Phân tích bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt bao gồm 13 bài văn mẫu hữu ích kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Qua việc phân tích bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt, học sinh có thể chọn lựa cách tiếp cận và phong cách viết phù hợp với bản thân, từ đó nắm vững kiến thức và kỹ năng viết văn.
TOP 13 bài văn về bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt dưới đây được viết rất sắc sảo, dễ hiểu và hữu ích để tự học, nâng cao kiến thức. Điều này sẽ giúp học sinh cải thiện kỹ năng viết văn và chuẩn bị tốt hơn cho việc học môn Ngữ văn. Ngoài ra, để nâng cao kỹ năng viết văn, học sinh có thể tham khảo thêm các bài thuyết minh về tác phẩm Vợ Nhặt, phân tích nhân vật A Phủ và phân tích nhân vật bà cụ Tứ.
Nhận định về bữa ăn trong tình trạng đói
- Dàn ý chi tiết về bữa ăn trong tình trạng đói
- Phân tích về bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt
- Nhận định về bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt
- Phân tích ngắn gọn về bữa ăn trong tình trạng đói
- Phân tích về bữa ăn trong tình trạng đói
- Bữa ăn trong tình trạng đói của nhân vật trong Vợ Nhặt
Kế hoạch cảm nhận chi tiết về bữa ăn trong tình trạng đói
a. Bắt đầu:
- Tổng quan về tác giả Kim Lân và trình bày những yếu tố chính của tác phẩm Vợ nhặt.
- Phân tích ý nghĩa chi tiết về bữa ăn trong tình trạng đói trong tác phẩm: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, một trong những chi tiết ấn tượng và có ý nghĩa nhất là mô tả về bữa ăn ngày đói với việc xuất hiện của món cháo Cám.
b. Nội dung chính:
- Phân tích bữa cơm trong ngày đói:
- Bữa cơm này thực sự đáng thương, thiếu thốn với một ít rau chuối thái lủng lẳng, một đĩa muối ăn với cháo, và một niêu cháo lỏng lẻo.
- Món cháo cám trở thành món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ đã chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà.
- Hương vị của món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn đầy ứ nơi cổ họng.
- Ý nghĩa của bữa cơm ngày đói
c. Tóm lại:
- Khẳng định rằng đây là một chi tiết nghệ thuật quý giá.
- Thể hiện lòng tôn trọng của nhà văn Kim Lân đối với ước mơ sống một cuộc sống công bằng của những người nông dân nghèo.
.............
Phân tích về bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt
Vợ nhặt là một tác phẩm ngắn hiện thực xuất sắc của nhà văn Kim Lân, mô tả về nạn đói năm 1945. Qua anh chàng Tràng, bà cụ Tứ và chị vợ nhặt, Kim Lân không chỉ tái hiện sống động không khí u ám, khốc liệt của nạn đói mà còn vạch ra vẻ đẹp của lòng nhân ái và ý chí sống mạnh mẽ trong con người. Đặc biệt, thông qua chi tiết về bữa cơm ngày đói gần cuối truyện, người đọc càng cảm nhận sâu sắc giá trị đáng quý của những nhân vật này. Bởi: “Trong tình cảnh hiểm nghèo, gần như chạm ngưỡng tử vong, họ không từ bỏ hy vọng, tin tưởng vào tương lai. Họ muốn sống, sống để thể hiện bản người.”
Trong buổi sáng đầu tiên trở về nhà chồng, chị dâu nhặt cùng bà cụ Tứ lau chùi nhà cửa và chuẩn bị bữa cơm gia đình. Sự hiện diện của chị dâu nhặt như là một nguồn sinh khí mới cho ngôi nhà của mẹ và con Tràng. Ngôi nhà sơ sài, tan tác của mẹ và con Tràng trở nên gọn gàng, ngăn nắp, khu vườn nhỏ cũng được dọn dẹp sạch sẽ, tươi mới. Khuôn mặt u ám, bắt bợn của bà cụ Tứ cũng thay đổi hoàn toàn, anh Tràng cũng trở nên linh hoạt, sôi nổi hơn. Bầu không khí ấm áp, hòa hợp của tình thân đã khiến cho mọi người quên đi những cảnh đau khổ của nạn đói. Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, cảm giác đói thèm vẫn còn âm ỉ, đang đợi để đẩy con người đến bước đường cùng của sự bất lực và tuyệt vọng.
Bữa cơm đầu tiên khi gia đình có thêm một người con dâu mới cũng thật đặc biệt, không có “mâm cao rộng cỗ đầy” hay những món ăn đặc biệt mà chỉ đơn giản đến mức thảm hại “Trong mẹt rách chỉ có một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo..”. Chỉ với một vài nét mô tả, nhà văn Kim Lân đã tái hiện một cách chân thực mà không kém phần xót xa về tình hình thảm thương của con người trong nạn đói. Khi nạn đói lan rộng, con người bị đẩy đến bờ vực mong manh giữa sự sống và cái chết. Một niêu cháo lỏng bõng mà “mỗi người chỉ được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn” lại là nguồn sống cho cả gia đình bà Tứ trong thời gian đói khát. Sự thờ ơ, thiếu thốn của bữa cơm ngày đói khiến mọi người phải thương cảm.
Tuy nhiên, có thể nói Kim Lân đã rất tinh tế khi miêu tả chi tiết về bữa cơm ngày đói, không chỉ tái hiện được tình hình khó khăn của người nông dân nghèo trong thời kỳ đói kém mà còn thể hiện được giá trị nhân văn sâu sắc. Trong tình trạng khó khăn nhất, khi cuộc sống của con người trở nên mong manh, nhỏ bé thì các nhân vật trong truyện vẫn giữ được niềm tin và hướng tới một tương lai tươi sáng. Trong bữa ăn, bà Tứ nói chuyện vui vẻ, lạc quan về tương lai để động viên các con “Bà lão chỉ nói những điều vui vẻ, những điều tốt đẹp về tương lai: Khi nào có tiền, ta sẽ mua đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà đã có ngay đàn gà cho mà xem”. Có lẽ bà lão muốn truyền đạt hy vọng vào lòng các con để họ có thể yêu thương và cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tấm lòng của người mẹ cũng được thể hiện qua món quà cưới đặc biệt, bà Tứ “bật dậy chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút”. Món cháo cám được bà Tứ giới thiệu với giọng điệu hào hứng, phấn khởi “Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Dù gia đình đang nghèo khó và phải đối mặt với nạn đói, món quà cưới vẫn được bà Tứ chuẩn bị để làm cho các con bất ngờ. Ngay cả khi không khí trong bữa ăn bị trở nên trầm buồn với miếng cám đắng, nghẹn ngào ở cổ, bà Tứ vẫn cố gắng khích lệ các con “Miếng cháo đó, mày ạ. Xóm ta không còn thừa cám để ăn mà đã phải ăn cám”.
Có thể nói bữa cơm ngày đói đã phản ánh một cách rõ ràng hiện thực khốc liệt của nạn đói, khi con người phải ăn cả những thứ không phải là thức ăn để duy trì sự sống. Tuy nhiên, đằng sau sự thảm hại đó, ta vẫn cảm nhận được sự ấm áp và cao quý của tình người. Miếng cháo đắng, nghẹn ngào gợi ra một tình cảnh thảm hại nhưng cũng là tất cả tình yêu của bà Tứ dành cho các con. Vị đắng của miếng cháo cũng khơi dậy trong anh Tràng trách nhiệm với gia đình, cũng như miếng cháo đắng đó đã góp phần thể hiện được tình yêu, sự nhạy cảm và hy vọng về hạnh phúc gia đình của chị và con dâu.
Qua mô tả bữa cơm trong thời kỳ đói, nhà văn Kim Lân không chỉ lên án tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật mà còn thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị nhân bản của con người, như tình thương và khao khát hạnh phúc và sức sống mãnh liệt. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, dù đối mặt với nạn đói cùng những khó khăn, những con người vẫn giữ vững lòng lạc quan, hỗ trợ và cùng nhau hướng về một tương lai tươi sáng với niềm tin vững chắc.
Bữa cơm trong tác phẩm 'Vợ nhặt'
Trong cuốn truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã chia sẻ: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà họ nghĩ đến sự sống”. Đúng vậy, ngay cả khi đối mặt với ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, con người vẫn tìm kiếm hy vọng và hạnh phúc. Đoạn trích “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại... lá cờ đỏ bay phấp phới” đã đề cập đến cảm giác xót xa về cảnh nạn đói nhưng cũng phản ánh sự khao khát ánh sáng, hạnh phúc và tương lai của con người.
Con gái của Kim Lân đã viết về cha mình sau khi ông qua đời: “Trong suốt cuộc đời, thầy tôi mang theo nhiều ám ảnh”. Có thể là do nhà văn là con của vợ ba và mẹ là người dân xóm ngụ cư. Điều này giúp Kim Lân hiểu rõ hơn về cuộc sống ở quê hương. Vì thế, ông được biết đến như là một nhà văn của nông thôn Việt Nam. Tác phẩm “Vợ nhặt” dựa trên tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bản thảo đã bị mất. Sau khi hòa bình được thiết lập (năm 1954), một phần của cốt truyện đã được sử dụng để viết truyện ngắn này. Với tài năng xuất chúng, Kim Lân đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tác phẩm của mình.
Hình ảnh bữa cơm trong tác phẩm này xuất hiện ở phần cuối. Đây là bữa cơm đầu tiên mà bà cụ Tứ chuẩn bị để chào đón nàng dâu mới vào buổi sáng hôm sau, khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà. Hình ảnh này tái hiện một cách cụ thể cảnh tượng đáng thương của gia đình Tràng, thể hiện bức tranh sâu sắc về nạn đói của đất nước. Đây là bữa ăn đầu tiên để đón chào nàng dâu mới. Tuy nhiên, bà cụ Tứ không thể chuẩn bị một cách hoàn hảo, vì đầu tiên là để thực hiện lễ cúng gia tiên, mời họ hàng và sau đó để mừng cho hạnh phúc của các con. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại với chỉ một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối và một nồi cháo lỏng bõng. Đây là những món ăn quen thuộc của người nghèo, nhưng mỗi người chỉ được lưng lưng 2 bát, ba mẹ con đối mặt với nồi cháo cám. Chi tiết ấn tượng nhất trong bữa ăn này chính là nồi cháo cám. Có thể thấy nạn đói đã đẩy người dân ta vào cảnh phải ăn những thức ăn không dành cho con người. Dù vậy, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ ở cổ vẫn được coi là ngon đến mức xóm ta không có cám mà ăn. Trong tình hình đó, mọi người dù cố gắng đến đâu thì niềm vui vẫn không thể trọn vẹn. Ba mẹ con ngồi ăn trong tâm trạng đầy nỗi buồn, nỗi lo âu. Sự thảm hại của bữa cơm ngày đói càng trở nên nổi bật trong không khí căng thẳng với tiếng trống thúc thuế và hình ảnh của lá cờ đỏ phấp phới. Âm thanh và hình ảnh này gợi lên không khí tang thương đau đớn. Từ tiếng trống thúc thuế, ta cũng có thể thấy tình hình bất hòa trong bữa ăn, với hình ảnh của bọn thực dân phát xít và chính sách cai trị độc ác, cùng với tình trạng của hàng triệu đồng bào ta trong thảm họa này.
Tuy nhiên, bữa cơm ngày đói trong tác phẩm này không chỉ là một bữa cơm đơn thuần mà còn là biểu hiện của tình thương và lòng nhân ái. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam hiện lên rõ ràng nhất. Bữa ăn diễn ra trong không khí gia đình ấm áp, vợ chồng hòa thuận, mẹ con vui vẻ trò chuyện và suy nghĩ về tương lai. Không khí trong buổi ăn đã thể hiện sự lạc quan và hy vọng của người Việt Nam giữa khó khăn và nguy cơ. Bữa cơm ngày đói là cơ hội để hiểu thêm về triết lí dân gian và lòng kiên nhẫn, lạc quan của nhân dân Việt Nam.
Trong tiếng trống thúc thuế, thông điệp về sự phản kháng của Việt Minh đã mang lại hy vọng lớn lao cho nhân vật Tràng, đồng thời làm bùng cháy ý thức trách nhiệm xã hội. Cuộc trò chuyện về Việt Minh đã làm bộc lộ tâm trạng đầy hy vọng của Tràng về tương lai của đất nước. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ đã gợi lên tinh thần đấu tranh cách mạng trong tâm hồn Tràng và gia đình.
Tác giả đã viết với cảm xúc và suy tư sâu sắc, để hiểu và tôn trọng những khổ đau của nhân vật, cố gắng tìm kiếm những niềm vui và hy vọng cho họ.
Phân tích ngắn gọn về bữa cơm ngày đói
“Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc thể hiện hiện thực của thời kỳ đói khó năm 1945. Sự xây dựng chi tiết tinh tế đã làm cho tác phẩm trở nên đặc sắc, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc, đặc biệt là mô tả về bữa cơm ngày đói đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.
Dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng cũng đủ phản ánh thực tế cuộc sống mà cơn đói đang bao trùm toàn xã hội. Khác với cách đối xử của các gia đình khi đón con dâu mới về nhà với bữa cơm tươi ngon đầy đủ món, thì ở gia đình bà cụ Tứ: “Giữa mẹ rách… cháo muối”. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả chi tiết bữa cơm đó để gợi lên một xã hội mà nạn đói hoành hành đã cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người. Những người nông dân nghèo khổ ấy đang phải vật lộn, chiến đấu với tử thần để giành lại sự sống. Tuy nhiên, trong khả năng của mình, bà Tư đã nấu món sang nhất cho con dâu: cháo cám. Người mẹ chồng ấy đã không nỡ bỏ bữa ăn đầu tiên của con dâu khi ở nhờ nhà mình vì quá nghèo. Dù không phải là món ngon đầy đủ chất dinh dưỡng nhưng đó là điều quý giá và trân trọng nhất mà bà Từ dành cho cô con dâu mới. Rõ ràng lúc bấy giờ chỉ cần có thức ăn để duy trì sự sống chứ không cần no nê hay không, nạn đói năm 1945 đã được nhà văn Kim Lân khắc họa một cách rõ nét và chân thực nhất.
Qua đó, người đọc cảm kích tấm lòng đáng quý của bà cụ Tứ, trong hoàn cảnh nghèo khó, khi mọi người tranh giành nhau, bà vẫn chia sẻ cuộc sống ấy với cô con dâu mới. Đồng thời thể hiện sự kiên cường, không khuất phục trước cuộc sống của những người dân nghèo khổ nơi đây.
Phân tích bữa ăn trong ngày đói
Bài mẫu số 1
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc về nông thôn Việt Nam với những trang viết đặc sắc về phong tục và cuộc sống làng quê. Ông viết chân thực và xúc động về cuộc sống của người dân quê với tình cảm ruộng đồng. Và tác phẩm 'Vợ nhặt' được trích từ tập 'Con chó xấu xí' của ông là một trong số những tác phẩm tiêu biểu tái hiện được chân thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước nạn đói kinh hoàng năm 1945. Qua tác phẩm, ta thấy rõ bữa ăn trong ngày đói của gia đình Tràng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Truyện ngắn Vợ nhặt bắt đầu từ tiểu thuyết 'Xóm ngụ cư' được Kim Lân viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công nhưng bản thảo bị mất và chưa hoàn thiện. Sau khi hòa bình thiết lập, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Chi tiết bữa ăn trong ngày đói cũng là bữa cơm đón con dâu đầu tiên của gia đình Tràng, mang đầy tình cảm và cũng là minh chứng cho khó khăn của người nông dân trong tình hình nạn đói. Bữa cơm này không chỉ đơn giản mà còn đầy ý nghĩa nhân đạo. Trong khi mọi người đang cố gắng vượt qua cảnh khốn khó, họ vẫn giữ vững niềm tin và hy vọng vào tương lai tươi sáng.
Dù tiếng cười và hy vọng của gia đình Tràng bị dập tắt khi thức ăn khan hiếm, nhưng niềm vui và lòng nhân ái của họ không phai mờ. Bà cụ Tứ, mặc cho hoàn cảnh khó khăn, vẫn cố gắng làm cho bữa cơm trở nên ấm áp và động viên tinh thần cho mọi người. Ông ta là người mẹ nhân hậu, biết yêu thương và chia sẻ, là nguồn động viên và hy vọng cho mọi người xung quanh.
Ngoài bà cụ Tứ, hình ảnh bữa cơm ngày đói, đặc biệt là nồi cháo cám, còn thể hiện sự thay đổi trong tính cách và thái độ của anh Tràng và người vợ. Khi ăn miếng cháo cám, Tràng cảm thấy 'miếng cám đắng chát và nghẹn trong cổ', nhưng anh vẫn giữ sự kiềm chế và thông cảm. Còn người vợ, thị, thể hiện sự hiểu biết và lòng nhân ái khi nhận bát cháo cám từ mẹ chồng mình.
Không chỉ là hình ảnh bữa cơm đói, mà còn là cái hiện thực tàn bạo và sự lên án tội ác của phát xít và tay sai. Nhân dân bị buộc phải sống trong cảnh khốn khó và phải ăn cháo cám, một thức ăn dành cho gia súc, khiến cho cuộc sống trở nên thê thảm.
Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo để tái hiện bữa cơm đói của gia đình Tràng trong ngày đón dâu. Kết hợp với miêu tả tâm lý sắc sảo và nghệ thuật trần thuật mộc mạc, ông đã tạo ra một tác phẩm ý nghĩa.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói, đặc biệt là nồi cháo cám, đã gây ấn tượng sâu sắc. Mặc cho hoàn cảnh khó khăn, con người vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp và niềm tin vào tương lai.
Mẫu số 2
Vợ Nhặt là một truyện ngắn tuyệt vời của Kim Lân, kể về nạn đói năm 1945. Nhà văn không chỉ tái hiện sinh động không khí oi ả, ngột ngạt của nạn đói, mà còn làm nổi bật tình yêu thương và sức sống mãnh liệt bên trong con người. Bữa cơm cuối cùng trong truyện vẫn là điểm nhấn, nơi tôn vinh những giá trị đáng quý của con người, dù đối mặt với cái chết, họ vẫn không từ bỏ hi vọng vào cuộc sống.
Sáng đầu tiên ở nhà chồng, chị vợ và bà cụ Tứ đã sắp xếp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm gia đình. Sự xuất hiện của chị vợ làm cho không khí trong nhà trở nên tươi mới. Căn nhà xập xệ trở nên ngăn nắp hơn, mảnh vườn được dọn dẹp sạch sẽ. Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, cái khát và cái đói vẫn đeo bám, làm cho không khí trở nên buồn tẻ, u ám.
Bữa cơm đầu tiên có nàng dâu mới không hoành tráng nhưng lại rất đặc biệt. Không có mâm cơm thịnh soạn, chỉ có một nồi cháo hành và đĩa muối. Nhà văn Kim Lân đã tái hiện chân thực tình cảnh bi đát của những người trong nạn đói, khi mà cả gia đình chỉ có một nồi cháo lỏng lẻo để sống sót.
Kim Lân tinh tế khi mô tả chi tiết bữa cơm trong nạn đói, không chỉ làm tái hiện cảnh ngộ của những người nghèo khổ mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Dù đối mặt với khó khăn, nhân vật vẫn giữ lấy hi vọng và lạc quan. Bà cụ Tứ, dù sống trong nghèo khó, vẫn kể những chuyện vui để động viên con cháu.
Tấm lòng của người mẹ được thể hiện qua món quà đặc biệt là nồi cháo cám. Mặc dù gia đình nghèo khó, nhưng bà cụ vẫn cố gắng chuẩn bị quà cưới để làm hạnh phúc cho con cháu. Ngay cả khi đói khát bủa vây, bà vẫn khích lệ lũ trẻ: 'Cảm ơn anh nhé. Cả xóm mình còn không có cám mà ăn'.
Bữa cơm đói hàng ngày thực sự phản ánh sự khốc liệt của nạn đói, khi con người phải ăn những thứ không để duy trì sự sống. Tuy nhiên, đằng sau sự đáng thương đó, chúng ta cảm nhận được sự ấm áp cao cả của tình người. Bà cụ Tứ dành tình yêu thương của mình cho các con bằng một bát cháo đắng, cay đến tận cõi lòng. Vị đắng đó cũng gợi lên trách nhiệm gia đình trong anh Tràng và khát khao hạnh phúc của chị con dâu.
Chi tiết về bữa cơm ngày đói không chỉ là lời lên án về tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật mà còn là sự trân trọng về lòng yêu thương và khát khao hạnh phúc. Trong cơn nghèo khổ, mọi người vẫn giữ lấy niềm tin vào tương lai tươi sáng.
'Vợ Nhặt' là một tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, thể hiện sự hiện thực của nạn đói 1945. Kim Lân đã thành công trong việc mô tả chi tiết, tạo ra ấn tượng sâu sắc với độc giả, đặc biệt ở phần cuối tác phẩm.
Mặc dù chi tiết về bữa cơm đón nàng dâu ngày đói là nhỏ nhặt nhưng lại rất sâu sắc và làm độc giả cảm động. Bữa ăn đơn giản đó thực sự phản ánh nghèo khổ của một gia đình trong xã hội. Đồng thời, nó cũng là biểu tượng cho sự sống sót trong hoàn cảnh khó khăn.
Bữa cơm đói trong tác phẩm không chỉ là lời lên án về nạn đói mà còn là biểu tượng của sự chiến đấu, hy vọng và ý chí sống sót trong thời kỳ khó khăn. Bà cụ Tứ dù nghèo nhưng vẫn cố gắng để giữ lấy sự sống, thể hiện tình mẫu tử cao cả.
Dù là những thứ đơn sơ, không khí trong bữa ăn vẫn ấm cúng. Mặc dù phải ăn cám, nhưng mọi người vẫn chấp nhận, cam chịu, không lên tiếng ca thán. Cả cô con dâu, dường như cũng hiểu được tình cảnh để chấp nhận cuộc sống với chồng trong cái nghèo, cái đói.
Chi tiết bữa ăn ngày cưới ở cuối tác phẩm làm nổi bật giá trị thực tế của nạn đói năm 1945. Tác giả diễn đạt lòng thương xót sâu sắc và nhấn mạnh vào giá trị nhân đạo.
Thành công của 'Vợ nhặt' không chỉ từ nội dung hấp dẫn và tinh thần nhân văn mà còn từ những chi tiết đặc sắc như mâm cơm ngày đói với món cháo cám.
Trong bữa ăn gia đình, mâm cơm ngày đói được tác giả miêu tả đặc biệt, thể hiện sự thiếu thốn của cuộc sống. Nó cũng là biểu tượng cho lòng nhân ái và sức mạnh của con người.
Buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt cùng bà cụ Tứ làm sạch ngôi nhà, tạo ra không gian mới. Trong bữa ăn gia đình, tác giả đặc biệt chú trọng miêu tả mâm cơm ngày đói với cháo cám, thể hiện sự khó khăn của cuộc sống.
Một điều đáng chú ý là món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà. Sự hào hứng và lời giới thiệu hài hước 'Chè khoán, chè khoán đây' của bà Tứ đã tạo ra không khí vui vẻ cho bữa ăn. Dù miếng cháo đắng chát khiến không khí trầm lại, bà vẫn cố gắng động viên các con: 'Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn'.
Nhà văn Kim Lân tập trung mô tả mâm cơm ngày đói để tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Trong bức tranh nạn đói, cháo cám, món ăn không dành cho con người, trở thành món quà đặc biệt. Dù cuộc sống thảm hại vì đói khát, nhưng con người không bao giờ chịu buông bỏ hy vọng vào cuộc sống tốt đẹp ở tương lai, thể hiện sức mạnh tinh thần bất khuất.
Chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám, thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát vọng sống chính đáng của người nông dân nghèo. Họ là những nạn nhân đáng thương của nạn đói nhưng vẫn mang niềm tin và sức sống tinh thần mạnh mẽ.
Bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ Nhặt
Bài viết mẫu 1
Dưới bàn tay tài ba của nhà văn Kim Lân, chi tiết về bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ Nhặt đã được xây dựng thành công.
Giống như nhiều gia đình khác, vào buổi sáng đầu tiên sau khi về nhà chồng, chị vợ nhặt đã sớm dậy để giúp mẹ chồng dọn dẹp căn nhà, biến nó trở nên sạch sẽ hơn. Bà cụ Tứ, chu đáo nhưng bữa ăn sáng đó lại là một cảnh thảm hại, thiếu thốn. Chỉ có một ít rau chuối thái lộn, một ít muối ăn kèm với cháo cám. Dường như, món cháo cám đã trở thành một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ trực tiếp chuẩn bị với sự hào hứng và vui vẻ. Khi không khí trong bữa ăn trở nên trầm lắng vì vị đắng của cháo, bà vẫn cố gắng động viên các con: 'Cháo cám này, ngon lắm đấy. Trong xóm chúng ta, khối nhà còn không có mà ăn'.
Nhà văn Kim Lân tập trung vào việc miêu tả bữa cơm ngày đói để tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân. Trong thời kỳ đó, cháo cám - món ăn không dành cho con người - trở thành món quà đặc biệt. Dù cuộc sống thảm hại vì nỗi sợ hãi về đói khát, nhưng con người trong bức tranh nạn đói ấy không bao giờ mất đi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp, thể hiện sức sống tinh thần mạnh mẽ.
Chi tiết về bữa cơm ngày đói không chỉ tái hiện lại cảnh nạn đói của xã hội vào thời điểm đó mà còn thể hiện sự mong muốn chiến đấu mạnh mẽ, đấu tranh với cái chết để cứu lấy sự sống của người nông dân.
Bài viết mẫu 2
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân, tôi đặc biệt chú ý đến phần mô tả về bữa cơm trong ngày khó khăn đó.
Tôi đặc biệt quan tâm đến đoạn kết của truyện ngắn Vợ Nhặt, khi mô tả về bữa ăn đơn giản nhưng ấm cúng của gia đình.
Một lò xoán mảnh, một chén muối ăn cùng với cháo, nhưng tất cả đều thưởng thức hết mực. Bên cạnh đó, bà cụ còn chia sẻ những câu chuyện vui vẻ về cuộc sống.
Tràng chỉ cười, biểu hiện rất lịch sự. Chưa bao giờ trong nhà này, bà con lại cảm thấy ấm áp và hạnh phúc như vậy.
Bà cụ đặt đũa xuống, nhìn hai đứa trẻ cười vui vẻ:
- Đợi chúng mày nhé. Tao có cái này rất hay đấy.
Bà cụ nhanh chóng chạy xuống bếp, tươi cười mang ra một cái nồi hấp hơi bay lên. Bà cụ đặt nồi lên bên cạnh đĩa cơm, khuấy và cười nói:
- Đây là chè đấy. - Bà cụ múc ra một bát - Chè ngon lắm đây, cứ thử đi.
Người con dâu nhận lấy bát, nhìn kỹ và ăn thử, đôi mắt phát sáng. Ấn tượng và ngon miệng. Tràng nhận lấy bát thứ hai mẹ đưa, mẹ vẫn tươi cười, yên bình:
- Đây là cơm đấy, ngon lắm đấy. Hãy thử đi. Xóm ta chả có cơm như thế đâu…
Đây là bữa cơm của gia đình Tràng khi có sự hiện diện đầu tiên của người phụ nữ “vợ nhặt”. Hình ảnh bữa cơm mang ý nghĩa nghệ thuật quan trọng, đề cập đến thực tế đầy cảm xúc. Trước hết, đó là sự khốn khổ của cuộc sống nông dân trong xóm ngụ cư trong những ngày đói kém. Bình thường, cuộc sống của họ đã chứa đựng nhiều khó khăn. Nhưng giờ đây, với đại họa đói kém, mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân chú ý đặc biệt đến mô tả bữa ăn của gia đình Tràng. Nhìn vào bữa ăn của họ, người đọc không thể không cảm thấy thương xót. Bữa ăn chỉ gồm một ít cháo và rau chuối, không đủ cho cả nhà ăn. Vì vậy, bà cụ Tứ đã thêm vào món “chè khoán”. Mặc dù gọi là “chè khoán” nhưng thực ra đó chỉ là cháo cám, thức ăn thường dùng cho gia súc. Vì không phải là thức ăn của con người nên chỉ mới đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, “hai con mắt thị tối lại”. Trong khi đó, Tràng “vội vã nhảy miếng cám vào miệng. Mặt cậu chột lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn trong cổ”.
Không khí bữa ăn trở nên yên bình, khi “không ai nói lời nào”, “tránh né nhìn mặt nhau” và chìm đắm trong “nỗi buồn riêng”. Dù bữa ăn nhà Tràng thật là bi thảm, nhưng vẫn tốt hơn nhiều so với nhiều nhà khác. Câu nói của bà cụ Tứ đã làm cho chúng ta hiểu được sự thực đó. 'Xóm ta chả có cám mà ăn đâu'.
Một đoạn văn ngắn đã truyền đạt một cách sâu sắc nỗi khốn cùng của con người. Qua đó, người đọc có thể nhận ra tinh thần đồng cảm và sự thể hiện hiện thực của tác giả Kim Lân.
Khi được hỏi về quan điểm viết truyện ngắn Vợ Nhặt, Kim Lân nói rằng: “Khi tôi viết, ý tưởng chính trong tôi là người đói, họ luôn mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn, và họ vẫn hy vọng vào tương lai”. Quan điểm đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách triển khai, xử lý các tình huống nghệ thuật trong tác phẩm của ông. Đoạn văn mô tả bữa cơm trong ngày đói vẫn thể hiện rõ tinh thần đó.
Như đã đề cập, bữa cơm của gia đình Tràng là biểu hiện sống động của thời kỳ khốn khó trong năm 1945. Nạn đói đã khiến con người trở thành như thú vật. Tuy nhiên, con người vẫn giữ được tính con người, vẫn tìm cách chia sẻ và hy vọng. Do đó, trong mô tả của Kim Lân về bữa cơm đói, không khí trong đó đầm ấm, tràn đầy tình người của gia đình Tràng. 'Chưa bao giờ trong gia đình này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế'. Bà Tứ tạo ra không khí ấm áp đó, với việc 'tươi cười, đon đả' trong bữa ăn. Dù có thể nụ cười của bà che giấu sự khốn khó của cuộc sống, nhưng nó vẫn là nụ cười hạnh phúc của người mẹ nghèo trước cuộc sống mới của Tràng. Bà hiểu, tất cả các mối quan hệ đều mang theo hi vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cho nên, câu chuyện trong bữa ăn với các con của bà là những kế hoạch về tương lai. Đó là kế hoạch sử dụng khu vực bếp làm chuồng gà. Bà hy vọng rằng khi có tiền, họ sẽ mua đôi gà và 'không mất nhiều thời gian mà có đàn gà để nhìn…'.
Nhớ đến câu ca dao nổi tiếng “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây” của văn học dân gian Việt Nam. Bản tính của con người Việt Nam là như vậy, luôn lạc quan và tin tưởng.
Dù bữa cơm ngày đói có 'thảm hại', nhưng vẫn chứa đựng tình người, vẫn toả ra những tia hy vọng cho một cuộc sống mới. Ngòi bút của Kim Lân đã chạm vào cảm xúc sâu sắc của hiện thực.
Bài mẫu số 3
“Vợ nhặt” là một tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Truyện đã mô tả cảnh khốn cùng của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ nạn đói năm 1945 một cách sinh động. Tác giả cũng vẽ lên được vẻ đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Đặc biệt, bữa cơm ngày đói sau khi Tràng đưa vợ nhặt về nhà là điểm nhấn trong truyện.
Tràng - một người dân nghèo sống với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò lên dốc, Tràng gặp Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu ngạc nhiên, sau đó chấp nhận Thị với sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng thấy mình thay đổi. Anh cảm thấy có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của vợ mới chỉ có vài món ăn đơn giản: “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
Bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng cưới vợ là rất quan trọng. Hình ảnh bữa cơm là tín hiệu quan trọng, thể hiện thực tế xã hội lúc đó. Thường thì sau khi kết hôn, cuộc sống gia đình sẽ thay đổi, bữa ăn hàng ngày sẽ đầy đủ, chỉn chu hơn. Nhưng trong trường hợp của Tràng, bữa cơm đầu tiên lại chỉ có vài món ăn đơn giản. Đó là sự thảm hại của cuộc sống người nông dân trong xóm ngụ cư vào những ngày đói kém. Cuộc sống của họ đã rất khó khăn, nhưng giữa nạn đói, mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn. Chi tiết về bữa ăn ngày đói nhấn mạnh cuộc sống khó khăn của họ. Nhưng đặc biệt, họ ăn ngon lành và nói chuyện vui vẻ. Điều đó cho thấy sự lạc quan, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp của người lao động nghèo.
Đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám được bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”. Kim Lân đã miêu tả rất tinh tế:
“Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Thị nhận lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt như không thấy rõ. Thị ăn một cách bình thản. Tràng nhận lấy cái bát thứ hai từ mẹ, người mẹ vẫn tươi cười, đầy tình yêu thương:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đấy, thử ăn xem đi. Xóm ta chả có gì lành cả…
Hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ làm họ nhớ lại thực tế. Bà gọi là “chè khoán” nhưng thực ra là món cháo cám - thức ăn cho gia súc. Thái độ của Thị khi nhận bát “cháo cám”: “hai con mắt như không thấy rõ”. Trong khi đó, Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Không khí bữa ăn trở nên buồn bã. Cả gia đình “không ai nói gì”, “tránh nhìn nhau” và sống với “nỗi tủi hờn” riêng của mỗi người. Hình ảnh nồi cháo cám khiến tình hình trở nên thảm hại hơn. Đặc biệt đối với người vợ nhặt, người tưởng rằng sẽ có cuộc sống tốt hơn khi theo Tràng về, nhưng thực tế gia đình Tràng cũng không khác gì.
Chi tiết về bữa ăn ngày đói mang ý nghĩa sâu sắc. Mặc dù bữa ăn đói đau thương, nhưng vẫn biểu hiện niềm tin vào một tương lai sáng sủa.
Bài làm mẫu 4
“Chi tiết nhỏ tạo nên vẻ đẹp của một tác phẩm văn học”. Điều này được thể hiện rõ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một chi tiết quan trọng thể hiện sự tinh tế của nhà văn.
Trong cuộc sống, bữa ăn đầu tiên của một gia đình sau khi có nàng dâu mới là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong truyện “Vợ nhặt”, bữa ăn chỉ có “lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Điều này cho thấy hoàn cảnh nghèo đói của gia đình. Mặc dù nghèo đói, họ vẫn lạc quan, “cả nhà đều ăn rất ngon lành” và nói về tương lai tươi sáng.
Trong cuộc sống, bữa ăn đầu tiên của một gia đình sau khi có nàng dâu mới rất quan trọng. Nhưng ở trong Vợ nhặt thì bữa ăn chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. Toàn là những món ăn hết sức đơn giản. Bữa cơm đã cho thấy sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời việc miêu tả bữa ăn cũng cho thấy một hiện thực ở nông thôn Việt Nam những năm 1945. Nạn đói hoành hành, đẩy con người vào cuộc sống nghèo đói. Nhưng trong hoàn cảnh vậy, họ vẫn lạc quan, “cả nhà đều ăn rất ngon lành”, rồi họ nói với nhau về chuyện tương lai tốt đẹp.
Hình ảnh nồi cháo cám gọi là “chè khoán” của bà cụ Tứ gợi lên tiếng cười xót xa. Mặc dù là thức ăn cho gia súc, nhưng lại là thức ăn của con người. Cách gọi này làm cho tình hình nghèo đói của con người trở nên đáng buồn. Tuy nhiên, cách đón nhận của mỗi người lại khác nhau. Bà cụ Tứ vẫn tươi cười, đón đả: “- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đấy, thử ăn xem đi. Xóm ta chả có gì lành cả”. Người vợ nhặt thì nhận bát “cháo cám” với “hai con mắt như không thấy rõ”. Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Nồi cháo cám đã đưa họ trở lại với hiện thực của cuộc sống nghèo khó. Kim Lân miêu tả: “Bữa cơm từ đấy không ai nói gì, họ chỉ cắm đầu ăn cho xong, tránh nhìn nhau. Một cảm giác tủi hờn bao trùm tâm trí mọi người”. Chỉ với một đoạn văn ngắn đã chứa đựng nhiều ý nghĩa.
Qua chi tiết này, Kim Lân đã cho người đọc thấu hiểu sâu sắc về nạn đói năm 1945 và cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ đó.
Bài làm mẫu 5
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một trong những kiệt tác tái hiện một cách chân thực và sống động về cảnh nạn đói trong những năm 1945, gây ra cái chết của hàng triệu người dân Việt Nam.
Sự nghèo khó của các vùng quê đã được mô tả trực tiếp thông qua những hình ảnh như những người chết đói nằm lung lay trên chiếc giường, dẫn nhau lên cánh đồng như những bóng ma, và mùi hôi thối từ những xác người tràn ngập.
Bức tranh về nạn đói trong những năm 1945 được tả một cách cực kỳ sinh động và chân thực dưới bàn tay của nhà văn Kim Lân. Tiếp theo, nạn đói tiếp tục được thể hiện qua việc Tràng gặp và cưới vợ. Sự khốn khó đã đưa hai con người này đến với nhau. Trong lần gặp thứ hai, Thị đã mất hết tự trọng để 'đòi nợ' từ Tràng, chỉ vì đói. Và cũng bởi vì cả hai đều nghèo khó, chỉ cần một câu nói đùa của Tràng, Thị đã quay lại với anh, và họ kết duyên.
Mặc dù việc cưới vợ là một sự kiện trọng đại và thiêng liêng, nhưng với sự nghèo khó, đám cưới của Tràng không thể đơn giản hơn. Tràng có thể đã nghĩ đến khó khăn của việc nuôi sống một gia đình, nhưng anh vẫn quyết định tiến lên. Sự đau khổ của gia đình Tràng được thể hiện qua tâm trạng chua xót của người mẹ. Những giọt nước mắt của bà là minh chứng cho tình yêu thương mẹ con cũng như sự chia sẻ trong hoàn cảnh khó khăn. Hoàn cảnh nghèo khó của gia đình Tràng cũng như của nhiều gia đình khác được thể hiện qua hình ảnh của nồi cháo cám.
Nồi cháo cám thể hiện sự nghèo đói tột cùng của gia đình người nông dân. Sự khốn khó dẫn đến hình ảnh cuối cùng của lá cờ phấp phới, mở đường cho những người nông dân phá kho thóc của Nhật để sống sót. Truyện Vợ Nhặt của Kim Lân thể hiện tài năng xuất sắc trong việc miêu tả nạn đói năm 1945 mà người nông dân phải đối mặt.
Bài làm mẫu 6
Những mâu thuẫn và nghịch lý luôn tồn tại trong xã hội, đặc biệt khi xã hội đang đối mặt với nạn đói nghèo như năm 1945 hoặc sự giả dối trên con đường Âu hóa ở thành thị. Tình huống đám cưới trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân là một minh chứng sống động cho điều này.
Tràng, một người dân nghèo xấu xí, trong cơn đói kém cỏi, quyết định 'cưới' thêm một miệng ăn.
Đám cưới trong truyện được hiểu theo nghĩa bóng, là hai người sống cùng nhau trong một mái nhà, không có sự chuẩn bị hoặc tổ chức đám vui.
Thị không cần dám hỏi hay làm quen, chỉ cần vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc, đã đồng ý theo Tràng về nhà. Sự bám víu trong cảnh đói đã khiến Thị không suy nghĩ nhiều mà quyết định ngay. Tràng, bất ngờ, chỉ 'chậc, kệ' phó mặc cuộc đời.
Đám cưới không có sự long trọng, không có quà cưới đẹp. Món quà cưới của Tràng cho vợ chỉ là một cái thúng vài thứ lặt vặt. Không có khách mời vì nghèo túng, 'giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo...'
Đêm tân hôn trong căn chòi rách nát, với tiếng khóc vang vọng bên ngoài. Bữa sáng hôm sau, không có bữa cơm thịnh soạn, chỉ nồi cháo cám đắng chát, thức ăn lẽ ra dành cho động vật.
Đám cưới trong truyện là biểu tượng của cảnh nghèo túng đến thảm hại trước năm 1945. Kim Lân xây dựng tình huống và chi tiết đầy ám ảnh, động lòng người.
Bên cạnh cái nghèo, con người trong truyện lại ấm áp, giàu lòng nhân ái và khao khát sống. Mọi người ăn với thái độ vui vẻ dù bữa ăn không đủ. Chi tiết nồi cháo cám thể hiện tình mẫu tử và lòng nhân hậu của người mẹ nghèo.
Trong mọi tình huống khó khăn, Kim Lân đã khẳng định rằng tình người vẫn tồn tại. Tình người giúp Thị tìm thấy nơi nương tựa, mang lại hy vọng cho Tràng và bà cụ Tứ, làm cho xóm ngụ cư luôn phấn khởi hơn và cũng tạo ra sự ấm áp đặc biệt trong trang văn.
..............
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn cảm nhận bữa cơm ngày đói