Tinh thần nhân ái trong bài Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du bao gồm gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 6 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn phân tích ngày một tốt hơn.

TOP 6 mẫu tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du qua bài Độc Tiểu Thanh kí cực chất dưới đây sẽ là nguồn tài liệu cực kì hữu ích, là người bạn đồng hành giúp các em hiểu được trình tự làm bài, quan sát, biết cách liên tưởng, so sánh, lựa chọn ngôn từ phù hợp. Ngoài ra xem thêm: phân tích Đọc Tiểu Thanh kí, cảm nhận Đọc Tiểu Thanh kí, cảm nhận về nhân vật Tiểu Thanh.
Dàn ý tinh thần nhân ái trong bài Độc Tiểu Thanh kí
1. Khởi Đầu
Chào đón, mở đầu vấn đề: Tinh thần nhân ái trong bài Độc Tiểu Thanh kí.
2. Nội Dung
- Giới thiệu về nhân vật Tiểu Thanh.
- Phân tích:
* Hai câu mở đầu:
Trên bờ Hồ Tây, hoa uyển thơm phức
Đôi điếu kẻ đầu vị hương ngất
- Hoa uyển: Cảnh hoa (Khu vườn hoa Tây Hồ: một khung cảnh đẹp rực rỡ) - Phiên dịch: Cảnh sắc: Một vẻ đẹp phổ biến
- Tẫn: cuối cùng, toàn bộ, hoàn toàn - Phiên dịch: Hòa => làm nhẹ đi một cách không hoàn hảo để diễn đạt được sự thay đổi không ngừng của thời gian.
- Câu thơ tạo ra một tình huống đối lập giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa ở bên Hồ Tây bây giờ đã trở thành một miền đất hoang => Kích thích sự đau buồn trước sự biến đổi, sự phá hủy của thời gian đối với vẻ đẹp.
- 'Chỉ một chén rượu' 'độc' trong 'độc điếu', giảm bớt ý nghĩa của câu thơ.
→ Một cảm giác cô đơn đối lập nhưng tương xứng đang hiện diện trong cuộc gặp gỡ này. Sự cô đơn gặp gỡ một số phận cô đơn đau khổ.
=> Sự thông cảm từ Nguyễn Du
* Hai câu thơ:
Hoa trang hữu thần giao tử sau
Văn chương vô mệnh dư phần tương
- Hồng son: Vẻ đẹp
- Văn học: Tài năng
→ Khen ngợi vẻ đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh.
- Cụm từ 'Chôn', 'đốt' mạnh mẽ thể hiện sự oán hận, sự đè nén dã man từ phía vợ chồng đối với Tiểu Thanh => Phản ánh tinh thần đạo đức của xã hội phong kiến không thừa nhận cá nhân có tài năng.
→ Triết lý về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài năng không trụ vững, tài năng và số mệnh đối lập, vẻ đẹp dễ mất đi... cái tài, cái đẹp thường bị chôn vùi → Song song với điều đó là sự tôn vinh, sự khẳng định về sự tồn tại, vĩnh cửu của vẻ đẹp, tài năng ('vẫn hận, vẫn nhớ')
=> Sự nhân văn sâu sắc của Nguyễn Du, sự tiếc nuối cho những người vì tài năng mà bị hủy hoại.
* Hai câu luận:
Tiền kiếp oán trời vận oan
Phong vận kì oan từ chính mình
- 'Tiền kiếp oán trời': Sự oán hận từ kiếp trước và số phận không công bằng của thiên địa.
- Sự oan trái của những người tài hoa nhưng lại gặp phải số phận bất công.
→ Nỗi oán hận không chỉ là của Tiểu Thanh hay Nguyễn Du mà là của tất cả những người tài năng trong xã hội phong kiến.
- Trời cao khó biết lòng người.
→ Trước sự bất công, cô đơn đau đớn: Người có tài thường cô độc, nghệ sĩ có tài thường bất hạnh.
- Nỗi oan khó tả.
→ 'Nết phong nhã' mang lại nỗi oan trái ngược. Sự nghịch lý của cuộc đời là khi 'nết phong nhã' gây ra 'oan khiên'.
=> Sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với Tiểu Thanh.
* Hai câu kết:
Nghìn nỗi khóc thầm dư hậu
Thế gian hữu nhân đáp Tố Như?
- Nghệ thuật: Sử dụng câu hỏi tu từ
→ Nguyễn Du rơi nước mắt cho Tiểu Thanh và cho chính mình: Cảm xúc, tình cảm chân thành trào dâng không thể kìm nén.
=> Đó là cảm giác cô đơn của nghệ sĩ vĩ đại 'Như chim hót lạc giữa bóng đêm thu' (Xuân Diệu).
3. Phần Kết
Khẳng định giá trị nhân đạo trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, bức tranh nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.
Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua bài Độc Tiểu Thanh kí - Mẫu 1
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán xuất sắc nhất của Nguyễn Du được in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Cảnh đẹp của Tây Hồ kết hợp với câu chuyện về nàng Tiểu Thanh, một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống vào thời đầu nhà Minh. Vì hoàn cảnh không may, nàng phải kết hôn với một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Bị vợ cả ghen ghét, nàng bị giam giữ trong một ngôi nhà riêng biệt trên núi Cô Sơn. Nàng viết những bài thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. Không lâu sau, Tiểu Thanh qua đời một cách buồn bã khi chỉ mới mười tám tuổi. Ngay sau khi nàng qua đời, vợ cả vẫn không từ bỏ sự ghen ghét, và cô ta đã đốt hủy tập thơ của Tiểu Thanh. May mắn thay, một số bài vẫn được giữ lại, được gọi là Phần dư (đốt còn sót lại), đồng thời truyền bá câu chuyện bi thảm về số phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ này, trái tim ông đầy xúc động và thương cảm với cô gái tài sắc bạc mệnh. Ông cũng bày tỏ sự băn khoăn và nỗi đau lòng trước số phận bất hạnh của nhiều nhân vật tài năng khác trong xã hội xưa, trong đó có ông chính mình.
Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ nay biến thành đất hoang,
Bên bờ sông, chỉ còn mảnh giấy lụa đục.
Son phấn vẫn còn, nhưng tâm hận không dứt,
Văn chương vẫn tồn tại, nhưng tình cảm vẫn còn.
Nỗi hận xưa chưa biết đến đâu,
Định mệnh không thể tránh khỏi tự gây ra.
Không biết sau ba trăm năm nữa,
Người dân liệu có còn nhớ Tố Như không?
Ba trăm năm sau khi Tiểu Thanh ra đi, trong tâm trí của Nguyễn Du, tình cảm xót xa vẫn hiện hữu khi nhìn thấy cảnh đời đầy tang thương này:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
(Trong lòng gò hoang, Tây Hồ biến thành đất hoang,)
Câu thơ gợi lên hình ảnh cảnh đẹp đã chuyển biến thành hoang tàn, chỉ còn lại những di tích tàn phá. Trên gò hoang ấy, có lẽ đã chôn vùi những hài cốt tan tác của Tiểu Thanh. Tác giả không chỉ muốn diễn đạt về cảnh đẹp mà còn muốn nói về số phận bi thảm của những người đã từng sống ở đó, đặc biệt là Tiểu Thanh. Cuộc đời cô gái tài sắc này đã kết thúc trong bi kịch, chỉ còn lại những câu chuyện và huyền thoại về nàng. Điều này khiến tình cảm trở nên sâu sắc hơn. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước hình ảnh của một cuộc sống không hạnh phúc:
Thổn thức bên bờ sông, chỉ còn lại mảnh giấy lụa đục.
(Thổn thức bên bờ sông, chỉ còn lại mảnh giấy lụa đục.)
Tiểu Thanh đã biểu đạt tâm trạng của mình qua những bài thơ như thế nào?
Chắc chắn là sự đau khổ cho số phận, nỗi thương tiếc cho cuộc đời đầy khổ đau, và hơn hết là nỗi đau của tình yêu không được đáp lại. Tiếng lòng của Tiểu Thanh cùng như tiếng lòng của Nguyễn Du, tạo nên một cảm xúc mãnh liệt. Nhà thơ khóc lấy Tiểu Thanh tài sắc bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc lấy chính mình - kẻ sống trong thế giới đầy gian nan và bi thương.
Nguyễn Du cảm thấy như linh hồn của Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn ở đây. Nàng qua đời lúc mới mười tám tuổi, trong cô đơn và đau khổ. Làm thế nào để tiêu tan đi oan hồn của nàng?
Sắc đẹp vẫn tồn tại mãi mặc cho thời gian,
Văn chương là vẻ đẹp tinh thần vĩnh cửu:
(Sắc đẹp vẫn tồn tại mãi mặc cho thời gian,
Văn chương là vẻ đẹp tinh thần vĩnh cửu:)
Ba trăm năm đã trôi qua nhưng tất cả vẫn còn đọng lại. Sắc đẹp, đặc biệt là của phụ nữ, như Tiểu Thanh, vẫn tồn tại mãi mãi giống như linh hồn. Sắc đẹp có một sức mạnh vô hình, sống mãi trong lòng người như Tây Thi, Dương Quý Phi vẫn được nhớ mãi. Nỗi hận của sắc đẹp cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của cái đẹp bị hủy hoại, bị bóp méo. Mặc dù có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng sắc đẹp vẫn để lại dấu vết, để tồn tại đến mãi mãi, gây ra nỗi tiếc nuối.
Văn chương là tài năng của Tiểu Thanh và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời. Văn chương không biến mất như con người, không có sự sống chết. Tuy vậy, nó vẫn như có linh hồn, có cảm xúc, có ý chí đấu tranh chống lại sự phá hủy, để lại lời nhắn nhủ cho thế hệ sau. Dù có bị đốt cháy, bị hủy hoại, những gì còn sót lại vẫn làm cho người ta cảm thông, tiếc nuối. Nhà thơ đã thay đổi số phận của sắc đẹp và văn chương, để chúng vẫn sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thể hiện sự uất hận vĩnh viễn của nàng. Hai câu thơ đầy ý nghĩa, cay đắng, như một tiếng than thở sâu lắng, đầy xúc động.
Chúng ta đến với hai câu luận:
Mối hận cổ kim đầy thiên nan vấn,
Phong vận kì oan tự cư lấy.
(Nỗi oán hờn sâu thẳm như kim cổ vô lí,
Trách móc số phận vẫn phải tự chịu.)
Nhà thơ tiếp tục thể hiện lòng thương cảm sâu sắc. Câu thơ 'mối hận cổ kim đầy thiên nan vấn' biểu hiện sự tuyệt vọng. Từ nỗi oán nhỏ nhặt dành cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi oán thường truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác của giới tài năng. Liệu tài năng và số mệnh có phải là luật lệ bất khả biến đổi của vũ trụ? Là số phận rõ ràng và khắc nghiệt? Nếu đúng như vậy, thì nguyên nhân là gì? Trải qua hàng nghìn năm, nỗi oán này đã tích tụ thành một trọng lượng lớn mà không ai có thể trả lời được (thiên nan vấn). Do đó, nó càng khiến ta cảm thấy tức giận, đầy oán trách.
Phong vận trong câu thứ sáu không chỉ đề cập đến sự phong lưu về vật chất mà còn là sự phong lưu trong tinh thần. Nói cách khác, đó là về tâm hồn, về tài năng của những người tài hoa. Những con người tài hoa là tinh hoa của thế giới, nhưng tại sao số phận của họ lại đầy gian nan, đau khổ như vậy? Nguyễn Du đã từng viết: 'Chữ tài gắn liền với chữ tai một vần.' Do đó, sự phong lưu đã trở thành án phận khổ nặng mà người tài hoa phải gánh chịu suốt đời. Điều đáng tiếc là, mặc dù biết điều đó, nhưng bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự ý chịu đựng nó. Nguyễn Du đã lồng ghép bản thân vào Tiểu Thanh để thể hiện những điều mà qua bao đời vẫn còn là nguồn băn khoăn, đau khổ.
Càng suy ngẫm, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương tâm phận của mình. Từ việc thương người, ông chuyển sang thương bản thân:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi sâu lắng thể hiện sự suy tư của Nguyễn Du cũng như hy vọng rằng người đời sau sẽ cảm thông và chia sẻ với số phận của mình. Ba trăm năm có thể được hiểu là một khoảng thời gian rất dài. Ý của Nguyễn Du là bây giờ, khi một mình anh khóc cho nàng, anh coi nỗi oán của nàng là của mình. Liệu trong tương lai, có ai khác sẽ mang nỗi oán như anh và khóc cho anh không? Câu thơ thể hiện sự cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy ai đồng cảm ở hiện tại, nên ông đặt hi vọng vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho Tố Như mà còn khóc cho bao kiếp tài năng khác.
Nhà thơ cảm thấy rằng giữa mình và Tiểu Thanh có những điểm chung. Khi Tiểu Thanh mất, ba trăm năm sau đó, có Nguyễn Du thương tiếc cho số phận của nàng. Sau khi Tố Như qua đời ba trăm năm, liệu có ai nhớ đến ông mà khóc lóc cho anh không? Câu thơ giống như tiếng khóc đau lòng cho số phận của mình, thương mình cô đơn, không ai chia sẻ, một mình ôm mối oán của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cuộc sống. Dường như nhà thơ đang cảm nhận những cảm xúc của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh mộng sau say, lúc tăm tối tột, Giật mình, ta lại thương mình xót xa.
Bắt đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương bản thân. Tứ thơ không có gì lạ bởi ở đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.
Bài thơ thể hiện niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông không ngừng ! Nó không bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người sống mà còn thương cả người đã ra đi mấy trăm năm. Thương người, thương bản thân, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Cuộc đời hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy cảm trước nỗi đau lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
Giá trị nhân đạo trong bài Độc Tiểu Thanh kí - Mẫu 2
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho thế hệ sau một lượng lớn bài thơ, trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ ' Độc tiểu thanh kí', bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.
Theo truyền thống, Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc tài năng và xinh đẹp, sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông minh, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô kết hôn với một người quyền quý. Vì sự ghen tuông của vợ cả, cô phải sống một mình trên núi Cô Sơn, gần Tây Hồ. Sống trong cô đơn và đau khổ, Tiêu Thanh mắc bệnh và qua đời ở tuổi 18. Thương hại cho thân phận của người con gái tài hoa bạc mệnh, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ này. Bắt đầu bài thơ với hai câu đề, đã như tiếng trào dâng tâm hồn của Tiểu Thanh
Tây Hồ nay đã trở thành hoang tàn
Một mảnh giấy tàn hiện trước ngõ đầu
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa thành gò hoang
Thổn thức bên bờ sông mảnh giấy tàn)
Câu thơ không mô tả vẻ đẹp của Tây Hồ mà muốn diễn đạt ý nghĩa sâu xa về sự thay đổi trong cuộc sống. Tây Hồ từng được biết đến là một điểm đẹp nhưng với cuộc đời của Tiểu Thanh, nó trở thành một cảnh hoang tàn. Dưới gò hoang ấy, Tiểu Thanh trở thành một mảnh giấy tàn trên bờ sông.
Trong không gian hoang tàn ấy, con người hiện lên với hình ảnh cô đơn của 'độc điếu'. Hai khung cảnh 'gò hoang' và 'mảnh giấy tàn' khiến nhà thơ cảm thấy 'thổn thức bên bờ sông'. Hai dòng đầu chỉ là giới thiệu, nhưng ở hai dòng sau, nhà thơ đã làm rõ hơn cảm xúc buồn thương trong hai câu đề.
Son phấn vẫn tồn tại sau bao năm tháng
Văn chương vẫn sống sót qua thời gian
(Dù son phấn đã được chôn vùi nhưng nỗi hận vẫn còn)
Văn chương dù bị đốt cháy nhưng vẫn còn vương mãi)
Nhà thơ sử dụng hình ảnh 'son phấn' và 'văn chương' để ám chỉ đến Tiểu Thanh. Suốt cuộc đời, nàng chỉ biết làm quen với son phấn và văn chương để xua tan những nỗi buồn, đau đớn. Mặc dù nàng đã khuất nhưng linh hồn nàng vẫn chưa được giải thoát, vẫn đeo bám một nỗi 'hận' trần thế. 'Hận' về sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy nàng vào cõi chết khi mới 18 tuổi, và 'hận' về việc những tác phẩm văn chương của nàng bị đốt cháy, nhưng vẫn còn lại một ít để vương mãi.
Dù đã khuất nhưng linh hồn nàng vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn ôm một nỗi 'hận' trần thế. 'Hận' về sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy nàng vào cái chết khi mới 18 tuổi, và 'hận' về việc những tác phẩm văn chương của nàng bị đốt cháy, nhưng vẫn còn lại một ít để vương mãi. Từ số phận bi thảm của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tóm tắt cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến trong hai câu luận sau:
Những nỗi hận từ quá khứ sẽ không ngừng tồn tại
Mỗi người tự ôm gánh 'án phong vận')
(Những nỗi hận từ quá khứ sẽ không ngừng tồn tại
Mỗi người tự ôm gánh 'án phong vận')
Dường như nỗi oán trách của Tiểu Thanh không chỉ thuộc về riêng nàng mà là một sự án, một cái kết thúc chung của những con người 'tài hoa bạc mệnh' từ thời 'cổ' đến thời 'kim'. Nhà thơ sử dụng từ 'hận sự' như muốn nhắc đến một sự oán giận suốt đời, không bao giờ có thể quên. Họ có tài, có sắc nhưng không thể tìm thấy sự bình yên, hạnh phúc trong cuộc sống. Đọc những dòng thơ này, người đọc sẽ nhớ đến hình ảnh nàng Kiều của Nguyễn Du. Đó là số phận sinh ra trong xã hội phong kiến, tài sắc không kém ai nhưng cuộc đời lại đầy sóng gió, bạc mệnh tràn đầy. Nguyễn Du đã viết 2 dòng thơ đau xót, đầy xót xa:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Những oan khuất của hàng nghìn đời chỉ có trời mới hiểu 'trời khôn hỏi', nhưng dù có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong xã hội thời đó phải 'tự mang'. Hai dòng thơ này thể hiện sự thương xót đối với con người, nhưng cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của Nguyễn Du, chủ nghĩa nhân đạo và cái nhìn sâu sắc của ông. Kết thúc bài thơ bằng hai dòng suy tư, cảm xúc của nhà thơ về thời cuộc, xã hội:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
Rơi lệ cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng cảm với suy nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự đặt câu hỏi, hoài nghi về tương lai. Một câu hỏi đầy xót xa, liệu ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn được Nguyễn Du thương nhớ nhưng liệu ba trăm năm sau có còn 'ai khóc Tố Như chăng'. Con người khi đó liệu có nhớ hay đã quên ông, câu hỏi này xoáy sâu vào tâm trí của độc giả. Câu thơ như lên tiếng về nỗi bi thương của nhà thơ trước thời cuộc, khóc thương người, nhưng cũng khóc thương chính mình.
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta ai cũng biết, ai cũng ghi nhớ Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một biểu tượng không thể phủ nhận của văn học Việt Nam bởi những tác phẩm vĩ đại mang giá trị cao đã và đang được truyền bá cho thế hệ mai sau.
“Độc Tiểu Thanh ký” gợi lại những cảm xúc sâu sắc về số phận bất hạnh của những con người tài năng nhưng đầy đau khổ. Đồng thời, tác giả cũng phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã thúc đẩy con người vào bước đường cùng, bóp méo nhân phẩm và quên lãng những giá trị mà họ đã truyền lại cho thế hệ sau này.
Cảm hứng nhân đạo trong Đọc Tiểu Thanh kí - Mẫu 3
Sự thương xót, lòng đồng cảm với số phận không hạnh phúc của phụ nữ là một chủ đề rất nhân văn trong văn học dân gian, tiếp tục được truyền bá trong văn học trung đại, trong đó, Nguyễn Du là một ví dụ. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm sâu xa đối với phụ nữ hồng nhan, tài sắc nhưng đầy bất hạnh. Chủ đề này cũng được đề cập lại trong tác phẩm chữ Hán của ông, trong đó có bài “Độc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ thể hiện sự thương cảm, lòng trắc ẩn trước số phận của những phụ nữ tài năng phải chịu đựng sự bất công và đau khổ. Nhà thơ bày tỏ sự phẫn nộ, lời lên án đối với chế độ phong kiến tàn ác, không nhân đạo, đã bóp méo và vùi dập cái đẹp và cái tài.
Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, lớn lao, sâu sắc (mở rộng đối tượng cảm thương, không chỉ là những người phụ nữ bình dân lam lũ, bé nhỏ, bị phụ thuộc như trong ca dao mà còn thương thân phận những người phụ nữ xuất thân trong những gia đình quyền quý, có tài, có sắc song phải chịu số phận trớ trêu; không chỉ thương người mà còn thương mình).
Tiểu Thanh ban đầu là người tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu thời Minh, làm vợ của một thương gia trong dòng họ Phùng, nhưng vợ cả ghen tỵ nên buộc nàng phải lên ở một ngôi nhà trên núi Cô Sơn (bên cạnh Tây Hồ - một thắng cảnh đẹp ở Trung Quốc). Buồn bã, nàng ra đi lúc mới 18 tuổi. Mặc dù để lại một tập thơ, nhưng bị vợ cả đốt cháy, chỉ còn lại một số bài (phần dư còn sót lại). Ba trăm năm sau, khi đọc phần còn sót lại của Tiểu Thanh, Nguyễn Du chứng tỏ lòng thương cảm, đồng cảm với số phận bất hạnh của nàng. Thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với Tiểu Thanh, với cuộc sống của một người tài hoa bạc mệnh và cũng tự cho mình, Nguyễn Du viết:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
“Hoa uyển”: Vườn hoa (Vườn hoa Tây Hồ: một cảnh đẹp cụ thể, chung chung). Tẫn: đến cùng, triệt để, hết ⇒ nhẹ hóa đi chưa lột tả hết được sự biến đổi khắc nghiệt của thời gian. Tác giải xót xa, thương cảm cho cuộc đời và số phận Tiểu Thanh xuất phát từ cội nguồn cảm hứng: “nhất chỉ thư”; đi đến sự đồng cảm mãnh liệt: Vườn hoa tươi đẹp thành gò bãi tiêu điều hoang phế. Có một gặp gỡ tình cờ qua trang sách “một lòng đau đến với một lòng đau” (Xuân Diệu)
Câu thơ gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ nay đã trở thành bãi đất hoang, đồng thời thể hiện nỗi xót xa của Nguyễn Du trước sự thay đổi, sự hủy hoại của thời gian đối với cái đẹp. Tuy cô đơn nhưng tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh.
Cảm xúc trước sự thay đổi của xã hội thường làm cho thơ văn thời Nguyễn Du trầm trồ. Nguyễn Gia Thiều đã thốt lên trước hình ảnh 'bãi bể nương dâu' trong 'Cung oán ngâm khúc', Bà Huyện Thanh Quan cũng thầm than trước 'nền cũ lâu đài bóng tịch dương' (Thăng Long thành hoài cổ). Nguyễn Du chính mình cũng rùng mình khi phải trải qua 'một cuộc bể dâu' (Truyện Kiều). Vì vậy, câu thơ ở đây, Nguyễn Du không chỉ khóc cho cảnh Tây Hồ cụ thể mà còn khóc cho cuộc sống luôn biến đổi, tàn tạ.
Từ những gì còn sót lại, tác giả khám phá cuộc đời của Tiểu Thanh:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
“Son phấn” đại diện cho Sắc đẹp. Tác giả tôn vinh vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Hình ảnh này làm nổi bật Tiểu Thanh - một người phụ nữ với vẻ đẹp tự nhiên. Tiểu Thanh, dù đã qua đời nhưng vẫn chưa được an nghỉ, thậm chí tập thơ của nàng cũng bị đốt cháy.
“Văn chương” biểu hiện cho tài năng, trí tuệ của Tiểu Thanh. Tài năng văn chương không thể tránh khỏi số phận bi đát, không kể tội tình nào cũng bị hủy hoại. Tài năng và vẻ đẹp của Tiểu Thanh đều chìm vào quên lãng và hủy diệt (vẻ đẹp bị chôn vùi, tài năng bị hủy diệt).
“Chôn”, “đốt” là những hành động cụ thể biểu hiện sự đố kỵ, sự đàn áp tàn nhẫn từ người vợ cả đối với Tiểu Thanh. Nhà thơ thể hiện quan điểm của xã hội phong kiến không dung thứ cho những người tài năng.
Câu thơ đưa ra hình ảnh nước mắt của Nguyễn Du từ Tiểu Thanh đến Kiều, Đạm Tiên, kể đến những bi kịch của ca nữ La Thành, người thợ đàn Long Thành, gợi lên biển đau trong lòng người nghệ sĩ.
Giọng thơ mang tính chất đau đớn và oán trách. Tác giả thương tiếc cho Tiểu Thanh – người tài năng nhưng bất hạnh; oán trách những người gây ra điều đó, đặc biệt là người vợ cả; oán trách xã hội không đề cao tài năng và vẻ đẹp con người.
Từ sự đồng cảm, nhà thơ rút ra triết lý về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài năng và bất hạnh thường đi đôi với nhau, hồng nhan và bi kịch đan xen… Sự vẻ đẹp và tài năng thường bị lấn át. Đồng thời, nhà thơ ca ngợi và khẳng định giá trị vĩnh hằng của cái đẹp và tài năng (“vẫn hận, còn vương”). Tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du thể hiện rõ qua sự đau đớn vì những người vì sắc vì tài mà gặp nạn:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
“Hận những ghi ân” là dòng nước oán hận lịch sử, lan tỏa qua thời gian, kế thừa từng đời. Đây là oán hận của những tài hoa mà bạc mệnh. Sự oán hận đó không chỉ thuộc về Tiểu Thanh và Nguyễn Du mà còn thuộc về tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Họ luôn bị bóp méo, bị vùi dập. Số phận của Tiểu Thanh trở thành bi kịch của mọi thế hệ, nỗi oán hận ấy trở nên ghê gớm, khiến câu thơ trở nên đầy ám ảnh: cả chuyện xưa và nay.
“Vấn đề không lời giải” là sự bất lực, khó mà tìm ra câu trả lời vì đó là một sự thật, đã trở thành quy luật mà chưa có câu trả lời cho sự vô lí đó. Giọng oán trách, bất bình khi nhà thơ nhận ra sự bóp méo tài năng và vẻ đẹp trong xã hội phong kiến. Tác giả đau đớn, phẫn uất trước sự vô lí: Người có nhan sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô đơn.
“Kì oan” là sự phi lý, lạ lùng. Nỗi oan hận do “nết đẹp” gây ra. Bị oan hận vì “nết đẹp” là một điều không thể hiểu, làm ngược lại với quy luật của cuộc sống.
Sự đồng cảm, đồng điệu: xem mình như “cùng chung tàu”, cùng số phận và bi kịch (bị vùi dập, cô đơn…). Khóc cho cuộc đời dẫu nhiều đau thương. Khóc thương Tiểu Thanh tài hoa mà bị đày đọa, phải chết oan ức. Khóc cho bản thân vì bị cuộc sống xoay vần, phải sống trong cô đơn không ai chia sẻ. Khóc cho những số phận tài hoa bị chôn vùi…
Từ sự thương người, ý thơ đột ngột chuyển sang thương mình. Điều này đột ngột nhưng vẫn hợp lý bởi cả Tiểu Thanh và Nguyễn Du đều là những tài hoa bạc mệnh:
Một khi đã mất, nghìn năm sau còn đau lòng
Thế gian có ai cảm thấy đau lòng vì Tiểu Thanh?
Nguyễn Du khóc lên cho Tiểu Thanh và cũng đặt ra câu hỏi cho bản thân: Tình cảm, lòng trắc ẩn, cảm xúc chia sẻ không thể kiềm nén. Đó là nỗi cô đơn của người nghệ sĩ lớn “Giọt lệ của con chim lẻn trên bầu trời thu khuya” (Xuân Diệu).
Câu thơ thể hiện sự lo lắng của tác giả: Liệu đời sau có ai “khóc” cùng mình không? “Khóc” ở đây là sự đồng cảm, chia sẻ, tri âm. Nhà thơ hi vọng rằng đời sau sẽ đồng cảm và chia sẻ với mình. Lời thơ đề cập đến nỗi cô đơn, sự bơ vơ của tác giả trong lòng mong chờ tri âm tri kỉ. Vì hiện tại, nhà thơ chưa tìm thấy ai đồng cảm, chỉ có thể đặt niềm hy vọng vào tương lai.
Thương cảm cho số phận của những người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh là đề tài lớn, phủ sóng, tồn tại trong sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh kí). Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lo lắng: “tài năng và số mệnh đều không dễ sống” thì ở đây ta cũng thấy xã hội phong kiến thối nát, thù hận, đối nghịch với tài năng, phẩm giá của con người. Chính vì vậy, nhà thơ vĩ đại mới cảm thấy cô đơn, hoang mang trong xã hội ấy.
Bài thơ phản ánh, phê phán xã hội phong kiến bất công, thiếu nhân đạo thời đại, đã chôn vùi cái tài, cái đẹp. Không chỉ riêng Nguyễn Du, tư tưởng nhân đạo luôn là đề tài lớn trong thơ ca xưa và nay (Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị,…). Đây là vấn đề sâu sắc, lớn lao, không biên giới không gian và thời gian… Và không cần phải đợi ba trăm năm, nhân kỷ niệm hai trăm năm ngày sinh của Nguyễn Du, Tố Hữu đã viết bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du” thể hiện sự đồng cảm sâu sắc và tôn trọng tài năng thơ của Nguyễn Du:
“Tiếng thơ ngân động trời đất
Nghe như tiếng non nước hòa mình vào muôn thu
Nghìn năm sau vẫn nhớ về Nguyễn Du
Âm thanh như giọng mẹ ru suốt những ngày”.
(Gửi lời tôn kính đến Nguyễn Du – Tố Hữu)
Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” không chỉ là sự đồng cảm của tác giả với số phận của Tiểu Thanh và những người tài năng bị định mệnh che phủ, mà còn là sự thổ lộ sâu thẳm của nhà thơ. Thông qua đó, ta nhận thấy Nguyễn Du là một nghệ sĩ có trái tim nhân đạo, tràn đầy tình yêu thương, tôn trọng tài năng và vẻ đẹp của con người. Ngôn từ thơ mộng, phong phú, tràn ngập hình ảnh, mang lại giá trị biểu cảm cao, thể hiện rõ tài năng nghệ thuật vĩ đại của Nguyễn Du.
Sự truyền cảm nhận đạo trong Độc Tiểu Thanh kí - Mẫu 4
Đại thi hào Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ có lòng nhân đạo và hiện thực lớn của văn học trung đại Việt Nam, tác phẩm của ông tập trung vào việc thể hiện số phận đau khổ của những người sống trong xã hội phong kiến với những bất công, nỗi đau thương. Đề tài về những con người tài hoa bị số phận xui khiến, ngoài việc được thể hiện trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đề cập đến nó trong 'Độc Tiểu Thanh kí'.
Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du được viết trong một chuyến đi sứ Trung Quốc. Bài thơ thể hiện sự đau xót, thương cảm của Nguyễn Du đối với Tiểu Thanh. Tiểu Thanh, một cô gái có tài năng và sắc đẹp, sống vào đầu thời Minh (Trung Quốc). Năm 16 tuổi, nàng kết hôn với người họ Phùng. Ghen ghét của vợ cả khiến nàng phải sống cô đơn trên núi Cô Sơn gần Tây Hồ và qua đời ở tuổi 18. Nguyễn Du đã sáng tác sau khi viếng mộ nàng, biết về cuộc đời bất hạnh của nàng. Đọc những vần thơ còn lại của Tiểu Thanh, Nguyễn Du cảm thấy xót xa, thương tiếc cho số phận của nàng. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du viết:
Tây Hồ dần trở thành nơi hoang vu,
Một mảnh giấy bên bờ vẫn còn vương đau thương.
(Tây Hồ từng là cảnh đẹp như thiên đường,
Nhưng giờ đây chỉ còn lại mảnh giấy đau thương bên bờ sông)
Hai dòng đầu tiên của bài thơ mô tả cảnh Tây Hồ. Đó là sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại của cảnh quan. Vẻ đẹp xưa đã tan biến, chỉ còn lại sự hoang vu, hiu quạnh và tối tăm. Nơi đây trước kia là khu vườn thơm ngát, tươi đẹp nhưng hiện tại chỉ là một bãi đất hoang vắng. Qua đó, chúng ta thấy sự tàn phá của thời gian. Khu vườn đó từng là nơi Tiểu Thanh sống, nhưng cũng là nơi nàng chôn vùi tuổi thanh xuân. Trong nỗi đau đớn, nàng truyền đạt nỗi đau ấy qua những dòng thơ. Đau thương của Tiểu Thanh khiến Nguyễn Du phải thổn thức khi đọc những phần thơ còn sót lại, phải đau xót cho số phận của nàng. Qua hai dòng thơ, chúng ta cảm nhận được sự đồng cảm của một linh hồn cô đơn với một cuộc sống đơn độc giữa thế gian. Đó là sự giao cảm giữa con người và thiên nhiên, giữa tâm hồn và cảnh vật. Hai dòng thơ này là biểu hiện của sự tiếc thương vô tận đối với vẻ đẹp và tài năng của nàng:
Sắc đẹp và tài năng, dù thiên tử đã ban cho
Nhưng tài năng không thể tránh khỏi số phận bi đát.
(Son phấn ẩn chứa nỗi oán trách vẫn tồn tại,
Văn chương vẫn còn lưu vương dù đã bị đốt)
Trong hai dòng thơ này, Nguyễn Du nhắc đến vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Nàng là một người tài sắc hoàn hảo nhưng định mệnh yếu đuối. Son phấn - ẩn chứa oán trách vẫn còn, văn chương - vẫn tồn tại dù đã bị phá hủy, liệu rằng số phận của những người phụ nữ tài sắc có ngắn ngủi như thế. Việc bị 'chôn, đốt' này có thể là sự ám hại, ghen ghét, và đố kị của những người phụ nữ khác với những người đẹp và tài năng. Mở rộng ra, đó cũng là sự ghen ghét của xã hội phong kiến đối với những người như Tiểu Thanh. Từ đây, chúng ta thấy được quan điểm về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, vẻ đẹp phải chịu sự hủy hoại. Tuy nhiên, dù bị hủy hoại thế nào, nó vẫn tồn tại mãi mãi theo thời gian: vẻ đẹp ẩn chứa oán trách vẫn tồn tại, văn chương dù bị đốt vẫn tiếp tục tồn tại đến sau này. Hai dòng thơ này đã làm cho chúng ta hiểu được giá trị nhân đạo sâu sắc trong thơ của Nguyễn Du: luôn cảm thấy tiếc nuối, đồng cảm với những người phụ nữ vì vẻ đẹp, tài năng của họ bị hủy hoại.
Kiếp người bất hạnh gặp số phận khó khăn,
Định mệnh không ai đoán được tự gánh chịu.
(Nỗi oán từ lâu không thể hiểu được,
Án phong là do chính bản thân tự gánh)
Trong hai dòng thơ này, Nguyễn Du khẳng định rằng nỗi oán từ quá khứ không thể hiểu được, đó là nỗi oán của những người có tài năng nhưng bạc mệnh. Đó là nỗi oán truyền kiếp, cũng như sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với Tiểu Thanh: phải chịu nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
Đời người từ xa xưa đã biết
Điều bạc mệnh có lẽ không tha ai
(Truyện Kiều)
Hai câu thơ này thể hiện sự phẫn uất sâu sắc đến 'thiên nan vấn' - khó có thể hỏi trời được. Nỗi hận đó không chỉ của riêng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà còn của tất cả những bậc nhân tài trong xã hội phong kiến. Câu thơ này truyền tải đau đớn trước một thực tế vô lý: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô đơn. Có lẽ, chính nhờ vào điều đó mà thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ của tài tử và giai nhân. Tác giả thực sự cảm thông với người con gái bạc mệnh, để tự nhận mình cũng mắc chung một nỗi oan khiên như nàng vì nết phong nhã. Đó là nỗi đau, là tiếng khóc thương trước những nghịch lý và trái ngang của cuộc đời. Kết thúc bài thơ, Nguyễn Du đã bật ra tiếng khóc thương bằng một câu hỏi tu từ:
Không biết sau ba trăm năm nữa,
Người đời có ai khóc cho Tố Như chăng?
(Chẳng biết sau ba trăm năm nữa,
Người đời có ai khóc cho Tố Như chăng?)
Tiếng khóc thương này là tiếng khóc của một tài năng thương cho số phận của những hồng nhan đa truân. Đây là kết quả của sự dồn nén cảm xúc của tác giả. Nguyễn Du khóc thương cho số phận của Tiểu Thanh, nhưng lại lo lắng cho số phận của chính mình. Tiểu Thanh bạc mệnh, nhưng sau ba trăm năm này liệu có ai khóc thương cho Nguyễn Du không? Đó chính là nỗi thương cảm của một tài năng khóc thương một tài năng và cho chính mình, đó là tiếng khóc của một cánh chim cô đơn, nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu).
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, đó là nỗi niềm của một tài năng trước sự vùi dập của xã hội phong kiến. Sự đồng cảm với số phận của Tiểu Thanh trong bài thơ cũng chính là những xót xa của Nguyễn Du suy tư về số phận bất hạnh, oan trái của người phụ nữ có tài sắc. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc trong thơ văn Nguyễn Du.
Cảm hứng nhân đạo trong Độc Tiểu Thanh kí - Mẫu 5
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm. Bày tỏ những sự day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ “Đọc tiểu Thanh kí” những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người bạc mệnh và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” là nạn nhân của cái quy luật “Hồng nhan đa truân”. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái kiếp số bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long thành...Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la của ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh-một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ về tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồi khi đang trong độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỉ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật:
'Tây Hồ nay đã hoá thành gò hoang
Bên sông chỉ còn mảnh giấy tàn'
Trong bản gốc, Nguyễn Du sử dụng từ 'tận' như muốn xoá sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, nhấn mạnh sự hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Tây Hồ đẹp đã trở thành gò hoang, nhưng đó cũng là ký ức cuối cùng của Tiểu Thanh, chỉ là mảnh giấy tàn, là phần còn sót lại. Nhưng chỉ một điều nhỏ nhặt đó cũng đủ khiến nhà thơ một mình thương cảm, xót xa và khóc cho cuộc đời hồng nhan. Tiểu Thanh, Kiều, hay những ca nữ đất Long thành, ai cũng phải chịu đựng số phận khốn khổ.
'Rằng: Từ thuở xưa, hồng nhan
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu'
Tài năng và sắc đẹp của họ được ca tụng nhưng lại bị bạc mệnh đày đọa, chà đạp. Nguyễn Du với lòng nhân đạo sâu sắc đã thể hiện sự đồng cảm, xót thương chân thành với số phận của Tiểu Thanh. Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Người mà ông thương cảm không chỉ là những người nghèo đau khổ mà còn là những người tài hoa.
'Son phấn ẩn chứa tâm hồn sau cùng
Văn chương không mệnh chỉ còn phần còn lại'
Nhà thơ sử dụng hai khái niệm 'son phấn' và 'văn chương' để diễn đạt những cảm xúc đau đớn, dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh qua những dòng thơ. 'Son phấn' - biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ, nhấn mạnh sự phụ thuộc vào vật chất. Cả hai câu thơ nhắc lại bi kịch trong cuộc sống của Tiểu Thanh, một cuộc sống chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương để giảm bớt bất hạnh. Sự nhân cách hóa vật thể thể hiện cảm xúc xót xa của nhà thơ về bất hạnh của con người qua số phận của Tiểu Thanh. Bi thảm của Tiểu Thanh bắt nguồn từ sự ghen tuông và đố kỵ tài năng của người khác. Nguyễn Du thể hiện sự tàn nhẫn của xã hội trước những người tài hoa thông qua hai câu thơ này. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự nhạy cảm trước cuộc sống của những người tài năng, gắn với quan niệm 'tài mệnh tương đố' của Nho giáo.
Cuộc sống của Tiểu Thanh tạo ra mối hận lâu dài, là điểm mà Nguyễn Du nhấn mạnh trong hai câu thơ:
'Nỗi hận kim cổ trời không thấu
Án phong lưu khách tự gánh mang'
Mối hận sâu kín đó không thể hiểu được bởi trời đất, chỉ có những người đồng cảm mới có thể chia sẻ. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc phải nỗi oan này vì nét phong nhã và tài năng của mình. Sự đồng cảm của ông với Tiểu Thanh xuất phát từ việc ông cũng là người đồng cảnh. Điều này làm cho lòng thương người của Nguyễn Du trở nên chân thành và sâu sắc hơn.
'Không biết ba trăm năm sau
Người đời có ai khóc Tiểu Thanh?'
Tình thương mà Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh là biểu hiện của tình cảm đồng điệu giữa họ, dù họ ở hai thế giới khác nhau. Sự đau xót vì bản thân đồng thời là sự thấu hiểu và động viên cho người khác, tất cả đều được Nguyễn Du thể hiện qua giọt lệ của trái tim và suy tư sâu xa của mình. Một lần nữa, anh khóc cho Tiểu Thanh, để thấy được rằng tình tri âm tri kỷ không bao giờ phai mờ theo thời gian.
Việc tự nhận mình là 'Tố Như' không chỉ là mong muốn gìn giữ danh vọng qua thời gian mà còn là cách thể hiện tâm trạng sâu xa của một nhà thơ đối với cuộc sống hiện tại. Việc khóc cho người xưa cũng là cách để nhà thơ tự thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau của chính mình, khiến bóng hình của Nguyễn Du trở nên cô đơn và buồn bã trong dòng thơ. Những nỗi đau ấy khiến người đọc cảm thấy xót xa và suy tư về cuộc sống của những tài năng bị lạc trong xã hội.
'Độc Tiểu Thanh Kí' của Nguyễn Du là một tác phẩm thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo. Trong đó, ông không chỉ thắc mắc về những nỗi đau của con người mà còn chỉ ra nguyên nhân của chúng, đó chính là sự đàn áp từ những thế lực xã hội. Ông lên án mạnh mẽ hệ thống phong kiến bất công. Từ nỗi đau đó, Nguyễn Du tỏ ra vô lực, nhưng đồng thời lại thể hiện tâm hồn nhân đạo lớn lao.
Cảm hứng nhân đạo trong 'Độc Tiểu Thanh Kí'
Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, không chỉ nổi tiếng với 'Truyện Kiều' mà còn với bài thơ 'Độc Tiểu Thanh Kí'. Qua câu chuyện về Tiểu Thanh, Nguyễn Du cũng muốn kể về cuộc đời của chính mình, một cuộc sống bất hạnh nhưng cũng đầy tình người. Tác phẩm này không chỉ thể hiện tư tưởng nhân đạo mà còn làm xúc động lòng người bởi tình cảm cao cả của nhà thơ.
'Tây Hồ, hoa đẹp phô trương một cách lộng lẫy,
Một chiếc độc điếu xuất hiện trong bóng đêm.
Chiếc độc điếu kia kết nối những kẻ ghen tị và căm hận,
Văn chương vĩnh viễn giữ lại những gì còn sót lại.'
'Cổ kim vẫn khắc sâu trong lịch sử bi thảm,
Vận mệnh dường như bị oan khuất, tự tìm lối ra.
Một tâm hồn không thể giải thoát khỏi ba trăm năm sau này,
Liệu trên thế gian này còn ai nhớ đến Tố Như?'
Có thể Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ này khi đi đến Trung Quốc thăm mộ Tiểu Thanh và đọc tập thơ của nàng. Tiểu Thanh, một người con gái vừa tài năng vừa xinh đẹp, lại không may mắn khi gặp phải sự ghen tị và hành hạ từ vợ cả. Nỗi buồn của nàng đã kết thúc cuộc đời nàng khi mới 18 tuổi. Một phần của tập thơ của nàng đã bị phá hủy, nhưng phần còn lại đã ghi lại nỗi đau của nàng, và từ đó, Nguyễn Du đã viết nên những dòng thơ đầy cảm xúc này:
'Tây Hồ, hoa đẹp phô trương một cách lộng lẫy.'
Câu thơ đầu tiên mở ra một bức tranh đầy màu sắc. 'Tây Hồ, hoa đẹp phô trương một cách lộng lẫy' đối lập với 'một chiếc độc điếu nằm lặng trong đêm tối.' Bức tranh này thể hiện sự tương phản giữa vẻ đẹp tươi sáng và sự tĩnh lặng u buồn. Tác giả đã thông qua việc nhắc đến Tây Hồ để kể lại câu chuyện của Tiểu Thanh và những đau khổ mà nàng phải chịu đựng.
'Trong hàng trăm bức thư, độc nhất một chiếc điếu.'
Câu thơ thứ hai đưa ta đến với hai từ chính là 'độc' và 'nhất'. Nhà thơ ngồi bên cửa sổ, nhấn mạnh vào sự cô đơn khi đọc tập thơ của Tiểu Thanh. Cảm xúc trong văn chương của nàng cũng phản ánh nỗi đau và cô đơn giữa hai tâm hồn.
Qua hai câu thơ, tác giả đã thể hiện bài thơ như một tiếng thở dài trước sự biến động và khổ đau của cuộc sống tự nhiên. Dù cuộc sống đầy biến động, tác giả vẫn nhớ về nỗi đau của một tài năng bị bạc mệnh. Cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh luôn bị áp đặt:
'Hồng son màu cải kết nối những nỗi đau sau sự tan vỡ,
Văn chương mãi mãi giữ lại những gì còn sót lại.'
Nguyễn Du đã sử dụng từ 'hồng son' để tượng trưng cho vẻ đẹp và nỗi đau của Tiểu Thanh. 'Hồng son' đã gắn bó với cuộc đời và tâm hồn của nàng, cũng như nỗi đau mà nàng phải chịu đựng. Từ 'hữu thần' thể hiện sự liên kết giữa cuộc đời và văn chương của nàng, trong khi 'liên tử hận' là biểu hiện của cái chết oan ức của nàng. Một câu thơ đã khắc sâu bi kịch cuộc đời của Tiểu Thanh.