Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Nghèo của Nam Cao mang lại bài văn mẫu hay nhất, giúp các bạn có thêm nhiều ý tưởng tham khảo và nắm bắt cách viết bài văn phân tích một cách nhanh chóng.
Phân tích tác phẩm Nghèo của Nam Cao cho chúng ta thấy một bức tranh hiện thực về sự đói nghèo và số phận của người dân bị áp bức dưới chế độ phong kiến. Tác phẩm là bi kịch của những người nghèo trong một xã hội thiếu sự cảm thông. Dưới đây là bài văn mẫu hay nhất mời các bạn cùng đọc.
Phân tích tác phẩm Nghèo của Nam Cao
Andersen, một nhà văn hào, từng nói rằng: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra”. Hiện thực cuộc sống là nguồn cảm hứng nghệ thuật, và bức tranh hiện thực cuộc sống trong truyện “Nghèo” của Nam Cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Đây không chỉ là bức tranh tái hiện chân thực cuộc sống của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, mà còn là lời tố cáo, phê phán xã hội, cũng như sự cảm thông và xót thương của Nam Cao với nỗi khổ của con người.
Đoạn trích trên đến từ tác phẩm “Nghèo” của Nam Cao. Truyện vẽ lên hình ảnh của những người nông dân bị đói đến cùng cực, chịu áp bức dưới chế độ phong kiến, một đề tài đã được nhiều nhà văn hiện thực khai thác. Tuy nhiên, ở Nam Cao, có cái gì đó khiến người đọc cảm thấy xao xuyến, lo âu mãi không thôi. Có lẽ, chính vì điều đó mà Nam Cao được xem là nhà văn có tầm nhìn vĩ đại về cuộc sống con người?
Trong câu chuyện, câu nói mở đầu quen thuộc, ám ảnh của người nông dân nông thôn trước cách mạng tháng 8: “Bu ơi con đói..”. Đây vẫn là lời than thở quen thuộc khi nó trở thành: “Lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn” và tiếp tục là lời quát của chị Đĩ Chuột với đứa con: “Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa ché chún thì ăn chè mà”. Nam Cao khắc họa khung cảnh bình thường nhưng đầy bi thương của cái đói. Từ tiêu biểu của tác phẩm, tác giả đã hé lộ chuỗi bi kịch của gia đình chị Đĩ Chuột và người nông dân Việt Nam thời ấy? “Cái nghèo” quen thuộc đã khiến Nam Cao phải đặt tên cho tác phẩm của mình là “Nghèo”.
Sau hàng loạt lời than thở đói của đứa con và lời mắng của chị, “thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó, bịu xịu như muốn khóc”. Thấy con như vậy, chị Đĩ Chuột, một người mẹ nghèo khổ, nhưng cũng là một người mẹ yêu thương con, nói: “Chị Đĩ Chuột thương hại dịu dàng bảo: Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về ăn.. chóng ngoan rồi bị thương”. Cốt truyện của Nam Cao dường như đơn giản, chỉ là những đoạn đối thoại thông thường, không có kịch tính nhưng lại hấp dẫn, lôi cuốn sự tò mò của người đọc. Bức tranh hiện thực về cái nghèo một lần nữa được Nam Cao tái hiện: “Nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: Một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi”. Nghèo đến mức chỉ có thể: “Lấy một cái vỏ trai mút vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung”. Có thể nói, cái nghèo khiến mọi thứ trở nên vô nghĩa trong con mắt của những người bất lực trước cái đói. Đáng thương khi tuổi thơ của đứa trẻ, thường được biết đến là thời kỳ vui vẻ, học hành, trở thành một giấc mơ không thể thực hiện trong tâm trí của họ? So với miếng ăn, học hành có ý nghĩa gì khi mọi thứ đã quá nghèo khổ?
“Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo” -tiếng kêu của cái đói, cái nghèo lặp lại hai lần trong truyện nhưng đó cũng là “tiếng kêu” chung của người nông dân trước cách mạng tháng tám, một âm thanh đau đớn đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của các nhà văn. Chi tiết như: “Hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát chè màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút”; “Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra”; “há hốc mồm ra như con chim đợi mẹ mớm mồm” -miếng ăn dường như xa vời đến mức không thể nào tưởng tượng nổi. Miếng ăn đã khiến Lão Hạc phải kết thúc cuộc đời với bả chó, khiến Chí Phèo trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, khiến chị Dậu phải nuốt nước mắt vào trong để bán đứa con mới 7 tuổi. Dường như, giữa “Miếng ăn” và bản tính con người không còn sự phân biệt. Ở đây, ta vẫn nhớ câu nói: “Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện.” (Chí Phèo-Nam Cao)
Bi kịch đạt đến tột đỉnh của cảm xúc khi: “Mẹ nó đút cho nó một siêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại ọe ra và khóc òa lên”. Chị Đĩ Chuột yêu thương con nhưng bất lực trước số phận, cái nghèo, cái đói: “Chị lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bủng như con người ngã nước”. Và sau đó, “món chè” mà chị nói chỉ là cám nâu. Số phận của chị Đĩ Chuột và nhiều nhân vật khác trong Nam Cao đều u ám, đen tối đến mức muốn chớp một tia hi vọng nhưng cũng không có, cái khoảnh khắc này của chị giống chị Dậu cuối truyện khi chạy ra bầu trời tối đen trong “Tắt đèn” -nó tối đen như số phận của chị Dậu vậy? Có lẽ, Nam Cao chưa tìm ra cách giải thoát cho số phận nhân vật cũng như cho bản thân ông? Quả thật: “Đau đớn thay cho những cuộc sống muốn tự do nhưng lại bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất”
Nam Cao có quan điểm riêng về nghệ thuật: “Nghệ thuật không cần phải lừa dối như ánh trăng, nên tránh xa ánh trăng lừa dối, nghệ thuật cần phải là tiếng đau khổ bộc lộ từ cuộc sống đầy lầm lỗi”. Có lẽ chính điều này đã làm cho truyện ngắn của ông luôn mang dấu ấn sâu sắc?
Với việc lựa chọn đề tài, chủ đề không mới-viết về nỗi khốn khổ của người nông dân đương thời qua những chi tiết nhỏ nhặt, xoàng xĩnh: “Cái đói” nhưng sau những con chữ đó là một kho tàng lớn về con người, nhân tính và xã hội.
Nếu những nhà văn cùng thời tập trung vào việc xây dựng cốt truyện với nhiều biến cố kịch tính thì cốt truyện của ông có vẻ khiêm tốn hơn, dường như không cần sự sắp xếp tổ chức. Thay vì tập trung vào cốt truyện, Nam Cao chú trọng vào việc mô tả những cuộc đấu tranh tâm lý của nhân vật, thể hiện cuộc sống đời thường, bình dị. “Nghèo” đưa ra cốt truyện không mới, ta đã thấy những cảnh vì nghèo mà phải ăn cháo cám như trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, cũng như việc bán đứa con trong “Tắt đèn”
Nam Cao được coi là một bậc thầy trong việc sáng tạo truyện ngắn với cách miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo. Ông tạo ra hình ảnh của “đói nghèo” giữa những đoạn đối thoại với chị Đĩ Chuột, rồi sự bất lực cao trào của cảm xúc: “Chị Đĩ Chuột lau nước mắt..” Tâm lý học đã trở thành một phần không thể thiếu trong tác phẩm của Nam Cao, tạo nên một đặc điểm nghệ thuật nổi bật mang lại sức hấp dẫn lớn. Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn sâu sắc trong việc mô tả, phân tích tâm lý nhân vật, thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
Giọng điệu của Nam Cao có vẻ như có hai mặt đối lập. Dường như ông mang trong mình sự lạnh lùng, dửng dưng và đầy chua chát nhưng ẩn sau đó là trái tim ấm áp, tràn đầy tình người, rất giống với Lỗ Tấn.
Trên thế giấy trắng, với mực đen, Nam Cao đã tái hiện một cách chân thực bức tranh về xã hội phong kiến thối nát, đầy đủ nhất trong đoạn trích “Nghèo”. Ông thực sự đã mở ra những nguồn mà chưa ai khai phá, sáng tạo những điều mà chưa ai có.