chọn hướng đi.
=> Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông => Con người bơ vơ giữa dòng đời, mang theo mình nỗi buồn không dứt.
- Tác giả đã sử dụng hiệu quả các phép đối trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng) cùng với các từ láy => tạo nên sự tương phản rõ rệt giữa cá thể lẻ loi, cô đơn và vũ trụ mênh mông.
* Tổng kết:
- Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ gợi lên nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn tác giả, tạo ra sự cách biệt, cô đơn giữa con người, không có sự giao thoa, nhấn mạnh vào sự buồn bã của cuộc sống nhỏ bé, lênh đênh, không chắc chắn.
- Nghệ thuật: Huy Cận thành công trong việc sử dụng hình ảnh miêu tả và tạo nên nhịp điệu mượt mà.
III. Kết bài:
- Tổng kết ý nghĩa của khổ thơ.
Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tràng Giang
Phân tích khổ 1 Tràng giang súc tích
Khác với tâm hồn sôi nổi, đầy nhiệt huyết trong thời kỳ cách mạng sau tháng 8, thơ của Huy Cận trong những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước cuộc sống hiện thực. 'Tràng giang' xuất hiện để miêu tả sự cô đơn của cá nhân trước bức tranh thiên nhiên bao la. Điều này được rõ ràng thể hiện qua khổ thơ đầu tiên của bài Tràng giang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Khổ thơ đầu tiên trong bài Tràng giang của Huy Cận đã thể hiện đầy đủ những nỗi niềm của con người trước dòng sông dài và trời rộng.
Trước mắt chúng ta là hình ảnh của dòng sông mênh mông. Huy Cận không gọi nó là sông mà là tràng giang. Những âm 'ang' liền kề nhau đã tạo ra sự hiểu biết về những lớp sóng cùng với sự mênh mông, rộng lớn, và bao la của nó. Trên dòng tràng giang, chúng ta nhìn thấy những lớp sóng không ngừng. Câu thơ 'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp' thể hiện được nỗi buồn vô tận của thi sĩ. Đó là nỗi buồn không ngừng, nỗi buồn chồng chất, lớp lớp. Điều này đã được thể hiện trong toàn bộ tác phẩm.
Trên dòng tràng giang, chúng ta thấy hình ảnh của con thuyền trôi dạt, lênh đênh. Con thuyền buông xuôi mái chèo trước sức mạnh của dòng nước. Điều này gợi lên cảm xúc của sự bất lực trước cuộc sống. Dù trong xã hội cũ, thuyền luôn hướng về bến, nhưng với con thuyền này, bến cũng chỉ là một điểm đến cô đơn.
Thuyền và nước thường liên kết với nhau, nhưng ở đây, 'thuyền trở về nước'. Sự chia lìa giữa thuyền và nước đã đẩy xa chúng ta. Trong câu thơ trước, tác giả đã nói về nỗi buồn sâu lắng, nhưng ở đây lại là nỗi 'sầu trăm ngả'. Điều này thể hiện sự tiến triển trong tâm trạng của tác giả. Nỗi buồn không chỉ ở chiều sâu mà còn mở rộng đến hàng trăm hướng. Dòng trường giang, dòng sông Hồng ấy đã trở thành một biển sầu cuồn cuộn. Lời thơ khiến ta ngỡ như có một dòng sầu thảm trong tâm tư tuôn chảy hòa cùng dòng sông mênh mang. Ta chỉ còn nghe thấy tiếng nước hay là tiếng sầu đang nức nở, triền miên. Tình đã hoà quyện với cảnh một cách trọn vẹn.
Hình ảnh của con thuyền trôi dạt, bao quanh là những lớp sóng, là nỗi buồn, nỗi sầu trăm ngả khiến ta nhớ đến những câu thơ của Xuân Diệu: 'Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới'.
Không biết đi về đâu, đứng trong bóng tối buồn rầu
Sự tương đồng của những hình ảnh thơ mang lại cho ta một ý niệm tổng quát về nỗi niềm của cả một thế hệ trước cách mạng. Đúng như Huy Cận đã nói: chúng tôi lúc đó đều chứng kiến nỗi buồn thời đại vì bế tắc không biết đi đâu, kéo dài không ngừng.
Câu thơ 'Củi một cành khô lạc mấy dòng' mang lại cho ta nhiều cảm xúc. Nếu 3 câu thơ đầu mang hơi thở cổ điển thì câu này lại thể hiện một cách hiện thực, sống động. Huy Cận đã lựa chọn câu thơ này không ngẫu nhiên. Đó là một hình ảnh sâu sắc, đầy cảm xúc. Từ một cây xanh tươi mát đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi, từ sự sống đến sự tiêu tan, tất cả đều gợi nhớ những thân phận lênh đênh trên dòng đời. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng trường giang tạo ra sự tương phản đặc biệt, thể hiện mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Dòng sông rộng lớn càng mênh mông, con người càng trở nên nhỏ bé và cô đơn. Điều này làm cho ta cảm thấy rùng rợn, giống như tâm trạng của tác giả.
Nói chung, nỗi buồn là tâm trạng thường thấy ở những nhà thơ lãng mạn thời kỳ đó, là nỗi buồn của một thế hệ thanh niên chưa nhận ra ý nghĩa của cách mạng. Bài thơ này là một ví dụ điển hình cho tâm hồn buồn bã của Huy Cận. Bài thơ 'Tràng Giang' được xem là mở đầu cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ và biện pháp tu từ đã tạo nên một tác phẩm xuất sắc và độc đáo.
Đánh giá khổ thơ 1 trong 'Tràng giang' tốt nhất
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi lo sợ về thời gian, thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi lo âu về không gian. Đọc 'Tràng giang', không ai có thể phủ nhận rằng Huy Cận là một trong những nhà thơ buồn nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn, cùng với cảm giác lạc lõng giữa cảnh quê hương mất chủ quyền, đã được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền trôi dạt trên dòng nước chạy song song
Thuyền trở về bến lại đầy buồn bã
Cành củi khô trôi nổi giữa dòng nước.”
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ Mới 1939-1945, thơ ông mang một nét đặc sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Ông làm thơ từ năm 1934, đăng thơ từ năm 1936 và có nhiều tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),...Tràng giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập Lửa thiêng.
Ngay từ khổ đầu tiên, Huy Cận đã mở ra trước mắt đọc giả cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Cảnh và tình người được thể hiện song song trong từng câu thơ. Con sóng trên mặt nước sông Tràng giang gờn gợn nhẹ nhàng không dứt cũng như nỗi buồn của con người cứ dào dạt đến hết đợt này lại đợt khác. Một nỗi buồn “ điệp điệp “ day dứt lòng người. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp. Dư ba của dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người; nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợn sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Câu thơ của Huy Cận nhấn mạnh tương quan về sắc thái: sóng gợn miên man vô tận cũng như nỗi buồn điệp điệp triền miên da diết khôn nguôi...Còn con thuyền trên sông, nó không phải được chèo lái mà là “ xuôi mái “ tự mình thả trôi theo dòng nước gợi lên sự lênh đênh trôi dạt phó mặc cho dòng nước chảy. Hình ảnh con thuyền đó gợi lên kiếp người nhỏ bé đơn côi với cuộc đời vô định của mình.
Giữa Tràng giang điểm nhìn của tác giả hướng vào con sóng nhỏ gợn trên mặt nước. Sóng tuy rất nhiều nhưng chúng hiện ra rồi lại tan biến vào hư vô mãi mãi như thời gian trôi qua không lấy lại được. Từ xưa tới nay thuyền và nước là hai hình ảnh luôn luôn gắn bó không thể tách rời nhau. Vậy mà giờ thuyền với nước chỉ song song nhau thôi chứ không phải gắn bó lâu dài đi cùng nhau hết đoạn đường sông dài vô tận. Bởi vì nước xuôi trăm ngả thuyền biết theo lối nào. Thuyền – nước như hai đường thẳng song song phân cách nhau không bao giờ có điểm chung mà gặp gỡ, điều này dễ khiến ta liên tưởng đến cảnh chia ly , biệt ly giữa thuyền và con nước chảy bên dưới:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Câu cuối của khổ thơ Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc một mình thả trôi trên sông để bộc lộ sự lạc lõng cô đơn, đó đã là một cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc thế nhưng đọc đến câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng “ ta mới tận hưởng rõ nét cái tài, cái hay trong thơ của ông. Như nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ mà cái đơn độc nay còn được nhấn mạnh hơn ở sự nhỏ bé giảm dần của sự vật được đưa vào bài thơ. Giữa một dòng sông rộng lớn duy chỉ có con thuyền thôi đã thấy nhỏ nhoi, lạc loài giữa chốn sông nước, nay chỉ có độc một cành củi khô thì nghe sao thật bé nhỏ đến đáng thương.
Phân tích khổ đầu Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Huy Cận được mọi người biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông hầu như ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa nỗi sầu của thế gian. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao về nội dung lẫn nghệ thuật.
Bài thơ được tạo ra vào năm 1939 khi tác giả đứng bên bờ Nam Bến Chèm và ngắm nhìn sông Hồng. Có thể nói, cảnh vật ở đây đã kích thích nguồn cảm hứng không ngừng của ông.
Khổ thơ đầu tiên chỉ gồm vài câu ngắn nhưng đã minh họa rõ bức tranh của dòng sông mênh mông cùng với tâm trạng của nhà thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Bài thơ khai mạc bằng những câu thơ sâu sắc nhưng cổ điển. Bức tranh thiên nhiên được tạo hình thông qua trái tim của nhà thơ mang đến một vẻ đẹp mới mẻ và độc đáo. Hình ảnh sóng gợn và thuyền xuôi hiện lên trước mắt rất tuyệt vời. Dù sóng chỉ gợn nhẹ nhàng nhưng vẫn không ngừng 'điệp điệp'. Nhờ vào sóng mà con thuyền vẫn tiếp tục đi theo dòng nước. Trong hai câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để tăng cường nhịp điệu cho lời thơ. Cách sử dụng từ của nhà thơ rất độc đáo, đem lại một sự mới mẻ trong văn chương.
Bức tranh của dòng sông hiện lên rất tuyệt vời qua lời thơ của tác giả. Tuy nhiên, trong tâm hồn con người lại chứa đựng nỗi buồn sâu kín. Do tác động đó, khi đọc hai câu thơ đầu tiên, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn như một phần của từ ngữ. Dù sông nước mênh mông, nhưng con người vẫn là sinh vật nhỏ bé không thể đối lập với trời đất.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh của thuyền và nước khi song song nhau lại bị tách ra, thể hiện sự xa cách giữa vô vàn muôn trùng. Hình ảnh này được nhân hóa, khiến cho cảm xúc trở nên sâu sắc hơn. Cụm từ “sầu trăm ngả” đem lại cho người đọc cảm giác buồn vô tận, nỗi buồn lan tỏa khắp không gian. Đọc câu thơ, chúng ta hình dung được cảnh thuyền lênh đênh giữa dòng nước bao la. Hình ảnh của thuyền và sông đối lập nhau rõ ràng hơn, làm nổi bật nỗi buồn của thi sĩ.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” để điểm xuyết cho khung cảnh sông nước. Yếu tố này làm cho sự lẻ loi của con người giữa không gian rộng lớn trở nên rõ ràng. Cành củi bị “khô” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả sử dụng phép đảo ngữ với cụm từ “củi một cành khô” cùng với nhịp thơ 1/3/3 để nhấn mạnh thân phận bị vùi dập của con người. Đứng trước khung cảnh đó, thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác. Ông buồn cho thân phận của con người, nghĩ về cuộc đời lênh đênh, trôi nổi. Cuộc sống luôn đầy biến động, không ai biết trước điều gì. Con người luôn cô đơn, lẻ loi và lạc lõng giữa cuộc sống mà không biết hướng đi.
Nỗi buồn của thi sĩ khi đứng trước cuộc sống bao la
Thông qua khổ thơ 1 của bài Tràng Giang, chúng ta đã thấy được sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện đại và cổ điển của nhà thơ. Điều này làm cho lời thơ trở nên gần gũi hơn, nhưng vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Thêm vào đó, cách đặt nhan đề độc đáo theo kiểu tả cảnh ngụ tình.
Thêm vào đó, việc sử dụng các từ láy trong khổ thơ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Thông qua đó, chúng ta cảm nhận được sự lôi cuốn và mênh mông của dòng sông Hồng cũng như sự nhỏ bé của con người trong bối cảnh đó.
Ngoài ra, Huy Cận còn thành công trong việc áp dụng hình ảnh độc đáo. Bạn có thể không tìm thấy hình ảnh “củi một cành khô” trong văn học Việt Nam. Điều này tạo ra một điểm nhấn đặc biệt nâng cao giá trị của tác phẩm.
Khi phân tích khổ thơ 1 của bài Tràng Giang, chúng ta cảm nhận được sự buồn bã trải dài suốt đoạn văn. Mặc dù mọi hình ảnh gần gũi nhưng lại hiện lên rất buồn và thiếu sức sống dưới ngòi bút của Huy Cận. Bởi vì, tâm hồn đang chứa đựng nỗi buồn nên cảnh vật và văn vật hiện ra đều trở nên ảm đạm.
Bài mẫu số 2
Mỗi tác phẩm văn học là kết quả của sự nỗ lực và tâm huyết của người nghệ sĩ. Đây là nơi họ thể hiện những cảm xúc sâu sắc nhất, những khát vọng chân thành nhất và mãnh liệt nhất về con người và cuộc sống. Dưới mỗi từ ngữ sáng tạo là những xúc động, tình yêu và nỗi đau trong tâm hồn nhạy cảm của nhà văn. Tác phẩm đích thực ra đời từ những cảm xúc, những chân thành và khao khát sáng tạo mãnh liệt của người nghệ sĩ, không phải là sản phẩm cơ hội hoặc chỉ để thoả mãn những thứ tầm thường. Nếu văn không được viết bằng tình yêu mãnh liệt, bằng tâm hồn nhạy cảm và đầy sức sống với âm vang của cuộc đời, thì nó chỉ là những từ ngữ hoa mỹ nhưng vô hồn được ép khô trên trang giấy.
Huy Cận cũng như vậy, ông bắt đầu viết thơ vào những năm 40 của thế kỷ trước, mang trong mình những cảm xúc về cuộc sống và con người, làm cho tâm hồn của nhà thơ tràn ngập một nỗi niềm sâu thẳm không lời. Và có lẽ 'Tràng giang' là một ví dụ điển hình cho tinh thần thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8. Cảm hứng về 'Tràng giang' được thể hiện trong một không gian rộng lớn, trải dài trên bờ bãi của sông Hồng. Điều này làm cho mỗi câu thơ, mỗi từ đều phản ánh như sóng nước dập dềnh.
Sóng gợn tràng giang, buồn điệp điệp
Câu thơ được chia thành hai phần theo nhịp điệu cổ điển 4/3. Phần đầu là hình ảnh của dòng sông Tràng Giang mênh mông, đối lập với những sóng nhẹ nhàng len lỏi, những sóng nhỏ mà vẫn mê man, không lối thoát, vô tận. Từ 'gợn' không chỉ hình ảnh mà còn có ý nghĩa - là những sóng nhỏ xinh xinh giữa bao la của Tràng Giang, cũng như gợi lên sự yên bình êm đềm của dòng sông đang trôi đi nhẹ nhàng. Một chút yên tĩnh và hoang vắng đã hiện hình trong bốn câu thơ đầu tiên. Phần sau là một bức tranh về tâm trạng, so sánh với phần đầu. 'Điệp điệp' là sự lặp đi lặp lại không ngừng. Có thể hiểu đây là hình ảnh của những lớp sóng Tràng Giang vô tận, gợi lên sự đơn điệu, nhàm chán; cũng có thể hiểu đây là biểu hiện của tâm trạng; nghệ thuật biểu hiện đã khiến cho sóng nước hoà quyện với sóng lòng, những gợn sóng trên sông không ngừng triền miên, vô tận như làm hình thành những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mông không bao giờ dứt. Cách hiểu này cũng nhắc đến một hình ảnh so sánh trong ca dao 'sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu'. Tuy nhiên, nếu ca dao so sánh nỗi buồn với sóng nước để nhấn mạnh về số lượng (bao nhiêu - bấy nhiêu) thì câu thơ của Huy Cận lại chủ yếu nhấn mạnh về màu sắc: 'sóng gợn' miên man không ngừng cũng như nỗi buồn 'điệp điệp' triền miên, đậm đặc không chấm dứt.
Con thuyền xuôi mái nước song song
Câu thơ tạo ra một bức tranh đẹp đẽ, hài hòa, đối với quan điểm về thẩm mỹ phương Đông, mang lại cảm giác thanh thản và yên bình cho con người. Sự hài hòa, đối xứng không chỉ thể hiện qua các chi tiết về hình ảnh con thuyền trôi xuôi, song song với hai bờ 'tràng giang' tạo nên một vẻ đẹp hài hòa êm dịu với dòng sông mà còn thể hiện sự tinh tế thông qua việc đối xứng nghệ thuật giữa hai câu thơ cuối cùng của mỗi dòng: 'buồn điệp điệp/ nước song song'. Bức tranh thơ được vẽ qua vài nét đối xứng cổ điển nhưng không mất đi sự tự nhiên tự do của tinh thần cổ điển - hình ảnh thơ vẫn phản ánh sự buồn rầu mơ mộng của nhà thơ lãng mạn. Bức tranh thơ đẹp nhưng buồn bởi hình ảnh 'con thuyền xuôi mái' tạo ra cảm giác như con thuyền đang trôi lững thững giữa bao la vô tận, không người lái; thậm chí còn buồn hơn vì điều đó đồng nghĩa với việc con thuyền và nước song song gợi lên sự xa cách vĩnh viễn, không gặp gỡ, không hiểu biết. Như vậy, dòng sông mặc dù có hình ảnh con thuyền nhưng vẫn lạnh lùng, hoang vắng, thậm chí còn buồn hơn vì hình ảnh con thuyền kèm theo cảm giác thiếu vắng hình bóng con người. Do đó, câu thứ hai đã vẽ lên một vẻ đẹp buồn rất đặc trưng cho cảm hứng lãng mạn - vẻ đẹp hài hòa miên viễn, nỗi buồn mơ mộng, cô đơn.
Thuyền trở lại, nước quay trở lại, nỗi buồn lan tỏa khắp nơi
Hai vế 'thuyền trở lại/ nước quay trở lại' tạo ra một hình ảnh thực tế, mô tả sự di chuyển đối lập giữa thuyền và nước khi thuyền quay trở lại, nước chảy ngược về phía sau. Câu thơ vẽ ra bức tranh của con thuyền như mất dần vào cõi xa xôi giữa dòng sóng mênh mông, giữa dòng sông chia thành 'trăm ngả'. Cũng như những gợn sóng gợi liên tưởng đến những gợn buồn trong câu một, nghệ thuật ẩn dụ trong câu ba lại tạo ra cảm giác về sự mênh mang của tràng giang như một nỗi buồn vô tận trong lòng nhân vật trữ tình. Sự hiện hữu của sóng nước làm cho nỗi buồn không ngừng cạn kiệt, trong khi dòng sông 'trăm ngả' lại tượng trưng cho sự buồn vô tận, vô cùng. Cùng với sự 'song song' gợi lên sự chia lìa vĩnh viễn trong câu hai, sự di chuyển ngược chiều của thuyền và nước trong câu ba mang lại cho tràng giang cảm giác hoang vắng, buồn bã, hiu quạnh không tận.
Một cành củi khô lạc vào nhiều dòng
Sự đối xứng giữa 'nhiều dòng' và 'trăm ngả' làm cho sông nước trở nên bao la, kỳ ảo hơn, và do đó càng làm nổi bật sự tương phản với một cành củi khô đơn lẻ. Bốn từ trong vế đầu của câu thơ 'một cành củi khô' nhấn mạnh sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn độc, yếu đuối, đặc biệt khi đặt chữ 'một' ở đầu câu, nghệ thuật đảo ngữ đã làm nổi bật cảm giác về sự thiếu vắng sự sống giữa một không gian mênh mông, điều này càng rõ ràng khi cành củi khô bị lạc vào những dòng nước, cùng với hình ảnh 'con thuyền xuôi mái' không có bóng dáng con người. Đặt trong bối cảnh của nghệ thuật ẩn dụ, cành củi khô yếu đuối, không sự sống, bị cuốn trôi giữa dòng nước mênh mông đưa ra nhiều suy tư đắng cay và buồn bã về sự nhỏ bé, không ý nghĩa của cuộc đời giữa biển khơi. Hình ảnh 'một cành củi khô' có thể nói lên tâm trạng của một nhà thơ - một con người tài năng nhưng vẫn phải vật lộn giữa cuộc sống hối hả. Thơ tự do phản ánh một cách chân thành, vô số nỗi buồn được mô tả qua nhiều hình thức, góc nhìn. Có nỗi buồn khi 'cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông' (Bích Khê), có nỗi buồn trước 'rặng liễu đìu hiu' (Xuân Diệu), cũng như có nỗi buồn khi nghe tiếng gà gáy không ngừng trong thơ Lưu Trọng Lư. Tuy nhiên, buồn trước một cành củi khô chưa từng xuất hiện trong văn học Việt Nam. Đây cũng là sự sáng tạo mới mẻ giúp Huy Cận tạo ra phong cách riêng trên đoạn thơ Mới.
Từ những ẩn dụ tinh tế trong hình ảnh sóng nước, con thuyền và cành củi lạc loài trên tràng giang, từ phép đối chiếu trong ngôn từ và nhịp điệu, toả ra một hương vị cổ điển, trầm mặc. Huy Cận không chỉ vẽ ra bức tranh của thiên nhiên mênh mang hoang vắng, thiếu sự sống của con người mà còn lộ sâu nỗi buồn cùng cảm giác cô đơn, vô nghĩa của thân phận con người khi đối diện với dòng đời vô định ngổn ngang. Sắc thái cổ điển mang trong mình tâm trạng lãng mạn - nét đặc sắc này không chỉ tạo ra vẻ đẹp buồn của cảm hứng lãng mạn vốn rất mạnh mẽ trong Thơ Mới mà còn xây dựng phong cách riêng cho thi sĩ Huy Cận.
Bài viết mẫu 3
Huy Cận, một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ Mới. Thơ của Huy Cận thường được mô tả là mang nỗi buồn về con người. Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận được coi là một tác phẩm tiêu biểu cho tâm hồn của ông. Phần đầu của bài thơ miêu tả cảnh sông Hồng, thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh vật đó.
'Sóng tràng giang gợn buồn điệp điệp
Con thuyền trôi giữa dòng nước song song
Thuyền trở lại, nước quay trở lại, sầu vạn lối
Cành củi một khô lạc vào nhiều dòng'
Những dòng thơ đầu tiên đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên vô tận. Đọc bài thơ, người đọc có thể hình dung một dòng sông rộng lớn, không chỉ dài mà còn sâu. Từ 'tràng giang' ám chỉ một dòng sông dài vô tận. Từ 'điệp điệp' thể hiện quy luật tự nhiên của sóng sau khi đánh vào bờ. Những dòng thơ đầu tiên mang đến nỗi buồn, sự u uất và đa cảm của nhà thơ, như là nỗi buồn của con người, mỗi con sóng vỗ vào bờ là một nỗi buồn, và nỗi buồn tiếp tục lan truyền.
Trong dòng sông đó, một chiếc thuyền hiện ra, tạo ra một sự tương phản thực sự giữa thiên nhiên vô tận và một chiếc thuyền bé nhỏ. 'Con thuyền' là một hình ảnh thực tế, dưới góc nhìn của tác giả, chiếc thuyền trở nên nhỏ bé và lênh đênh giữa sóng gió cuộc đời. Tác giả sử dụng hình ảnh của con thuyền kết hợp với từ 'song song' để ám chỉ nỗi buồn sâu thẳm.
Câu thứ ba trong đoạn thơ mở đầu gợi cho người đọc cảm giác chia xa. Thuyền và nước là hai hình ảnh gắn bó mật thiết với nhau nhưng giờ đây phải chia xa. Hình ảnh nước trong câu thơ biểu lộ cảm giác buồn bã, và cảm xúc buồn ẩn sau đó. Ngôn từ 'trăm nỗi sầu' kêu gọi cảm giác buồn lưng chừng lan tràn khắp không gian. Con thuyền trôi đi, để lại sau lưng là một dòng nước sâu yên bình.
Câu cuối cùng của phần mở đầu mang lại một hình ảnh độc đáo mà hiếm khi các nhà thơ khác sử dụng, đó là hình ảnh của 'củi khô'. Câu thơ cuối cùng đầy ẩn dụ, một khúc củi khô nhỏ bé lênh đênh trên dòng sông cô đơn, lạc lõng. Từ ngữ 'lạc mấy dòng' gợi lên hình ảnh của một nhánh củi khô nhỏ chẻ ngang qua một vài dòng sông. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, không phải là 'gỗ và cành khô' mà là 'gỗ trên cành khô', theo kiểu thơ 1/3/3, nhấn mạnh hình ảnh của một nhánh cây khô và thân phận nhỏ bé bị chôn vùi trong dòng sông đời không biết bến bờ.
Tràng Giang là một bài thơ có phần mở đầu vô cùng buồn, những cảm xúc và hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của tác giả đều lạnh lùng, cũng như tâm trạng buồn của chính thi nhân và tình cảm của mọi người.
Phân tích khổ thơ đầu của Tràng Giang
Bài viết mẫu 1
Huy Cận thuộc thế hệ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Thơ của ông thường được miêu tả là mang nỗi buồn của con người. Bài thơ Tràng Giang được coi là một tác phẩm điển hình cho hồn thơ của Huy Cận. Khổ thơ đầu của bài thơ mô tả cảnh sông Hồng, qua đó phổ biến nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh thiên nhiên ấy.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Những dòng thơ mở đầu đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh thiên nhiên rộng lớn. Đọc câu thơ, người đọc sẽ hình dung ra một dòng sông rộng lớn không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “tràng giang” cho thấy dòng sông dài vô tận. Cụm từ “điệp điệp” thể hiện quy luật thiên nhiên chỉ sóng sau khi sóng trước vỗ vào bờ. Những câu thơ mở đầu là nỗi buồn, sự buồn, cảm giác buồn của thi nhân, những con sóng như được nhân hóa thành nỗi buồn của con người, mỗi con sóng vỗ vào bờ là một nỗi buồn, cứ thế tiếp diễn.
Giữa dòng sông đó xuất hiện con thuyền, hình ảnh thực sự đối lập nhau giữa thiên nhiên bao la và con thuyền lại nhỏ bé. “Con thuyền” chính là hình ảnh thực tế, dưới góc độ của tác giả thấy con thuyền như thân phận nhỏ bé, lênh đênh của kiếp người lênh đênh trên sóng gió cuộc đời. Tác giả sử dụng hình ảnh con thuyền cổ điển trong thơ kết hợp với từ “song song” mang lại nỗi buồn sâu sắc.
Câu thứ ba trong dòng thơ mở đầu còn mang lại cảm giác chia lìa cho người đọc. Thuyền và nước là hai hình ảnh gắn bó mật thiết với nhau nhưng bây giờ phải xa cách. Hình ảnh nước trong câu thơ ám chỉ con người, nước cũng cảm thấy “buồn” và buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi lên cảm giác buồn lan tỏa khắp không gian trăm phương. Con thuyền cứ trôi đi, để lại sau lưng một dòng nước lặng im.
Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu của tác giả mang đến cho người đọc hình ảnh độc đáo, khác biệt so với các nhà thơ khác, đó là hình ảnh “củi khô”. Câu thơ cuối có giá trị gợi hình cao, một khúc củi khô thiếu sức sống và nhỏ bé đang trôi trên dòng sông cô đơn, lạc loài. Cụm từ “lạc mấy dòng” như muốn diễn đạt cành củi khô vốn nhỏ bé lại bị chia rẽ khắp nơi trên mấy dòng sông. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “một cành củi khô” mà viết “củi một cành khô” theo nhịp thơ 1/3/3 khác biệt hoàn toàn so với ba câu thơ trước như muốn nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô cũng như thân phận nhỏ bé bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời không biết bến bờ.
Tràng Giang một bài thơ có phần mở đầu rất buồn, cảm xúc, các hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của tác giả đều không có sức sống, cũng như tâm trạng buồn man mác, nỗi sầu của cuộc đời người thi sĩ.
Bài làm mẫu 2
Bài thơ “Tràng Giang” được viết trong thời kỳ trước cách mạng với một nỗi niềm chứa đựng u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của con người lênh đênh trôi nổi. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó diễn đạt.
Tràng Giang không chỉ là một bài thơ xuất sắc của Huy Cận mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi, người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài thơ mô tả phong cảnh quê hương, thể hiện tình yêu quê hương, nhưng đúng hơn đó là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người giữa quê hương.
Tràng Giang được in trong tập Lửa Thiêng của Huy Cận, xuất bản vào năm 19. Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này mô tả sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con sông khác, nhưng thực ra là bài thơ về nỗi buồn của thế hệ, nỗi buồn không tìm thấy lối ra, kéo dài triền miên. Điều này được thể hiện rất rõ qua khổ thơ đầu.
Trước hết, ta chú ý rằng đầu đề bài thơ là Tràng Giang, không phải “Trường Giang”, để không bị nhầm lẫn với sông Trường Giang (Trung Quốc), hay con sông dài nói chung. Trong tiếng Việt, “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận, trống rỗng khiến người ta chán chường.
Mở đầu bài thơ thật sự là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay từ câu đầu tiên, bài thơ không chỉ nói về sông mà còn nói về nỗi buồn, một nỗi buồn vô tận, qua một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang, tác giả tập trung vào con sóng nhỏ, dù rất nhiều, nhưng lại hiện ra rồi tan biến, muôn thuở. Con thuyền thường được coi là biểu tượng của cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền trôi theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau mà không thực sự gắn bó, bởi nước trôi đi theo hàng trăm ngả, thuyền lại phải chọn ngả nào? Thuyền đi theo dòng để rồi phải chia lìa với dòng. Câu thứ ba đã nói đến sự chia lìa: “Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện sự tập trung vào cuộc đời nhỏ bé, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Tác giả vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.
Tác giả chú ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gãy, khô xác của thân cây.
Toàn bộ khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về sự hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là sự chia tan, xa vời. Trên dòng sông đó một chiếc thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ có thuyền buồm, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, dòng sông nước đều đong đầy nỗi buồn.
Bài làm mẫu 3
Nhà thơ Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận. Khi nhắc đến thơ của ông, người ta có thể liên tưởng ngay đến những nỗi sầu nhân thế và lòng ngợi ca cảnh đẹp của thiên nhiên. Trước Cách mạng tháng Tám, tên tuổi của ông gắn liền với rất nhiều tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa Thiêng”, “Vũ Trụ Ca”,… Bài thơ “Tràng Giang” trong tập “Lửa Thiêng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận. Bài thơ này mang dòng chảy cảm xúc có chút u buồn mênh mông cho cuộc đời nhỏ bé, trôi nổi giữa biết bao ngã rẽ cuộc đời. Đặc biệt, đoạn thơ đầu tiên đã thu hút ngay người đọc theo tâm hồn thơ của tác giả rất độc đáo.
Ngay từ tiêu đề, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, kéo theo cả tâm trạng của lòng người. Con sông Hồng dài rộng bát ngát, uốn quanh bao trọn cả non sông Việt Nam. Điều này không phải là ngẫu nhiên khi tác giả lại sử dụng từ “tràng” thay vì từ “trường”. Âm “ang” mang lại cho người đọc mường tượng được bề ngoài rộng lớn của con sông. Đó không chỉ là con sông do tạo hóa tạo ra, mà tác giả còn muốn nhắc đến dòng sông của cuộc đời con người, dòng sông chứa đựng bao tâm tư và suy nghĩ.
Có bao nhiêu nhà thơ đã dùng thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng của mình. Nỗi buồn của con người vô vàn: buồn tình yêu, buồn tình bạn, buồn trong sự nghiệp, và buồn của Huy Cận cũng không khác gì. Buồn vì chúng ta chưa thể tìm ra con đường cho cuộc sống, cho cuộc sống con người lênh đênh giữa vũ trụ vô cùng rộng lớn. Điều đó cũng là vẻ đẹp quyến rũ của tác phẩm, chứa đựng một tinh thần hiện đại.
Ngay từ đầu bài thơ, người đọc đã nhìn thấy những con sóng tràn đầy tâm tư:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Trong thơ của Xuân Quỳnh, bà cũng dùng hình ảnh của sóng để diễn tả nỗi buồn của thuyền và biển. Dường như “sóng” là yếu tố hoặc chất xúc tác gây ra các cung bậc cảm xúc của con người. Hai từ 'lặp lạp', 'song song' ở cuối câu thơ mang hơi thở cổ kính của thơ Đường, tạo ra một cảm giác mênh mông, rộng lớn theo dòng chảy của con sông vô tận ấy. Các con sóng lăn tăn, lẻn trốn, dập dềnh theo dòng nước. Dù dòng nước chảy về đâu, sóng vẫn vỗ về mênh mang. Trên dòng sông đó, “con thuyền” lênh đênh theo dòng nước, như sự buông bỏ, không quan tâm đến điểm đến. Tài viết thơ của Huy Cận thực sự đáng khâm phục, qua từng từ ngữ ông lột tả được sự chuyển động của “sóng”, của “thuyền”, nhưng lại khiến người đọc không tránh khỏi cảm giác lặng lẽ, cô đơn trước thiên nhiên.
Tiếp tục dòng cảm xúc đó, Huy Cận viết:
“Thuyền trở lại, nước đâu cũng buồn trăm hướng
Củi một cành khô lạc giữa dòng chảy”
Mới đây thôi, ta còn thấy thuyền trôi theo dòng nước. Theo quy luật của cuộc sống, thuyền và nước không thể tách rời. Thuyền đi đâu cũng nhờ vào nước, và nước vẫn luôn vỗ về thuyền. Nhưng Huy Cận cảm nhận rằng thuyền và nước đang cách xa nhau, không cùng một đường đi. Từ “trở lại” khiến câu thơ nghe buồn buồn, đầy tiếc nuối. Chính vì lẽ đó, lòng người không khỏi cảm thấy “buồn” bi. Nhà thơ sử dụng từ “trăm” để đếm cảm xúc tiêu biểu cho sự tiếc nuối không đáng kể ấy. Cho cuộc đời biết rằng ta không mong đợi thuyền và nước phải chia lìa.
Tâm hồn trữ tình của người viết được thể hiện rõ ràng nhất qua câu thơ:
“Củi một cành khô lạc giữa dòng chảy”
Một con thuyền, một cành củi khô nổi bật lên nỗi cô đơn và lạc lõng. Như chỉ có mình nhà thơ đối diện với vũ trụ thiên nhiên. Nhưng cành củi khô lại héo úa, không sự sống nào tồn tại. Nó không giống như cảnh vật tràn đầy sức sống trong bài thơ “Một bông hoa tím biếc” của thanh hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”. “Cành khô” mang nỗi buồn vô tận của thi nhân, chỉ có thể trôi nổi, bập bềnh theo dòng nước mênh mang mà không có hướng đi rõ ràng. Cành củi đó trôi về đâu, liệu có bến bờ bão tố hay chốn yên bình, chẳng ai biết trước được. Hình ảnh đơn giản nhưng khiến lòng người cảm thấy trống rỗng, cô đơn.
Tài năng về việc mô tả cảnh đẹp của Huy Cận thực sự đầy tài năng và khéo léo. Chỉ qua những hình ảnh đơn giản như “con sóng”, “chiếc thuyền”, “cành khô”, ta có thể dễ dàng gặp trong biết bao bài thơ khác, nhưng trong thơ của Huy Cận, nó có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc rất riêng không thể hòa lẫn vào các bài thơ xưa. Vẻ đẹp hiện đại, giản dị mang nặng những tâm tư tình cảm, chân tình của tác giả sẽ mãi đi sâu vào lòng người.
Bài mẫu số 4
“Cha Huy Cận ngày xưa thường rất buồn Nỗi nhớ nhung không biết đã nguôi chưa Hay lòng anh vẫn đau nhức nắng mưa Cùng với đất nước nặng nề sông núi”
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ của Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm hay điển hình cho tâm hồn thơ của Huy Cận một thời. Khởi đầu bài thơ đã mô tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mông, hẻo lánh của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thơ trước không gian vô tận.
“Sóng vỗ Tràng Giang buồn điệp điệp Con thuyền trôi trên dòng nước êm Thuyền về nước lại buồn trăm ngả Cành khô lạc mấy dòng nước”
Bài thơ Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu, ông đứng ở bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã đưa ra hình ảnh sóng nước sông Hồng buồn bã vào tác phẩm:
“Sóng vỗ Tràng Giang buồn điệp điệp”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một con sông mênh mang sóng nước. Cụm từ “Tràng Giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “Tràng Giang” khiến cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có chiều sâu. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng liên tiếp xô vào bờ. Qua cái nhìn sầu bi của thi nhân, từng đợt sóng như được nhân hoá lên như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng gợn trên sông càng nhấn mạnh nỗi buồn hết lớp này đến lớp khác, nỗi niềm mang nhiều tâm sự của nhà thơ.
Trên con sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé:
“Con thuyền trôi trên dòng nước êm”
Hình ảnh tương phản giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng nước gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh thật sự nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ là những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của cuộc đời con người. Hình ảnh con thuyền và dòng sông đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hình ảnh cổ điển trong thơ cùng từ điệp “song song” gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhanh nhẹn, chậm rãi như những tiếng thở dài nảo nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ.
Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia ly vô định:
“Thuyền trôi trên dòng nước êm”
Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hình ảnh nước trong câu thơ được nhân hoá như con người, cũng có cảm xúc, cùng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hình dung được một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa xôi, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.
Bên cạnh những hình ảnh thân thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại mang đến một hình ảnh và ý thơ độc đáo đặc sắc:
“Một cành khô lạc mấy dòng”
“Cây khô” là một hình ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta gặp một hình ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hình, mang đến một hình ảnh chiếc cành khô nhỏ nhắn đang lạc loãng. Cành khô vốn đã tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại càng “khô” mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “một cành cây khô” mà viết “cây một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh cái hình ảnh của cây khô cũng như thân phận bé nhỏ bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hình ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “cây” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn bã của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi buồn nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiện đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp từ ngữ nhân hoá, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn bã trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự bé nhỏ, vô định của cuộc đời. Đoạn thơ này riêng cùng bài thơ chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ buồn nhân thế của Huy Cận một thời.
Bài làm mẫu số 5
Huy Cận là một trong những người biểu tượng trong phong trào thơ Mới. Đọc thơ của Huy Cận, ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn sâu thăm thẳm. Tràng Giang chính là một ví dụ điển hình. Bài thơ gợi lên cho ta một cảm giác buồn thấu lòng của tác giả. Nỗi buồn đó đặc biệt mênh mang, lẻ loi giữa không gian vô tận của thiên nhiên được miêu tả ở đoạn mở đầu bài thơ:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Cây một cành khô lạc mấy dòng'
Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ mở ra trước mắt ta một không gian tràn đầy sóng nước:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng bao quát được cả khung cảnh rộng lớn đồng thời gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Hình ảnh dòng sông trôi êm đềm với những làn sóng buồn hiện lên vô cùng chân thực và giàu cảm xúc. “Tràng giang' với âm 'ang' nối liền tạo nên tiếng vọng trong câu thơ, vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông sóng nước. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng từ láy “điệp điệp” gợi sự liên tiếp, nối liền nhau dường như không dứt. Những con sóng gợn trên mặt sông rộng lớn, nối đầu lên nhau, lớp này tiếp lớp kia, lăn tăn không dứt. Không gian rộng lớn, mênh mông dường như càng làm nổi bật nỗi buồn miên man đang rợn ngợp trong lòng tác giả.
Giữa dòng chảy rộng lớn đó, chiếc thuyền nhỏ đột ngột hiện hình, lênh đênh lạc lõng:
'Con thuyền trôi theo dòng nước mặt biển một cách đồng điệu'
Hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé, trôi nổi không ngừng so với dòng sông mênh mông, bao la. Không giống như thuyền trên sông Đà của Nguyễn Tuân, mạnh mẽ vượt qua thác ghềnh, thuyền trong thơ Huy Cận “trôi theo mái” để dòng nước đẩy đi nhẹ nhàng. Tuy nhiên, trong cái nhìn cá nhân của Huy Cận, chiếc thuyền ấy không chỉ là một phương tiện thông thường. Nó có thể là biểu tượng cho những số phận bé nhỏ, cho những cuộc đời lạc lõng giữa dòng đời rộng lớn.
Từ 'mặt biển' được sử dụng trong câu thơ càng nhấn mạnh sự bất lực của chiếc thuyền. Nó dường như không biết mình sẽ trôi về đâu, buông tay, không quan tâm. Nghệ thuật tiểu đối 'buồn điệp điệp' – 'nước song song' kết nối hai câu thơ tạo ra sự nhịp nhàng, chầm chậm và cũng như là sự im lặng trầm mặc của Huy Cận trước cuộc sống thực tế.
Nỗi buồn trong lòng người như thấm đẫm vào tâm trí. Dưới ánh nhìn buồn thảm của thi sĩ, sự chia ly từ từ hiện hình:
'Thuyền trở lại nước lại đầy nỗi buồn trăm lối'
Thuyền và nước, dường như là hai biểu tượng đồng hành, nhưng ở đây lại chia lìa nhau đầy buồn thương. Hình ảnh ngược đời 'thuyền trở lại nước' gợi lên sự chia lìa đau đớn, thuyền một phía, nước một phía, buồn thương vô cùng. Thuyền lênh đênh trôi xa mãi chỉ còn dòng nước yên bình lại tràn ngập nỗi buồn, cô đơn. Thuyền và nước ở đây không chỉ là vật thể vô tri vô giác của thiên nhiên mà còn như con người, có cảm xúc: 'nỗi buồn trăm lối'. Nỗi buồn không chỉ lan truyền một hướng mà lan tỏa trăm nơi, tràn ngập không gian. Câu thơ vang lên, lòng người chợt nặng trĩu.
Nỗi buồn vẫn bao trùm, thơ khổ độc đáo qua hình ảnh mới mẻ:
'Một cành củi lạc mất hướng giữa dòng sông'
'Củi' là thứ giản dị, chưa từng được đề cập trong thơ văn với ý nghĩa biểu tượng. Nhưng trong tầm nhìn của Huy Cận, nó gợi lên cảm xúc mới lạ, khác biệt. 'Cành củi' đã thể hiện sự nhỏ bé, một cành củi 'khô' ở đây càng gợi lên sự héo úa, tàn phai. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông, bơ vơ, lạc lõng. Nó thậm chí không thể trôi theo dòng như thuyền, bị cuốn theo dòng nước, lạc mất hướng. Sử dụng lối viết đảo ngữ 'một cành củi' càng làm nổi bật nỗi cô đơn, lẻ loi, héo tàn.
Câu thơ như muốn khơi gợi hình ảnh của số phận nhỏ bé, lạc lõng giữa cuộc đời. Cành củi khô mất mát giữa dòng nước dường như là biểu tượng cho con người mang theo nỗi buồn lo, lạc lõng không rõ ràng giữa cuộc sống xô bồ, không biết nên đi về đâu.
'Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng mà nước cuốn trôi'
Có thể nói rằng, qua bốn câu thơ ngắn, Huy Cận đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật đặc biệt. Những hình ảnh thơ gợi cảm kết hợp với phép đối và các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, các từ láy giúp người đọc cảm nhận được tính cách nhỏ bé, suy tư giữa cuộc sống. Nỗi buồn của nhà thơ trước bề dày vô tận, rộng lớn cũng chính là nỗi lòng của thế hệ thanh niên trí thức đối diện với tình hình đất nước mất chủ quyền.
Với những giá trị trên, khổ thơ đã góp phần quan trọng làm nên nội dung và tư tưởng của Tràng Giang. Đồng thời thể hiện được phong cách nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Và rồi, qua những năm tháng trôi qua, tiếng thơ của Huy Cận vẫn vẹn nguyên trong lòng người đọc.
Bài viết mẫu 6
Huy Cận được coi là một trong những nhà thơ thành công nhất trong phong trào thơ Mới. Thơ của Huy Cận thường chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm, da diết, là nỗi buồn của con người, của cuộc sống. Các tác phẩm thơ của ông thường tập trung vào nỗi buồn, và Tràng Giang cũng không ngoại lệ. Bài thơ là một ví dụ điển hình cho nỗi buồn nhân thế mà Huy Cận luôn mang trong lòng. Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, Huy Cận đã mô tả một cách chân thực nỗi buồn lẻ loi, u tối trong tâm hồn, nỗi buồn trước một bức tranh thiên nhiên vô cùng rộng lớn.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi một mình ông đứng trước dòng sông Hồng hùng vĩ. Lúc đó, ông hai mươi tuổi, ở bên bờ Nam, bến Chèm, cùng với nỗi buồn vô tận trong lòng.
Bài thơ là một bức tranh của thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ, hùng vĩ của quê hương. Ẩn sau bức tranh ấy là nỗi buồn sâu thẳm của Huy Cận và tình yêu nặng nề với quê hương. Giữa không gian mênh mông của thiên nhiên, hiện lên một cái tôi nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa cuộc sống với nỗi cô đơn, buồn vô cùng. Huy Cận, qua bài thơ, muốn thể hiện mong muốn hòa nhập với thiên nhiên, với con người, và trong đó ẩn chứa nỗi niềm của một thanh niên yêu nước, yêu quê hương. Con người trong thế giới của ông, sống ở quê hương của mình nhưng lại cảm thấy lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy, liệu đây có phải là nỗi niềm, xúc cảm của một người dân mất nước, lạc lõng giữa cuộc sống với tình yêu quê hương tha thiết của mình?
Bài thơ kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, Huy Cận mang tinh thần, cái tôi của thơ Mới vào trong một bài thơ thể thất ngôn với chất thơ Đường. Những hình ảnh với thi tứ cổ động và sinh động. Chất thơ Đường cũng thực sự đậm đặc, thấm đẫm từ nhan đề thơ, thể thơ đến thi tự, các phép biện pháp nghệ thuật (đối ngẫu, song đối).
Huy Cận viết bài thơ khi đứng trên bến Chèm, nhìn xuống dòng sông Hồng chảy êm đềm, vì thế mở đầu bài thơ, chúng ta mới thấy một không gian đầy sóng nước kèm theo nỗi buồn lảng trôi:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Hình ảnh rất chân thực và tinh tế. Dòng sông trôi lững lờ với những con sóng vỗ lên mênh mông. Từ 'tràng giang' đặt ở đầu câu thơ đầu tiên, với âm 'ang' tạo ra tiếng vọng, gợi lên hình ảnh về một dòng sông dài, rộng lớn với sóng nước bao la, mang đậm tính cổ kính, xa xưa. Huy Cận rất khéo léo khi chọn từ 'tràng giang' thay vì 'trường giang', tạo ra sự sâu thẳm và bí ẩn. Từ 'điệp điệp' mô tả sự liên tục, không ngừng nghỉ của những con sóng, giống như nỗi buồn miên man trong tâm hồn tác giả, đầy cảm xúc, lan tỏa vô tận.
Từ láy 'điệp điệp' nhấn mạnh sự liên tục, không ngừng nghỉ của những con sóng. Những sóng 'gợn' trên mặt nước sông 'điệp điệp', vỗ lên, trùng trùng như nỗi buồn trong lòng tác giả, miên man, chồng chất, trải dài vô tận. Từ 'điệp điệp' càng làm nổi bật nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn.
Dòng sông rộng lớn, bao la, đột ngột xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh, lạc lõng vô cùng:
'Con thuyền trôi theo dòng nước mà lặng lẽ bên cạnh'
Một chiếc thuyền bé nhỏ, nhẹ nhàng trôi theo dòng nước, đối lập hoàn toàn với sự bao la, mênh mông của dòng sông. Điều này thêm vào sự nhỏ bé, cô đơn của con thuyền đó. Khác biệt với con thuyền mạnh mẽ trên sông Đà của Nguyễn Tuân, chiếc thuyền của Huy Cận buông xuôi mái chèo, để dòng nước đẩy đi một cách thụ động. Dưới góc nhìn lãng mạn, chiếc thuyền có thể là biểu tượng cho những số phận nhỏ bé, những cuộc đời lênh đênh giữa cuộc sống. Và dòng sông là biểu tượng cho dòng chảy của cuộc sống, chiếc thuyền chỉ là một vật thể nhỏ bé giữa dòng chảy ấy. Từ xưa đến nay, hình ảnh của thuyền và dòng sông luôn gợi lên những tâm trạng xa xôi, những nỗi buồn sâu thẳm. Ở đây, Huy Cận sử dụng hình ảnh này để diễn đạt tâm trạng, nỗi lòng của mình. Cùng với từ láy 'song song', người ta cảm nhận được sự bất lực của chiếc thuyền, nó không biết mình sẽ đi đâu, chỉ cứ trôi theo dòng nước, bỏ mặc tất cả.
Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng trong hai câu thơ đầu tiên 'buồn điệp điệp' – 'nước song song', tạo ra sự nhịp nhàng, chậm rãi cho hai câu thơ nhưng lại làm người đọc cảm nhận được sự thấm thía, nặng nề trong lòng của Huy Cận khi ngắm nhìn dòng sông chảy.
Nỗi buồn của Huy Cận dường như thấm vào từng cảnh vật mà ông nhìn thấy, mỗi hình ảnh là một nỗi buồn, một cảnh sầu muộn. Hình ảnh chiếc thuyền giữa dòng sông cũng mang lại cho người đọc một cảm giác buồn, một hình ảnh lênh đênh. Và chiếc thuyền đó khiến người ta nghĩ về sự chia ly khi ông viết:
'Thuyền về nước lại mang theo nỗi buồn không biên giới'
Thuyền và nước thường đi đôi với nhau, nhưng ở đây, lại tạo nên một sự xa cách đầy buồn thương. Nghệ thuật đối ngẫu 'thuyền về nước lại' khiến ta thấy được sự chia lìa, thuyền và nước đi mỗi hướng, buồn thắm biết bao. Thuyền và nước trở thành như con người, cùng cảm xúc 'sầu trăm ngả'. Nỗi buồn đó lan tỏa, tràn ngập không gian. Đọc câu thơ, ta như thấy con thuyền lênh đênh, trôi xa mãi, còn dòng nước im lặng ở lại, heo hắt, mịt mùng.
Đọc câu thơ, người đọc như cảm nhận được nỗi buồn đọng trong lòng, đọng trong từng câu chữ, buồn đến tận cùng.
Tuy nhiên, độc đáo nhất trong thơ Huy Cận, trong tác phẩm Tràng Giang phải kể tới hình ảnh thơ:
'Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Các nhà thơ thường sử dụng hình ảnh như vầng trăng, con thuyền, dòng sông, mặt nước, … nhưng ở đây, Huy Cận lại chọn một hình ảnh có lẽ là độc đáo nhất trong thi ca Việt – cành củi khô. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước vừa giản dị, vừa gợi lên bao cảm xúc mới mẻ. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang, bơ vơ, không biết đi đâu. 'Cành củi' vốn đã tạo nên một cảm giác nhỏ bé, thường thường, nhưng ở đây lại là cành củi 'khô', gợi lên sự héo tàn, vô sức sống. Cành củi ấy không như con thuyền, nó nhỏ bé hơn, bị cuốn trôi trong dòng nước bao la đến nỗi 'lạc mấy dòng'. Nghệ thuật đảo ngữ được Huy Cận tận dụng triệt để ở đây, ông nhấn mạnh từ 'củi' để gợi lên sự héo tàn, vô sức sống đồng thời cũng để nhấn mạnh sự cô đơn của cành củi giữa dòng sông rộng lớn. Một vật thể nhỏ bé, chỉ có một 'củi một cành khô', ít ỏi giữa cái mênh mông của dòng nước này. Nhịp thơ 1/3/3, chậm rãi như gợi lên sự nhỏ bé của cành củi kia.
Toàn bộ câu thơ như muốn khơi gợi hình ảnh về một thân phận bé nhỏ, lạc lõng giữa dòng đời. Cành củi lạc giữa dòng nước trôi cũng giống như con người mang trong mình nỗi buồn vô hạn, lạc lõng giữa cuộc sống đang xô bồ. 'Mấy dòng' nước, mấy dòng đời, nhưng không thể chọn lựa một hướng đi, con người lạc lõng, lênh đênh quá. Như Tố Hữu đã từng diễn đạt về sự bơ vơ, không biết hướng đi cuộc đời trong bài thơ 'Dậy lên thanh niên':
'Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi'
Huy Cận cũng đang ở trong tình thế đó, và nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của Huy Cận còn lớn hơn cả của Tố Hữu.
Khổ thơ đầu của bài Tràng Giang đã thể hiện một nỗi buồn lan tỏa trong từng câu chữ. Tất cả hình ảnh thơ đều u ám, không chút sức sống, chúng lênh đênh, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng nước trôi. Có lẽ vì tâm hồn của Huy Cận cũng đang chìm trong nỗi buồn nhân thế, vì vậy, nỗi buồn ấy đã lan tỏa qua mỗi cảnh vật xung quanh ông. Như Nguyễn Du từng phác họa:
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'.
Sử dụng các phép đối, hình ảnh thơ, biện pháp tu từ, ẩn dụ, nhân hóa một cách tinh tế đã làm cho chúng ta cảm nhận được sự nhỏ bé của bản thân giữa cuộc sống, đặc biệt khi đứng trước vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên, vũ trụ.
Khổ thơ và bài Tràng Giang đều thể hiện hồn thơ mang nỗi buồn nhân thế của Huy Cận - một nhà thơ thuộc phong trào thơ Mới vô cùng tài năng.
..............
Tải tài liệu để đọc thêm về phân tích khổ 1 Tràng Giang