Phân tích truyện Một người Hà Nội gồm 7 bài văn mẫu khác nhau và gợi ý cách viết chi tiết. Giúp các bạn nâng cao trình độ văn học với các bài văn mẫu phân tích tác phẩm.
Dàn ý phân tích một người Hà Nội
I. Mở bài:
- Giới thiệu tổng quan về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Khải, tên đầy đủ Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sống ở nhiều nơi khác nhau. Ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên vào năm 1947, sau đó gia nhập bộ đội và làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1950. Truyện 'Một người Hà Nội' của ông được sáng tác vào năm 1990, xuất bản trong tập truyện 'Hà Nội trong mắt tôi' của Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua tác phẩm này, ông thể hiện cảm nhận về lối sống và bản lĩnh văn hóa của người dân Hà Nội.
II. Phần chính
- Phân tích về cuộc sống lịch sự dù trong thời kỳ biến động:
- Cách ăn, cách ở, phong cách ăn mặc
- Thái độ đối với chính sách cải cách kinh tế của nhà nước
- Có đầu óc trung thực, thẳng thắn
- Không ganh đua, tự trọng, thái độ lịch lãm, không có lãng mạn hay ảo tưởng xa vời
- Đã quyết định làm gì thì thực hiện, không để ý đến những lời nói phiếm của người khác
- Trân trọng, yêu quý, bảo tồn văn hóa truyền thống Hà Nội
- Khuyên bảo trẻ con rằng: “Ở Hà Nội, cách cư xử và giao tiếp phải chuẩn chỉnh, không được sống thoải mái phóng túng”
- Đánh giá việc duy trì phong tục là một biểu hiện của “tự trọng, ý thức xấu hổ”
- Đánh giá chung
Đưa cô Hiền vào nhiều bối cảnh lịch sử, nhà văn chiếu sáng được số phận của một dân tộc qua một con người:
- Quan điểm hiện thực mới lạ
- Đức tin vào vẻ bất tử của những giá trị văn hóa truyền thống
Nhân vật “ Một người Hà Nội “ được thể hiện ở nhiều giai đoạn lịch sử.
- Nghệ thuật sáng tạo
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: việc sử dụng ngôn từ cụ thể
- Liên kết ngắn gọn với “Chân dung người Hà Nội” trong thời đại hiện nay.
III. Kết luận
Đánh giá tài năng của tác giả và thành công của tác phẩm.
Phân tích Một người Hà Nội Hà Nội - Mẫu 1
Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó gia nhập quân đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu sự nghiệp báo chí, văn từ năm 1950. Ở giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm của ông phản ánh thực tại của cuộc sống nông thôn theo hướng độc đáo trong quá trình xây dựng cuộc sống mới theo chủ nghĩa xã hội.
Kể từ sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Nguyễn Khải đặc biệt quan tâm đến những biến động mạnh mẽ của cuộc sống, của tư tưởng và tình cảm con người trước những thay đổi phức tạp của xã hội hiện đại. Nhà văn nhìn nhận và đánh giá con người trong mối quan hệ đa chiều phức tạp: thông qua đó, ông khẳng định và ca ngợi những giá trị cao đẹp của con người và cuộc sống. Năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, ông qua đời năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Truyện Một người Hà Nội Hà Nội ra đời năm 1990, xuất bản trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, được in tại Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện này, tác giả thể hiện quan điểm về cuộc sống và văn hóa của một người Hà Nội, nổi bật những giá trị tốt đẹp của những người bình thường sống qua những biến cố lịch sử và phát triển của đất nước. Câu chuyện thể hiện cái nhìn mới về con người và cuộc sống, đặc biệt là nhân vật cô Hiền, đẹp và thông minh, hiểu biết và nhân từ.
Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, thăm cô Hiền – một người họ hàng xa. Trải qua cuộc kháng chiến, cô Hiền ở lại
Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cô Hiền khôn ngoan tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.
Năm 1975, khi miền Nam giải phóng, anh Dũng trở về Hà Nội. Trong bữa tiệc đoàn tụ gia đình, anh kể về Tuất, người bạn đã hy sinh cho đất nước, và về mẹ của Tuất, người đã sống tiếp sau nỗi đau mất con để tiếp tục cuộc sống và công việc.
Ở thời kỳ đổi mới đầu, Hà Nội còn nhiều khó khăn. Một lần tác giả đến thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà Nội thuần túy, với niềm tin vào cuộc sống.
Bắt đầu tác phẩm, với vai trò của một người cháu, tác giả đã giới thiệu cô Hiền bằng tình cảm quý mến của mình: 'Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi.' Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính chân thực và sức thuyết phục của câu chuyện.
Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tồn tại, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi khi còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, làm cho lời kể, lời bình có vẻ khách quan.
Chín năm chiến đấu chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình thiết lập, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng chặt. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quen thuộc không thể thiếu: Hà Nội với cô Hiền là một tình yêu lớn lao, sâu sắc.
Ban đầu, trong tư duy của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như cô Hiền thật khó gần, vì căn nhà của cô nằm ngay trên một con đường lớn, nhìn ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn… Trái lại, cán bộ và gia đình họ phải sống chật chội trong những khu nhà tập thể, thậm chí có khi ở dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Theo cách đánh giá, nhận xét chung, thì: với người vô sản, sống quá rộng là một tội lỗi. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng quá sang trọng: 'Mùa đông ông mặc áo ba-lô, đi giày da, bà mặc áo lông cừu, đi giày nhung đính hạt cườm.'
Cách ăn uống của gia đình cô Hiền và gia đình tác giả cũng khác biệt: 'Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định.' Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muối vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn để sống, để làm việc, chứ không phải là để tôn vinh thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.'
Những khác biệt cơ bản đó cuối cùng cũng phản ánh từ cách nhìn và cách sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu không hề thiếu lý do: Cô Hiền rõ ràng là một tư sản. Đã là tư sản thì không thể tin tưởng được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại phức tạp… Điều đáng chú ý là cô Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc sống mới, vừa giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình.
Để làm nổi bật tính cách của cô Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường ảnh hưởng đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân vật cô Hiền không phải là sản phẩm của hoàn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng quý của nhân vật này.
Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi : Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội.
Nhưng tác giả thắc mắc tại sao những người như cô Hiền lại có thái độ khác : Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Rồi tự lí giải : Họ đang cố gắng thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói chuyện nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đoán của mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cô Hiền mà mình đã chứng kiến.
Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến thì cô Hiền cau mặt gắt : Phải gọi là anh Khải, hiểu không ? Thấy chồng nắm tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi, thì cô thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cô Hiền thấy chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe không hợp lí nên đã có phản ứng như vậy.
Khi cháu hỏi về dân tình, thời đại thì cô Hiền thẳng thắn trả lời : Vui một chút, nói một chút, nhưng cũng phải suy nghĩ về kinh doanh chứ nhỉ ? Theo cô, chính phủ can thiệp quá nhiều vào cuộc sống hàng ngày của dân, cứ như phải tập thể dục mỗi sáng, phải tổ chức hoạt động văn hóa mỗi tối, vợ chồng phải sống như thế nào, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả việc trả tiền công sá cho kẻ ăn người. Cô Hiền mạnh mẽ, thẳng thắn thể hiện suy nghĩ, nhận xét của mình về những hiện tượng không hợp lý trong cuộc sống mới.
Đối với những người giúp việc trong gia đình, cô Hiền coi họ như người thân. Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú chăm sóc con cô từ khi cô 19 tuổi đến khi cô 45 tuổi. Trong suốt 26 năm đó, cô Hiền xem anh bếp, chị vú như người trong gia đình, đối xử rất tôn trọng, vì vậy sau này khi họ về quê, vợ chồng họ vẫn duy trì mối quan hệ thân thiết, ngày giỗ ông chủ và ngày Tết họ đều mang đến gạo, đậu xanh, miến và rượu, tất cả đều tự làm, tặng cô và các em.
Với thời đại, cô Hiền cũng thể hiện rõ ràng thái độ của mình. Khi người cháu (tức tác giả) thân mật và tò mò hỏi cô về tầng lớp xã hội, về việc tại sao cô không phải cải tạo… thì cô cười rất tươi : Tao không đủ tiêu chuẩn rồi tự tin nói: Tao có vẻ ngoài của một tư sản, một cách sống của một tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì sao mà trở thành tư sản được.
Đó là sự thật rõ ràng. Cô Hiền có một cửa hàng bán hoa giấy, công việc không giàu có nhưng đủ sống. Các loại hoa giấy, lẵng hoa từ tre, từ mây mình tự làm rất đẹp, bán giá cao nhưng thuế rất nhẹ. Vì vậy cô không bị coi là tư sản giữa thời kỳ cải tạo và đấu tranh giai cấp gay gắt. Một số bạn của cô Hiền tỏ ra tò mò: Trông bà như tư sản mà không học tập thì lạ nhỉ?thì cô nhẹ nhàng, hóm hỉnh trả lời: Các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết.
Trong việc kinh doanh, cô Hiền cũng tỏ ra thông minh hơn các bạn và linh hoạt hơn ông chồng. Trước khi giải phóng, chồng cô làm giáo viên, viết sách, in sách để kiếm tiền, mua hai căn nhà, một để ở và một cho thuê. Khi chính sách cải tạo tư sản ra đời năm 1956, cô Hiền đã kịp bán căn nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới từ chiến khu về. Một năm sau, khi có cán bộ đến hỏi về nhà cửa, nhắc đến ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp : Mời anh tới ngôi nhà anh nói, hỏi chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc thì mời anh trở lại.
Trong thời kỳ mới, chồng của cô Hiền không được phép mở trường tư thục nên định mua một máy in nhỏ để kinh doanh. Cô ngay lập tức hỏi: Ông có thể vận hành máy không? Ông có thể sắp xếp chữ không ?… Ông muốn làm một ông chủ trong thời kỳ này à ? Chồng cô là người nhút nhát nên ngay lập tức rút lui trước những câu hỏi sắc bén nhưng rất phản ánh thời đại của vợ. Những nhận định của cô Hiền về cuộc sống mới sau hòa bình thông qua cuộc trò chuyện với người cháu là chân thành và dũng cảm : Chế độ này không ưa việc cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ sống, thiếu sống một chút càng tốt, thiếu sống là vinh dự chứ không phải nhục nhã, vì vậy tôi cũng chỉ cần đủ sống. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng đủ sống, lại thoải mái, lại không cần lo lắng gì. Tôi hỏi lại : “Còn chồng, còn con cái ?”. “Chồng tôi mặc dù chưa già nhưng phải để ngồi yên, con cái sẽ trở thành cán bộ, tôi sẽ phải nuôi một bầy ăn bám, dù có có khả năng để không phải sống bám vào người khác”.
Cô Hiền thông minh, nhanh nhạy thích ứng với cuộc sống mới mà không bỏ lỡ bản thân. Là người thực tế, mọi việc cô Hiền đều suy tính kỹ lưỡng trước và cô luôn đúng. Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đoán : Đã quyết định làm thì sẽ làm, đã làm là không để ý đến những lời nói của người khác. Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu : Cả cuộc đời tôi chưa từng bị ai lừa dối, kể cả chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời đã chứng minh rằng điều đó là đúng.
Trước hết là về hôn nhân, mặc dù là một cô gái Hà Nội có vẻ đẹp, lại là con nhà giàu nhưng đến gần ba chục tuổi cô Hiền mới kết hôn. Cô không chọn lựa quan trọng và không hứa hẹn gì với những người tham vọng và lãng mạn mà chọn một anh giáo viên Tiểu học đáng tin cậy để có một mối quan hệ lâu dài. Hành động này khiến cả Hà Nội ngạc nhiên vì con gái thường mê sang, mê giàu, nhưng cô Hiền lại vượt lên trên thói quen đó. Sự lựa chọn này cho thấy cô Hiền có tinh thần nghiêm túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên hàng đầu.
Trong thời kỳ dân ta sống trong cảnh khốn cùng nhưng mọi gia đình đều muốn có nhiều con, việc chấm dứt việc sinh con khi cô Hiền đã bước vào tuổi bốn mươi là điều hoàn toàn chính xác. Cô nói với chồng: Từ giờ chúng ta sẽ dừng lại, tôi đã bước qua tuổi bốn mươi, nếu chúng ta sống đến sáu mươi tuổi thì con út của chúng ta đã hai mươi, có thể tự lập, không cần phụ thuộc vào anh chị nữa.
Cô Hiền không tin vào câu 'Trời sinh voi, trời sinh cỏ', mà cô cho rằng con cái cần được cha mẹ dạy dỗ chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Vì vậy, trách nhiệm chính của người làm cha mẹ là xây dựng nhân cách và chuẩn bị cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương của cô Hiền dành cho con cái là tình yêu sâu sắc của một người mẹ có tầm nhìn xa trông rộng.
Cô Hiền rất quý trọng vai trò của phụ nữ trong việc quản lý gia đình.
Theo cô, vợ không chỉ là người nội trợ mà còn là người quản trị tinh thần. Cô phê phán người cháu: Mày quá hà khắc với vợ mày, không để cho nó tự quyết định bất cứ điều gì, đó là điều không tốt. Người phụ nữ nếu không có vai trò quản trị tinh thần thì gia đình đó cũng không thể phát triển. Quan niệm về bình đẳng giới của cô bắt nguồn từ sứ mạng của phụ nữ và cô hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.
Cô Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ những việc nhỏ nhặt. Khi ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý chỉnh sửa cách ngồi, cách cầm đũa, cách múc canh, thậm chí cả cách trò chuyện trong bữa ăn. Cô không coi những điều đó là vụ vặt mà là phong tục, văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế nữa, đó cũng là văn hóa của người Hà Nội. Cô khuyên bảo con cháu: Chúng mày là người Hà Nội, việc đi lại, cách nói chuyện phải có quy chuẩn, không được sống cẩu thả, bừa bãi.
Cách sắp xếp công việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền rất khéo léo và tỉ mỉ. Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, điều này có nghĩa là biết giữ gìn nhân cách. Đây là nền tảng quan trọng để sau này lớn lên có thể tự lập, có đủ ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, cho xã hội.
Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân đi Nam chiến đấu. Đội đầu tiên có 660 người, tất cả là những chàng trai xuất sắc của Hà Nội. Dũng, con trai cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền lập tức tỏ ý muốn tham gia. Cô Hiền đã chấp nhận để con tham gia mặt trận với tâm trạng giống như nhiều bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: Cô có bằng lòng để em đi chiến đấu không? Cô đã trả lời: Tao đau lòng mà vẫn bằng lòng, bởi vì tao không muốn nó phụ thuộc vào sự hy sinh của bạn bè. Nó có dũng cảm để ra mặt trận, điều đó cũng là biểu hiện của sự tự trọng. Tao có đau lòng không khi hiểu rằng trong chiến tranh, bom đạn không phân biệt. Nhưng bằng lòng là cô chấp nhận sự hy sinh. Sự nghiệp quốc gia đứng trên hết. Lòng yêu nước của cô Hiền cũng giống như lòng yêu nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh biết bao !
Trong suốt ba năm qua, gia đình không nhận được bất kỳ tin tức nào về Dũng, người đang chiến đấu trên chiến trường khốc liệt ở miền Nam. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng muốn tham gia vào cuộc chiến với Mỹ, cô Hiền vẫn giữ bình tĩnh. Cô đã chia sẻ với người cháu những lời chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản. Ngăn cản chỉ làm cho nó tìm cách sống để bạn bè của nó phải chết, cũng chính là cách giết chết nó... Tao cũng muốn sống bằng những nguyên tắc công bằng như mọi bà mẹ khác, hoặc sống hoặc chết, vui hay buồn là tùy thuộc.
Những lời nói của cô Hiền phản ánh một tinh thần sống đáng được tôn trọng. Sự tinh tế trong cuộc sống tình cảm của cô Hiền là biểu hiện của sự chia sẻ trước nỗi đau và mất mát của nhiều bà mẹ khác. Tác giả thể hiện một cách chân thực và tinh tế sự đau khổ và đau đớn giữa tình yêu mẹ với tình yêu đất nước, giữa lo lắng với ý thức về danh dự trong tâm trạng của cô Hiền. Không bà mẹ nào muốn thấy con mình gặp khó khăn, hiểm nguy, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống trong đau khổ, nhục nhã. Cô Hiền hiểu con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con tham gia vào cuộc chiến ở Nam.
Từ chi tiết này, tác giả muốn thể hiện tính cách và phẩm chất của cô Hiền là không giả tạo, không giấu giếm bằng những lời nói không chân thành, luôn sống đúng với bản chất của mình, vì sống là phải sống đúng. Trong cuộc sống, để trở thành một người tốt là một điều cực kỳ khó khăn. Con người chỉ có thể giữ được tính tốt khi có lòng tự trọng, biết phân biệt đúng sai và biết hy sinh. Điều này cho thấy, cái chuẩn mực trong suy nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.
Các phẩm chất mà cô Hiền sở hữu là kết quả của việc học hỏi từ truyền thống gia đình, từ nhận thức cá nhân, và từ kinh nghiệm sống trong cuộc sống hàng ngày của một người vợ, một người mẹ. Tình yêu của cô Hiền không phải là hời hợt hay cảm tính mà là sâu sắc, bởi nó liên quan đến niềm tin: Hà Nội là biểu tượng văn hóa của người Việt Nam. Mỗi công dân Hà Nội cần có ý thức bảo tồn và phát triển chuẩn mực đó.
Cô Hiền được xem là may mắn hơn bất kỳ bà mẹ nào của Tuất, cũng như hơn hàng ngàn, thậm chí hàng vạn bà mẹ khác. Vào tháng 12 năm 1975, khi cả dân tộc đang ăn mừng chiến thắng lịch sử, Dũng, con trai lớn của cô Hiền đã trở về. Anh ta bước vào nhà với chiếc ba lô trên lưng, và khi cô Hiền hỏi: Anh muốn mua cái gì? Người con trai gầy guộc, tan tác, không còn dấu vết nào của một người con trai Hà Nội, vì thế người mẹ không nhận ra con mình.
Cô Hiền tổ chức buổi liên hoan để chúc mừng sự trở về thành công của con trai. Các vị khách mời là những người bạn thân thiết của vợ chồng cô, đều là các công dân Hà Nội, những người đã nổi tiếng ở thủ đô. Do đó, bữa tiệc được tổ chức lộng lẫy và sang trọng. Thường ngày, cô Hiền và những người bạn chỉ mặc quần áo bình dân: áo bông ngắn, quần đen, đi dép, đi giày, thắt khăn len tơi tả... Nhưng hôm nay, khách mời ăn mặc rất trang trọng. Một số ông mặc áo vest, cà vạt. Một số bà mặc áo nhung, áo dạ, đeo trang sức quý giá... Còn cô Hiền thì trông giống như một diễn viên sân khấu, với mái tóc bóng loáng và hoa tươi rực rỡ...
Cô Hiền chia sẻ với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa người bình thường, mọi người đều có thể ăn mặc và nói chuyện một cách thô tục, nhưng khi sống với những người quý phái, chúng ta phải làm sao? Mỗi xã hội đều có lớp thượng lưu của riêng mình để định rõ các giá trị... Cái chuẩn đó là cốt lõi của lối sống, văn hóa, đạo đức và văn minh tiến bộ. Cô Hiền đã cố gắng duy trì lối sống đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Anh Dũng đã sống đúng với những giá trị mà Hà Nội đã dạy. Năm 1965, trong thời điểm chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt, sau khi tốt nghiệp trung học, Dũng tự nguyện tham gia vào cuộc chiến ở Nam. Anh đã chiến đấu trong mười năm và may mắn trở về với cuộc sống bình yên. Có nhiều đồng đội của anh không may không thể trở về trong ngày chiến thắng. Dũng rơi vào tâm trạng khó diễn tả khi kể rằng, trong số hơn 660 thanh niên tài năng của Hà Nội đi cùng với anh vào ngày đó, chỉ còn lại khoảng dưới bốn chục người. Hơn 600 người đã hi sinh tuổi trẻ và sinh mạng của mình cho sự thống nhất đất nước.
Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng cảm thấy rất tiếc nuối cho Tuất, bạn đồng đội của anh. Khi đến Nam, khi tàu đi qua ga Hàng Cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ của mình phát qua loa ở ga nhưng anh không thể xuống để chia tay mẹ. Đó cũng là lúc cuối cùng mà Tuất nghe thấy tiếng nói của mẹ. Anh đã hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, chỉ vài ngày trước ngày chiến thắng. Có nhiều bà mẹ Hà Nội đã hy sinh cho đất nước như mẹ anh, họ đã chịu đựng nỗi đau mất con, tiếp tục sống và xây dựng cuộc sống hòa bình. Khi gặp lại Dũng, bạn đồng đội của con, người bà run rẩy nhưng không khóc. Có thể nói rằng những người mẹ Hà Nội đã góp phần tô điểm cho bản sắc tinh thần của người Hà Nội, và cho phẩm chất cao quý của con người Việt Nam.
Tác giả đã khám phá và khai thác một khía cạnh của chiến tranh mà trước đó văn học chưa từng nói đến, đó là mất mát của từng gia đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Chiến thắng được đạt được bằng máu, vì vậy không thể vì niềm vui trong cuộc sống hòa bình mà chúng ta quên đi giá trị của sự hy sinh.
Cô Hiền cho rằng khi được xem là người của Hà Nội, phải biết tôn trọng và hướng tới cái đẹp. Đó là vẻ đẹp bắt nguồn từ sâu thẳm văn hóa của Thăng Long. Mỗi tháng, cô tổ chức một buổi mời cơm cho bạn bè, để họ được hòa mình vào không khí ngày xưa của thủ đô. Đó là cách cô giữ gìn và trân trọng nét đẹp truyền thống của người Hà Nội.
Cuối câu chuyện, tác giả kể về lần ông từ TP.HCM về Hà Nội thăm cô Hiền. Nhiều năm đã trôi qua, gia đình cô Hiền có nhiều thay đổi. Chồng cô đã khuất, con cái đã lập gia đình. Mặc dù đã bước qua tuổi bảy mươi, nhưng cô vẫn giữ vững bản sắc của một người Hà Nội thuần chất. Khung cảnh phòng khách, với những món đồ quý giá, khiến tác giả nhớ về vẻ đẹp trang trọng của ngày Tết ở Hà Nội.
Cô Hiền kể cho người cháu nghe về câu chuyện của cây si cổ thụ tại đền Ngọc Sơn, biểu hiện cho vẻ đẹp trường tồn và sức mạnh của văn hóa truyền thống. Cây si đã sống lại sau cơn bão mạnh mẽ, cho thấy sự tuần hoàn và sức sống bất diệt của thiên nhiên. Điều này khiến cô suy ngẫm về vẻ đẹp và ý nghĩa sâu xa của cuộc sống.
Sự khác biệt giữa cuộc sống ở Hà Nội xưa và Hà Nội hiện đại đem lại nhiều suy tư và phản ứng khác nhau. Một số người cho rằng thời đại thay đổi, con người cũng phải thay đổi theo. Nhưng tác giả lo lắng khi thấy một số người trẻ không đủ ý thức về giá trị văn hóa và đẹp của thủ đô.
Dù người cháu có những ý kiến không hài lòng về thực tế xã hội, nhưng cô Hiền không nhận xét gì. Thay vào đó, cô kể về câu chuyện của cây si cổ thụ để minh họa cho sự mạnh mẽ và bền vững của văn hóa Hà Nội. Điều này cho thấy sự quan trọng của việc giữ gìn và tôn trọng văn hóa truyền thống.
Câu chuyện về một người Hà Nội rất chân thực và sống động một phần là nhờ tác giả thể hiện vai người kể chuyện để mô tả những đặc điểm tiêu biểu trong tính cách của người Hà Nội. Chất Hà Nội sâu sắc được thể hiện qua tâm hồn và tính cách của nhân vật cô Hiền. Từ cách nói chuyện đến nền văn hóa gia đình, từ việc giáo dục con cái đến cách tổ chức cuộc sống và tạo dựng phong cách cho bản thân... Tất cả đều được cô Hiền tự giác nhấn mạnh. Cô luôn nhận thức rõ ràng về bản thân mình là một người Hà Nội, từ cách ăn mặc cho đến những sở thích thanh cao đòi hỏi sự kiên nhẫn, tinh tế như việc chăm sóc hoa thủy tiên để chúng nở đúng vào dịp giao thừa. Cô Hiền không chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà còn là hiện thân của truyền thống văn hóa Tràng An mạnh mẽ qua mọi biến cố lịch sử.
Tác giả đã đặt tên cho câu chuyện là Một người Hà Nội có lẽ nhằm nhấn mạnh bản lĩnh, phẩm chất của người Hà Nội. Họ luôn tự nhận thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại diện cho toàn dân tộc. Như câu ca dao: Chẳng thơm cũng có thể nhẫn nhịn - Dù không lịch sự cũng là người Tràng An. Chất Hà Nội trong nhân vật cô Hiền được thể hiện qua tính cách lịch lãm, qua thái độ tự do tự tại, bình tĩnh trước biến động của thời cuộc, qua sự thông minh, sâu sắc của trí tuệ và lòng thành, nồng hậu của tình cảm. Cô luôn tin rằng người Hà Nội mọi thời đều xinh đẹp và lịch lãm.
Từ nhân vật cô Hiền, độc giả có thể nhận ra nhiều phẩm chất tốt trong lối sống. Lối sống là tiếng nói của tư duy, nguyên tắc là cơ sở cho những hành động có ý thức của con người. Thông qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy sự tự tin, kiêng nhẫn của một con người luôn dám là chính mình: là chính mình khi tôn trọng bản thân, là chính mình trong giao tiếp với xã hội, quốc gia, là chính mình trong việc trải nghiệm lẽ sống.
Lời bình luận của tác giả ở cuối câu chuyện thể hiện tình cảm yêu mến và ngưỡng mộ đối với cô Hiền: Một người như cô phải đi qua thật là tiếc, lại là một viên bụi vàng của Hà Nội rơi vào lòng đất. Những viên bụi vàng lung linh tồn tại ở mọi ngóc ngách của Hà Nội hãy để gió cuốn đi để đất phủ kín bằng sự lấp lánh của vàng. Giọng văn của tác giả vừa có sự lo lắng, tiếc nuối lại vừa chứa đựng niềm tin, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu có và hiện đại, liệu những giá trị cũ có được bảo tồn? Thông qua cách kể chuyện, Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để độc giả tự suy luận chứ không ép buộc theo ý kiến của mình; từ đó vừa tạo ra mối quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được quan điểm cá nhân. Giọng văn linh hoạt, có đối thoại, có bình luận... Ngôn ngữ đời thường nhưng đậm chất triết lý, trữ tình, thể hiện sự quan sát sắc bén, những suy tư sâu sắc của một người đã trải qua nhiều.
Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều ấn tượng tích cực, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải mô tả rất thành công bằng sự phong phú của cuộc sống và ngòi bút tinh tế. Có thể đây cũng là tình cảm chung của biết bao người luôn hướng về Thủ đô – trái tim của quê hương. Trong tác phẩm này, Nguyễn Khải còn gián tiếp đặt ra câu hỏi: Nhà văn cần phải có tư duy tỉnh táo, sáng suốt khi khám phá và phản ánh vào những khía cạnh của cuộc sống hàng ngày để khám phá ra vẻ đẹp của con người và cuộc sống.
Phân tích 'Một người Hà Nội' - Mẫu 3
“Một người Hà Nội“ là một tác phẩm đặc biệt của nhà văn Nguyễn Khải, thể hiện một cái nhìn mới mẻ về con người và cuộc sống, với sự sáng tạo đặc biệt của tác giả.
Tựa đề “Một người Hà Nội” đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội, thể hiện vẻ đẹp thuần túy của thành phố này và không gian văn hóa cổ kính.
Tác phẩm “Một người Hà Nội” tập trung vào nhân vật cô Hiền, một người phụ nữ xuất thân từ gia đình giàu có, thể hiện sự gắn bó và tình yêu sâu sắc với Hà Nội.
Cô Hiền, người chính trong “Một người Hà Nội”, mang đầy đủ vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn, là một biểu tượng của sự hiểu biết và hài hòa trong cuộc sống.
Trong mối quan hệ với gia đình, cô ấy thực hiện trách nhiệm của một người vợ tử tế, thông minh và giỏi về kinh tế cũng như quản lý gia đình. Trong việc dạy con cái, cô ấy là một người mẹ nghiêm khắc, dạy bảo con cái cần phải biết tôn trọng bản thân. Cô là một người mẹ tự tôn và ý thức rõ trách nhiệm của một công dân yêu nước. Trong mối quan hệ với mọi người, cô ấy sống đầy lòng tình cảm và nhân từ, luôn sẵn lòng giúp đỡ và gần gũi như người thân trong gia đình. Vì những phẩm chất đó, Nguyễn Khải gọi cô ấy là 'hạt bụi vàng' và nhà văn trân trọng vẻ đẹp của tâm hồn một người phụ nữ Hà Nội.
Ngoài cô ấy, mặc dù không được tập trung mô tả nhiều nhưng Nguyễn Khải cũng tả lại các nhân vật khác thuộc giới trẻ Hà Nội trong tác phẩm của mình. Đó là những chàng trai biểu tượng cho thế hệ trẻ có lòng tự trọng và trách nhiệm với đất nước. Những chàng trai này sống với lý tưởng cao đẹp, sẵn lòng hy sinh cho Hà Nội và Tổ quốc. Trong số đó, Dũng là một trong những chàng trai có tình yêu nước sâu sắc nhất, sống với lý tưởng và trách nhiệm cao. Còn Tuất là một chàng trai biết kiềm chế cảm xúc của mình để hướng đến những mục tiêu cao cả hơn. Và cũng là mẹ của Tuất - người phụ nữ dũng cảm và kiên cường, phải trải qua những đau đớn lớn lao và hy sinh cả đứa con của mình. Một người mẹ đầy nghị lực và can đảm.
Tất cả những hình ảnh đó tạo nên bức tranh về những người Hà Nội luôn âm thầm và kiên cường bảo vệ sự tồn vong của thành phố, bảo vệ những giá trị tinh thần và phẩm chất cao đẹp của người dân Hà Nội.
Phân tích về 'Một người Hà Nội' - Mẫu 4
Nguyễn Khải được xem là một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học nước ta từ sau cách mạng tháng Tám. Các tác phẩm của ông phản ánh sinh động và chân thực quá trình phát triển của văn học từ thời chiến tranh đến thời bình. Trong những tác phẩm trước năm 1977, Nguyễn Khải tập trung vào các vấn đề chính trị. Tuy nhiên, từ năm 1978 trở đi, ông quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống hàng ngày của con người. Ông sâu sắc phản ánh và phân tích những tâm trạng phức tạp nhưng hợp lý của con người trong thời kỳ hậu chiến tranh. 'Một người Hà Nội' là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Khải trong giai đoạn sáng tác thứ hai của mình. Trong tác phẩm này, Nguyễn Khải đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật bà Hiền - một biểu tượng cho phụ nữ Hà Nội.
Một người Hà Nội, đặc biệt là tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, tỏ ra sâu sắc yêu thương và hiểu biết về thành phố, với cái nhìn tinh tế và tri thức của Nguyễn Khải về vẻ đẹp của cảnh quan và con người ở Hà Nội.
Cô Hiền có nguồn gốc từ một gia đình giàu có, đạo đức, và yêu văn học. Sự thông minh và sắc sảo của cô, cùng với việc mở phòng tiếp khách văn học, tạo nên một vẻ đẹp toàn diện được tác giả mô tả từ nhiều góc độ khác nhau.
Trong hôn nhân, cô Hiền đã vượt lên trên những ham muốn về danh vọng và tài lộc. Cô chọn một hướng tiếp cận chân thành và nghiêm túc về tình yêu, không mơ mộng và luôn làm theo lời khuyên của trái tim. Sự lựa chọn của cô khiến người Hà Nội phải kinh ngạc.
Về việc dạy dỗ con cái, cô Hiền không chỉ dạy chúng những điều cơ bản hàng ngày như cách ăn uống hay cầm đũa, mà còn coi đó như một phần của văn hóa. Theo cô, người Hà Nội phải tuân thủ những chuẩn mực trong cách sống và giao tiếp.
Về việc sinh con, cô Hiền có quan điểm tiên tiến hơn so với thời đại của mình. Thay vì tin vào quan niệm cũ kỹ 'trời sinh voi, trời sinh cỏ', cô quyết định dừng lại ở con thứ bốn mươi, để có thời gian nuôi dạy con cái một cách chu toàn và giúp họ trở nên độc lập và tự chủ.
Một điều đáng ngưỡng mộ và tôn trọng ở cô Hiền là lòng tự trọng cao cả của mình. Lòng tự trọng này không cho phép con người sống ích kỷ và nhút nhát. Chính vì lòng tự trọng đó, cô Hiền đã đồng ý để con trai của mình, Dũng, tham gia vào cuộc chiến, mặc dù lòng cô đau xé vì không muốn con bám vào cái chết của bạn bè. Cô Hiền cũng khuyến khích em trai Dũng tiếp tục con đường của anh trai mình, lời khuyên đó cũng như một cách giết chết những ý định tự do của em. Lòng tự trọng này cũng là tình yêu đối với đất nước và ý thức cộng đồng sâu sắc, mà không cần phải ồn ào.
Cô Hiền là một người sống theo chuẩn mực, tự tin về bản thân mình. Cô không bị ảnh hưởng bởi cách sống và vẻ bề ngoại giả tạo, cô chỉ sống bằng nghề làm hoa giấy. Sự thực của Hà Nội trong cách sống lịch lãm và quý phái của cô Hiền được thể hiện rõ trong phòng khách của cô, một không gian giữ gìn bản sắc cổ điển và tinh tế của thủ đô. Tinh thần Hà Nội của cô Hiền là sự thản nhiên và tự do trước những biến động của thời đại, cô không sợ hãi trước sự thay đổi và cũng không tỏ ra quá phấn khích trước những thành công của cách mạng.
“Tại sao cô không phải học tập cải tạo? Cô giữ bí mật nhiều đấy nhỉ?”
“Tôi có vẻ ngoài và cách sống giống như người tư sản, nhưng tôi không bao giờ lợi dụng người khác. Đó là lý do tại sao tôi không thể trở thành tư sản.”
Hoặc:
“Thật vui khi đất nước giành được độc lập,”
'Vui quá, nhưng cũng cần suy nghĩ về tương lai kinh tế chứ không nên chỉ biết ăn chơi,” là lời nhấn mạnh sự ung dung tự do của cô Hiền.
Ngoài ra, trong cô Hiền còn chứa đựng sự khôn ngoan và sâu sắc của tri thức, như khi cô nói về sự tuần hoàn của tự nhiên: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể đoán trước được,” hoặc niềm tin vào tương lai và vẻ đẹp vĩnh viễn của Hà Nội, dù đẹp đến đâu đi chăng nữa: 'Mỗi thế hệ có thời vàng của riêng mình. Hà Nội không như vậy. Mỗi thời đại, nó đều đẹp, một vẻ đẹp độc đáo cho một thời đại.”
Tổng kết lại, cô Hiền không chỉ sở hữu vẻ đẹp bên ngoài mà còn có một tâm hồn lớn lao. Cô là một người phụ nữ mẫu mực, yêu thương chồng và con, trân trọng giá trị, và có nhiều quan điểm tiên tiến trong việc nuôi dạy con cái, sống đúng chuẩn, lịch lãm và điềm đạm, luôn duy trì phong cách của người Hà Nội và yêu quý thành phố này. Cô Hiền là biểu tượng của vẻ đẹp người Hà Nội.
Phân tích của Một người Hà Nội - Mẫu 5
Qua hàng nghìn năm lịch sử, Hà Nội đã trở thành điểm hội tụ của văn hóa và tinh hoa của đất nước, là nơi ghi lại cảm xúc của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ. Vùng đất kinh kỳ thực sự là 'nhân vật' mang tinh thần trong văn thơ, không cần sự ồn ào hay hối hả, Hà Nội vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng những ai đã từng đặt chân đến đây.
Không có vẻ lãng mạn như Tô Hoài hay Đỗ Phấn, truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải đã làm động đậy nhiều tâm hồn, với hình ảnh con người Hà thành được mô tả một cách tinh tế và chân thực.
Nguyễn Khải sinh ra tại Hà Nội, ông trải qua nhiều bước ngoặc lớn trong cuộc đời mình. Năm 1950, ông bắt đầu sự nghiệp văn chương với những tác phẩm đầu tay: Xây dựng (1950-1951), Xung đột (phần I – 1959, phần II – 1962),… Các tác phẩm viết về đề tài nông thôn: Mùa lạc (1960), Người trở về (1964),… Từ sau năm 1975, các tác phẩm của ông đề cập chủ yếu đến vấn đề chính trị - xã hội mang tính thời sự, đặc biệt là tâm lý, tư tưởng con người trước những biến động của thời cuộc.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khải trong giai đoạn này: Cha và con, và… (1979), Thời gian của người (1985) và đặc sắc nhất là truyện ngắn Một người Hà Nội được ông viết năm 1990. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của con người Hà Nội qua biết bao thăng trầm, biến động của đất nước.
Nhan đề Một người Hà Nội được Nguyễn Khải đặt đã làm nổi bật lên hình tượng trung tâm xuyên suốt của tác phẩm chính là 'người Hà Nội' mang trong mình vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình, tính cách cho đến tâm hồn. Nhan đề không màu mè, khoa trương cũng đủ gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, nó như mở ra một không gian nghệ thuật tuyệt mỹ, một mảnh đất Hà thành xinh đẹp, cổ kính, trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Nguyễn Khải tạo ra nhiều nhân vật xuất thân từ Hà Nội, trong đó cô Hiền là nhân vật nổi bật nhất. Cô sinh ra trong một gia đình giàu có, có nhan sắc và trí tuệ vượt trội. Tính cách thuần khiết và vẻ đẹp tinh thần của cô được hình thành từ nền văn hoá đặc biệt của kinh kỳ, không bị ảnh hưởng bởi thời gian.
Cô Hiền yêu quý Hà Nội, nơi cô sinh ra và lớn lên. Dù bom đạn đang rơi xuống, cô vẫn quyết định ở lại với niềm tự hào và tình yêu dành cho thành phố. Tính cách kiêu hãnh, tự tin và sắc sảo của cô phản ánh rõ bản tính mạnh mẽ của người Hà Nội.
Mặc cho xã hội đang thay đổi, cô Hiền vẫn giữ cho mình lối sống thanh lịch và cao quý, phản ánh chính xác bản sắc văn hóa Hà Nội. Cô là một người thực thụ, biết cân bằng giữa vẻ đẹp vật chất và tinh thần, không bị cuốn theo sóng gió của thời đại.
Vào độ tuổi gần ba mươi, cô Hiền quyết định lấy chồng và bắt đầu một gia đình mới. Cô không chọn một người quan hay nghệ sĩ, mà là một giáo viên hiền lành và chăm chỉ. Quyết định này thể hiện sự sáng suốt và chu toàn của cô trong việc chọn lựa con đường riêng cho mình.
Cô Hiền có tất cả mọi điều, từ gia thế đến ngoại hình và trí tuệ. Quyết định của cô chọn một người chồng tri thức và hiền lành là đúng đắn nhất, mang lại hạnh phúc cho cả gia đình. Cô là một người phụ nữ hoàn hảo, dám nghĩ, dám làm và không ngại đương đầu với thách thức.
Cô Hiền được tác giả miêu tả như là người có tâm hồn sâu lắng, tài năng trong việc quản lý gia đình. Cô thông minh trong kinh doanh và quản lý tài chính gia đình, luôn đưa ra những lời khuyên đúng đắn cho chồng và đóng góp vào thu nhập gia đình bằng cách kinh doanh cửa hàng hoa giả. Cô còn bán một phần của tài sản cho một người bạn trong kháng chiến. Tất cả những điều này cho thấy cô Hiền là người thông minh và sáng suốt hơn người.
Cô và gia đình sống như tư sản, có cuộc sống sang trọng giữa trung tâm thành phố. Dù sống trong thời đại biến đổi, họ vẫn giữ vững phong cách sống truyền thống của Hà Nội mà không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi xã hội hay ý kiến của người khác. Cô Hiền biết giữ cho mình một phong cách sống đúng đắn mà không cần phải theo đuổi những tiêu chuẩn giàu có hay áp đặt lên người khác.
Cô tự tin khẳng định với bạn bè rằng 'có những điều mà họ không biết nhưng chính nhà nước biết'. Câu nói này thể hiện lòng tin mạnh mẽ vào chính phủ và tình yêu nước sâu sắc của cô. Trong việc nuôi dạy con cái, cô là một người mẹ mẫu mực và nghiêm khắc. Cô dạy dỗ con cái của mình về trách nhiệm và lòng yêu nước từ khi còn nhỏ.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cô là một người mẹ dũng cảm, chứng kiến con mình tham gia chiến đấu và đối diện với nguy hiểm. Mặc dù lo lắng và đau buồn, nhưng cô vẫn tôn trọng quyết định của con mình và không muốn con sống phụ thuộc vào sự hy sinh của người khác.
Ra đi là để bảo vệ Tổ quốc, hy sinh cho đất nước là một hành động cao cả và không ích kỷ. Dù ở bất kỳ vị trí nào, cô vẫn giữ được phẩm chất cao quý và cách ứng xử mẫu mực. Người ta nói cô như là một 'hạt bụi vàng' - biểu hiện sự trân trọng và tôn trọng sự thông minh và phẩm chất của người dân Hà Nội.
Nguyễn Khải đã tạo ra hình ảnh của người kể chuyện một cách sáng tạo trong suốt tác phẩm, với giọng kể chứa đựng triết lý và sự tinh tế của nhân vật đến từ Hà Nội. Cách mà tác giả miêu tả cuộc sống và con người ở đây là một cách sống động, hài hước và rất chân thực. Ông đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật truyền đạt, nhìn nhận sự vật và hiện tượng từ nhiều góc độ và với nhiều cách đánh giá khác nhau. Ngôn ngữ của ông linh hoạt, biểu cảm và đầy phong cách. Các chi tiết như “hạt bụi vàng”, “cây si cổ thụ” đã đóng góp vào việc tái hiện lại vẻ đẹp của con người Hà Nội trong lòng người đọc.
Trong tác phẩm 'Một người Hà Nội' của Nguyễn Khải, nhà văn đã tạo ra một bức tranh vô cùng đặc sắc và để lại giá trị lớn lao cho văn học Việt Nam. Ông đã mô tả con người và cuộc sống ở Hà Nội một cách rất đặc biệt, nhìn nhận họ với cái nhìn sâu sắc và mới mẻ. Đối với Nguyễn Khải, con người Hà Nội hiện ra với vẻ đẹp đậm chất truyền thống, mang trong mình nét đẹp riêng không thể nhầm lẫn với bất kỳ nơi nào khác. Với sự sống mãnh liệt và tình yêu thương với cái đẹp từ hàng nghìn năm lịch sử, người Hà Nội đang phòng tránh những ảnh hưởng xấu từ nền văn hoá, và họ vẫn giữ vững phong cách sống cao quý và kiêu hãnh của mình.
Trong bức tranh 'Một người Hà Nội', Nguyễn Khải đã mở ra một cách nhìn mới mẻ về con người và cuộc sống, với một hình thức nghệ thuật đầy sáng tạo. Tác phẩm này là một biểu hiện điển hình cho sự tạo ra của nhà văn, thể hiện cách ông nhìn nhận thế giới xung quanh một cách rất độc đáo.
Truyện 'Một người Hà Nội', được viết vào năm 1990 và in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải, là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm này thể hiện cái nhìn sáng tạo của tác giả về con người và cuộc sống, và là một minh chứng cho sức mạnh của nghệ thuật văn chương.
Trong tác phẩm 'Một người Hà Nội', Nguyễn Khải đã mô tả một hình ảnh đặc biệt về người Hà Nội, mang trong đó vẻ đẹp thuần túy không gì có thể sánh kịp. Ông đã mở ra không gian nghệ thuật phong phú, với mảnh đất Kinh Kỳ và những năm văn hiến của nó. Từ nhan đề của tác phẩm, ta có thể nhìn thấy được tư duy và chủ đề chính của nó.
Tác phẩm kể về cô Hiền, một phụ nữ từ gia đình giàu có ở Hà Nội, có tâm hồn thấu hiểu và yêu thương đất nước. Dù thời cuộc biến động, cô vẫn giữ vững niềm tin vào sự bền vững của Hà Nội.
Cô Hiền luôn tin vào tương lai của Hà Nội và ung dung đối diện với những thách thức của cuộc sống hiện đại. Giống như cây si cổ thụ, Hà Nội có thể hồi sinh nhờ vào tình yêu và sự chăm sóc của những con người yêu quý nó.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội với chồng con, thể hiện lòng trung kiên và tình yêu sâu đậm đối với quê hương. Hà Nội không chỉ là nơi cô sống, mà còn là nguồn cảm hứng vĩnh cửu.
Tác phẩm vẽ nên vẻ đẹp của những thanh niên yêu nước như Dũng, những người hy sinh vì tương lai của đất nước. Sự đồng cảm và tôn trọng đối với những người hi sinh là điều tác giả muốn nhấn mạnh.
Tác phẩm tôn vinh những người như cô Hiền, những người mang lại ánh sáng cho thế hệ tương lai của Hà Nội. Đó là giá trị nhân văn cao đẹp mà tác giả muốn khám phá và tôn vinh.
Phân tích truyện 'Một người Hà Nội - Mẫu 7' của Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải đã viết văn từ những năm 1950 đến ngày nay, mang đến cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và con người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong 'Một người Hà Nội', Nguyễn Khải thể hiện sự trăn trở về cuộc sống và con người trong thời kỳ đổi mới, khẳng định những giá trị nhân văn cao đẹp.
Câu chuyện giới thiệu về cô Hiền và gia đình cô, đồng thời nêu bật sự thay đổi của cuộc sống ở Hà Nội qua các giai đoạn lịch sử.
Cuộc sống của người dân Hà Nội trong thời kỳ đổi mới được mô tả qua góc nhìn của người lính cách mạng và cô Hiền, phản ánh sự thay đổi và khó khăn trong xã hội mới.
Cô Hiền tìm kiếm công việc phù hợp với chính sách mới của chính phủ, thông qua những khó khăn và thách thức, cô vượt qua mọi trở ngại cùng gia đình. Trong thời kỳ chiến tranh, cô dạy con trai về lòng tự trọng và những giá trị đạo đức cơ bản ở Hà Nội. Con trai lớn của cô quyết định tham gia chiến đấu, trong khi con trai nhỏ hơn vẫn tiếp tục học đại học.
Dưới ánh sáng của chiến thắng lịch sử, vợ chồng nhân vật 'tôi' tham dự buổi tiệc chào mừng việc con trai của cô Hiền trở về sau thời gian phục vụ quân đội. Câu chuyện cảm động về sự hy sinh của đồng đội và người mẹ ở Hà Nội, vùng đất từng chịu nhiều sóng gió chiến tranh.
Xã hội trong thời kỳ đổi mới đầy mâu thuẫn và phức tạp. Nhân vật 'tôi' từ TP.HCM về Hà Nội thăm cô Hiền, và nhận thấy sự thay đổi trong cách sống của người dân. Dù bị ảnh hưởng bởi thị trường kinh tế, cô vẫn giữ vững bản sắc Hà Nội, không thay đổi con người mình.
Cô Hiền, một người phụ nữ bình thường ở Hà Nội, là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Cô sống thẳng thắn, chân thành, và giữ vững những giá trị văn hóa truyền thống của người Hà Nội dưới mọi hoàn cảnh.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước mới, cô Hiền nhận thấy sự thực tế và trật tự không đầy đủ trong một số chính sách của chính phủ. Cô phản ánh rằng một số quy định can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân và gia đình, và đề xuất cách tiếp cận thực tế hơn.
Cô Hiền là người rất thông minh và tỉ mỉ trong mọi việc, không quan tâm đến những lời bàn tán của người khác. Dù đã trải qua thời trẻ trâu với nhiều cuộc gặp gỡ với những thanh niên gia giáo, nhưng khi trở thành vợ và mẹ, cô đã chọn một người chồng hiền lành, là giáo viên tiểu học, và quyết định không sinh thêm con nữa để con cái có thể tự lập khi đủ tuổi.
Cô dạy dỗ con cháu về cách sống lịch sự, tế nhị, và biết giữ gìn phẩm chất và giá trị của người Hà Nội. Từ những hành động nhỏ nhặt như cách ngồi ăn, cầm bát, đến quan niệm sống, cô luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ vững những phẩm chất đạo đức.
Cuộc sống của cô Hiền là minh chứng cho sự thay đổi của đất nước, và cô luôn cố gắng giữ gìn nhân cách và phẩm giá của mình. Như một công dân trách nhiệm, cô chỉ hành động những việc có lợi cho cộng đồng và đất nước.
Trong giai đoạn hòa bình sau chiến tranh, chính phủ mới tạo ra chính sách cải tạo tư sản, nhưng cô Hiền không cần phải thay đổi vì cô không bóc lột người khác. Thậm chí khi kinh doanh, cô không sử dụng máy móc và làm tất cả mọi thứ một mình để góp phần vào việc phục hồi đất nước.
Cô mở cửa hàng bán đồ lưu niệm và tự tay làm ra các sản phẩm đẹp mắt và đắt tiền. Cô không mua máy móc và thuê thợ làm chỉ để thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ. Dù lo lắng cho con trong chiến tranh, cô vẫn sẵn lòng để con ra trận như mọi bà mẹ khác.
Trước khi đứa con trưởng thành quyết định tham gia chiến đấu, cô nói: “Tôi cảm thấy đau lòng nhưng cũng đồng ý vì tôi không muốn con phải sống dựa vào việc hy sinh của người khác. Nếu nó dám bước đi, đó cũng là biểu hiện của sự tự trọng”. Ba năm sau, đứa em cũng quyết định theo đuổi con đường của anh, yêu cầu được tham gia chiến trường. Cô nói: “Tôi không khuyến khích, cũng không ngăn cản, vì ngăn cản là khiến nó tìm cách sống sao cho người khác phải chết, cũng là cách giết chết nó... Tôi muốn được sống bình đẳng như mọi người khác, hoặc sống cùng hoặc chết cùng, vui buồn thì cũng chẳng khác gì”. Tư duy bình dị của cô Hiền là biểu hiện của tình yêu quê hương chân thành.
Tại sao tác giả so sánh cô Hiền như một hạt bụi vàng của Hà Nội? Khi nói đến một hạt bụi, người ta thường nghĩ đến một thứ vật nhỏ bé, không đáng chú ý, ít ai để ý đến, tức là không có giá trị gì. Nhưng hạt bụi vàng lại là một vật quý báu dù nhỏ bé. Một loạt hạt bụi vàng kết hợp lại sẽ tạo ra một ánh vàng rực rỡ, và cô Hiền, mặc dù bình thường và không nổi bật, lại mang trong mình những phẩm chất cao quý của người Hà Nội; những người như cô Hiền là những hạt bụi vàng tỏa sáng ẩn mình ở mỗi góc phố của Hà Nội, tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ cho thành phố.
Ánh vàng đó đại diện cho phẩm giá của người Hà Nội, là biểu tượng của truyền thống và tinh thần của người dân Hà Nội, một Hà Nội linh thiêng và lịch lãm, đã từng trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Nguyễn Khải viết với một phong cách trữ tình và giàu cảm xúc, tự nhiên nhưng sâu sắc, mang đậm triết lý nhân sinh, đồng thời phản ánh sự đa dạng của cuộc sống, qua đó thể hiện được suy nghĩ của cô Hiền, một người yêu nước đích thực.
Sự tự nhiên và dân dã tạo nên một phong cách truyện dân dã và hài hước trong cách kể chuyện của nhân vật. Ví dụ như: “Trong hồ sơ không ghi tên của cô Hiền. Họ ở xa, có thể chưa kịp bắn súng, huống hồ còn là bà tư sản, thì thêm mối phiền phức...”. Cách kể này giúp tạo ra một câu chuyện đời thường nhưng vẫn rất hiện đại và sâu sắc.
Ngoài ra, việc nhân vật “tôi” gặp gỡ các nhân vật khác trong câu chuyện cũng là cách để phát triển và hiểu sâu hơn về tính cách của họ. Những cuộc gặp gỡ này diễn ra ở các giai đoạn khác nhau của lịch sử quốc gia, từ sau hòa bình năm 1954, đến sau chiến thắng năm 1975, và sau đó là những năm đổi mới... thông qua đó mà sự phát triển của tính cách của cô Hiền được thể hiện rõ ràng.
Cách ngôn ngữ của các nhân vật đã phản ánh sâu sắc tính cách của họ. Ví dụ, cô Hiền có tư duy thực tế, logic và cách nói ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát. Điều này được thể hiện trong cuộc trò chuyện của cô với ông chồng về việc mua máy in để kinh doanh: “Ông có thể sửa máy được không?”; “Không.”, “Ông có biết cách in chữ không?”; “Không.”. “Vậy thì ông sẽ phải thuê thợ, vì ở đây không ai làm dưới chế độ này.”.
Bằng cách khắc họa lịch sử qua số phận cá nhân và nhấn mạnh vào phẩm chất của người Hà Nội, Nguyễn Khải đã thành công trong việc xây dựng cuốn sách. Qua cuộc đời của cô Hiền, người đọc cảm nhận được lối sống và phẩm giá văn hóa của một người Hà Nội sắc sảo, nhạy bén, luôn thích ứng với mọi tình huống và giữ vững phẩm chất của mình.