Văn mẫu lớp 12: Phản ánh về 9 câu đầu của bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đưa ra dàn ý và bài phản ánh vô cùng xuất sắc đạt điểm cao. Qua phản ánh 9 câu đầu Đất nước giúp học sinh lớp 12 củng cố kiến thức và nâng cao kỹ năng viết văn một cách hiệu quả hơn.
Phản ánh 9 câu đầu Đất nước sẽ giúp các em tích luỹ thêm vốn từ, đồng thời cũng mang đến nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Đồng thời, cũng giúp các em hiểu sâu sắc hơn về bài thơ Đất Nước. Ngoài ra, các em có thể xem thêm những phân tích mới về cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, phân tích bài thơ Đất nước và nhiều bài văn khác trong chuyên mục Văn 12.
Dàn ý phản ánh 9 câu đầu Đất nước
I. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ đã trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ với phong cách thơ chủ đạo là trữ tình chính luận.
- “Đất nước” được lấy từ chương V của tác phẩm Mặt đường khát vọng, được viết ra trong thời kỳ chiến trường Miền Nam đầy gian khổ. Bài thơ mang thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương, kêu gọi giới trẻ Miền Nam tham gia vào cuộc chiến dân tộc.
- Trích xuất 9 câu thơ đầu.
Nội dung chính: thể hiện quan điểm của Nguyễn Khoa Điềm về nguồn gốc của Đất nước.
2. Thân bài:
A. Quan điểm 1: Đất nước đã tồn tại từ khi nào?
Câu đầu tiên của bài thơ trả lời câu hỏi này:
- “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi” - Đất nước là một phần không thể tách rời, gắn bó sâu sắc với từng cá nhân, từ khi họ còn ở trong bụng mẹ.
- Tác giả cảm nhận Đất nước qua một góc nhìn văn hóa và lịch sử, đồng thời thông qua cụm từ “ngày xưa xưa kia” -> gợi ra những bài học về đạo lý sống thông qua những câu chuyện dân gian giàu ý nghĩa.
B. Quan điểm 2: Quá trình hình thành của Đất nước?
- Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi nhớ về hình ảnh người bà thân quen, đồng thời kể câu chuyện về truyền thống ăn trầu cau, thể hiện tình anh em đậm sâu, tình thân thiết vợ chồng.
- Hình ảnh của “cây tre” còn kích thích hình ảnh về người Việt Nam, một dân tộc siêng năng, chịu khó, biết thương yêu và kiên nhẫn. “Lớn lên” không chỉ nói về sự phát triển của Đất nước mà còn về truyền thống chống ngoại xâm kiên cường, bền bỉ.
- Thói quen bỏi tóc sau đầu để tập trung làm việc, nhắc nhở về câu ca dao trầm buồn, đầy ý nghĩa. Thông qua hình ảnh “gừng cay”, “muối mặn” tái hiện tình yêu đôi lứa sâu đậm.
- Một câu thơ đơn giản nhưng sâu sắc như “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” tái hiện nền văn hóa lao động của dân tộc thông qua việc liệt kê công việc hàng ngày và cách sống.
- Nguyễn Khoa Điềm tóm tắt tất cả trong một suy nghĩ duy nhất: “Đất nước đã từng tồn tại từ ngày ấy…” Dấu “…” ở cuối câu thể hiện sự im lặng, nhưng ý nghĩa vẫn còn mãnh liệt và sôi động.
=> Đất nước ra đời kết hợp chặt chẽ với văn hóa, lối sống, phong tục của người Việt Nam, đồng thời gắn bó với cuộc sống gia đình. Tất cả những yếu tố này đã hòa quyện thành bản sắc tinh thần của dân tộc. Đất nước hiện lên vừa linh thiêng, vừa gần gũi thiết tha.
3. Kết luận:
- Tóm lại cảm nhận của tôi về 9 câu đầu của bài thơ Đất nước.
- Khẳng định rằng với Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước chính là những điều gần gũi và bình thường nhất.
Cảm nhận 9 câu đầu bài Đất nước
Ai đó đã từng nói: “Nếu không có một tổ quốc, một quê hương, ta giống như con chim không tổ, cây không rễ…”. Và trong lòng ai đó, có lẽ không có tình yêu nào sâu sắc bằng tình yêu dành cho tổ quốc. Tìm câu trả lời cho câu hỏi đó đã khiến biết bao tâm hồn thơ thẩn. Với Nguyễn Đình Thi, tổ quốc là hình ảnh của một đất nước đau đớn, tự do, bất khuất, nổi lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân, đó là hình ảnh của tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Với Xuân Diệu, đó là vẻ đẹp của “tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt, vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một tiếng thơ đặc biệt về đất nước qua trích đoạn: “Đất nước” - Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn này đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người đọc với một quan điểm mới về đất nước: “Đất nước của Nhân dân” được thể hiện qua chín câu thơ đầu.
“Khi ta trưởng thành Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước tồn tại từ ngày đó…”
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, từng tham gia hoạt động cách mạng và bị giam giữ. Thơ của ông kết hợp giữa xúc cảm sâu lắng và tư duy tri thức về đất nước, đặc biệt là trong bài thơ “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, viết vào năm 1971 khi cuộc chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn khốc liệt. Từ chiến trường Bình Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần thêm một tiếng thơ đặc sắc về đất nước, để kích thích ý thức trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu trích đoạn thơ của mình bằng cách trả lời câu hỏi: “Đất nước tồn tại từ khi nào?”:
“Khi ta trưởng thành Đất Nước đã có sẵn rồi”
Hai chữ “Tổ quốc” vẫn vẹn trong tấm lòng dân tộc, nồng nàn và trân trọng. Điều đặc biệt mà độc giả có thể nhận thấy trong đoạn thơ này là từ “Tổ quốc” luôn được viết hoa. Giải thích về điều này, Nguyễn Khoa Điềm cho biết Tổ quốc không chỉ là mảnh đất bình thường, mà là một thực thể sống, có tâm hồn, và cách viết này cũng là cách tác giả bày tỏ sự kính trọng sâu sắc, thiêng liêng đối với Tổ quốc. Từ “Tổ quốc” vang vọng suốt cả trường ca như một bản nhạc cảm động, đưa ta đến một không gian bao la, kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Hai từ thiêng liêng ấy không chỉ tồn tại trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn được “hòa mình” với nhiều nhà thơ khác:
“Tổ quốc Việt Nam dấu yêu
Vẻ đẹp thiên nhiên vượt mênh mông
Con cò góp tiếng hò lảo đảo
Khung cảnh Trường Sơn vời vợi sớm chiều”
(Nguyễn Đình Thi)
hay
“Tổ quốc tôi dịu dàng như dòng đàn bầu.
Nghe mẹ kể nỗi lòng.
Khóc thầm lặng lẽ hai lần khi lên đường.
Các anh xa xôi mẹ im lặng…”
(Trích từ Tạ Hữu Yên)
Với mỗi người, đất nước trở thành một khái niệm thiêng liêng, nằm sâu trong trái tim, bất kể trái tim đó là của ai. Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, việc sử dụng từ ngữ như “ta” và “anh” thể hiện một tâm tình gần gũi, trò chuyện thân mật giữa người con trai và người con gái, giữa những người yêu quý đất nước. Người con trai, “ta”, muốn giải thích, lý giải về sự hình thành, sự phát triển của đất nước cho người con gái mình yêu. Mặc dù nếu nhìn xa hơn, “ta” ở đây có thể đại diện cho tất cả mọi người, là một cách nói tổng quát đại diện cho dân tộc Việt Nam.
Cách sử dụng từ ngữ làm cho vấn đề trừu tượng như đất nước trở nên gần gũi, rõ ràng, và cụ thể hơn. Điều này thể hiện rõ phong cách thơ trữ tình và chính luận của tác giả. Ông khẳng định sự tồn tại của đất nước qua ba từ: “đã có rồi”, khiến cho hình ảnh của đất nước trở nên sống động, hiện hữu trong tâm trí của người đọc. Theo lý giải của Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là một giá trị vĩnh hằng, được xây dựng, được tạo lập qua nhiều thế hệ, được truyền lại từ đời này sang đời khác. Do đó, “khi ta lớn lên đất nước đã có từ rất lâu đời!”. Lời khẳng định này thể hiện niềm tự hào sâu sắc về sự tồn tại của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử. Đất nước như trời và đất, khi ta sinh ra, đã có đất nước như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ cảm nhận được sự hiện diện của nó xung quanh những điều quý giá nhất.
Các dòng thơ tiếp theo của tác giả mở rộng và làm rõ hơn vấn đề đã được nêu ra trong câu thơ đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Quay về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người, được nuôi dưỡng trong những câu chuyện ru, những truyền thuyết của bà, của mẹ:
“Đất nước là một phần của những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa...” mà mẹ thường kể”
Tác giả đã sử dụng nguồn gốc dân gian để mô tả về sự hình thành của đất nước. Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” đưa chúng ta vào một không gian xa xôi, sâu thẳm. Đó là nơi của cô Tấm hiền lành, của Thạch Sanh thiện lương, của bà tiên ông bụt với những phép màu kỳ diệu giúp đỡ những người hiền gặp nạn,... Ai là người Việt mà không biết những câu chuyện ấy, gắn bó với tuổi thơ mỗi người. Và đất nước có mặt trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã tồn tại trước cả khi những câu chuyện này được ghi lại trong kho tàng dân gian đầy màu sắc. Khi những câu chuyện cổ trở thành một phần của cuộc sống tinh thần phong phú của dân tộc, chúng ta cảm nhận được đất nước trong đó. Là đất nước của một nền văn hóa dân gian độc đáo với những câu chuyện, truyền thuyết. Những câu chuyện và lời ru quen thuộc từ thời thơ ấu là nguồn nước mát rượi nuôi dưỡng tinh thần ta hướng về điều tốt lành. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từng rất xúc động khi viết về ý nghĩa của những câu chuyện cổ:
“Tôi yêu những truyện cổ của dân tội ta
Vừa nhân hậu lại thú vị sâu xa
Yêu người rồi mới người yêu ta
Tình yêu dù mấy cách xa cũng tìm thấy
Ở bên nhau lại gặp hạnh phúc
Người chân thực được phúc, được trời phù hộ.
Tôi mang theo những truyện cổ đi
Nghe trong cuộc sống thầm lặng tiếng xưa
Ánh nắng vàng, cơn mưa trắng
Con sông chảy qua rừng dừa cong kềnh.”
Không chỉ trong “ngày xửa, ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm cũng xác định nguồn gốc đó qua một truyền thống đơn giản trở thành tập quán tốt đẹp của dân ta, đó là tập quán ăn trầu:
“Đất nước bắt đầu từ một miếng trầu, bây giờ đã được bà ăn.”
Hình ảnh của đất nước rộng lớn, tưởng chừng không đâu vào đâu so với hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu. Mặc dù câu thơ có vẻ lạ lùng, nhưng lại rất hợp lý với sự thật: “Những điều lớn lao thường bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhớ đến truyện cổ tích: “Sự tích trầu cau” được xem là câu chuyện cổ xưa nhất trong các câu chuyện cổ tích. Phong tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé chứa đựng trong mình cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là bắt đầu của câu chuyện”. Qua bao năm tháng, miếng trầu trở thành một biểu tượng thiêng liêng trong cuộc sống tinh thần của người Việt: miếng trầu kết nối, miếng trầu trong lễ cưới,… Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:
“Những cô gái bên quán xén răng đen
Cười tỏa sáng như mặt trời mùa thu”
(Hoàng Cầm)
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp là nguồn gốc của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng nhấn mạnh vào quá trình trưởng thành của đất nước đi đôi với truyền thống chống giặc giữ nước trong suốt 4000 năm lịch sử của dân tộc ta:
“Đất nước trưởng thành khi nhân dân biết trồng tre và đánh giặc”
Hai từ “trưởng thành” để diễn đạt về sự phát triển của đất nước. Câu thơ gợi nhớ đến hai biểu tượng: cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Suốt hàng nghìn năm, cây tre đã trở thành biểu tượng gắn liền với cuộc sống của người Việt Nam. Nó đã xuất hiện trong những tác phẩm văn học, âm nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:
“Tre xanh
Xanh từ lâu rồi?
Truyện xưa… bờ tre xanh còn vương vấn
Thân vững chãi, lá mong manh
Thế mà đã trở thành lũy tre bền chặt?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Dù đất sỏi, đất vôi, màu xanh vẫn nở”
(Nguyễn Duy)
Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Hình ảnh cây tre còn kết nối với Thánh Gióng - cậu bé trở thành anh hùng, nhổ tre bên đường để chống giặc Ân, giúp bờ cõi Việt an tịch:
“Ta giống như thời xa xưa thần Phù Đổng
Trưởng thành để xua đuổi giặc Ân”
(Tố Hữu)
Từ đó, hình ảnh Thánh Gióng trở thành biểu tượng mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, không khuất phục. Truyền thống vĩ đại ấy đã đi cùng chúng ta suốt lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, có bao nhiêu người con trai con gái sẵn sàng ra trận. Họ mang theo lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc, quyết sinh”. Những năm tháng ấy và cả những năm tháng sau này, tinh thần yêu nước vẫn luôn là nguồn cảm hứng, là dòng máu chảy trong lịch sử vĩ đại của dân tộc ta.
Bên cạnh đó, đất nước đã từ lâu gắn bó với những nét đẹp truyền thống tinh túy. Nhà thơ đã đề cập đến phong tục bới tóc của phụ nữ Việt Nam qua câu thơ:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Vì làm ruộng nước, phụ nữ phải bới tóc sau đầu để thuận tiện. Thói quen đó dần trở thành biểu tượng đặc trưng của phụ nữ Việt Nam. Kiểu tóc cuộn búi cao phía sau tạo nên vẻ đẹp truyền thống, nữ tính, và hiền hậu. Nét đẹp này gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc dài cuộn gọn sau gáy em
Cho anh loạn ý, mê mải”
(Ca dao)
Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn thấu hiểu về đất nước qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa mọi người, quan hệ gia đình, tình yêu chân thành giữa vợ chồng: “Cha mẹ yêu thương nhau bằng muối mặn cay gừng”. Trong truyền thống ca dao, tục ngữ có câu:
“Tay cầm đĩa gừng, chén muối
Muối mặn, gừng cay, tình nồng vẹn tròn”
Muối và gừng là hai gia vị quen thuộc trong bếp nhà Việt. Nguyễn Khoa Điềm lấy câu ca dao, lấy vị cay của gừng, vị mặn của muối để diễn tả về tình yêu lâu dài, chân thành, tình cảm trọn vẹn của gia đình, làm nên một tổ ấm hạnh phúc, tràn đầy tình thương. Đó cũng là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc.
Không chỉ vậy, đất nước đã từ lâu là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nguyên nhân của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: “Cái cột, cái kèo là tên”. Ngôn ngữ Việt Nam đã có từ lâu đời, xuất phát từ việc đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, lấy tên của những vật đó để đặt cho con cái. Từ xa xưa, người Việt tin rằng việc đặt tên càng xấu thì càng dễ nuôi. Hơn nữa, Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận về truyền thống lao động cần cù, chịu khó, kết hợp với một nền văn minh nông nghiệp.
Để đất nước phát triển như ngày nay, không thể không nhắc đến công lao của ông bà, tức là quá trình xây dựng đất nước. Nhà thơ chọn một nghề đặc trưng nhất trong nông nghiệp - trồng lúa: “Hạt gạo cần một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với các hành động “xay, giã, giần, sàng” mô tả rất rõ công việc của người nông dân, cũng như sự vất vả, mệt nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như là lời ca dao, cũng như lời khuyên:
“Ai mang bát cơm đầy đủ
Mềm thơm một hạt đắng cay ngàn phần.”
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên hình ảnh của sự chịu khó, kiên trì, làm việc chăm chỉ của ông bà ta. Sản xuất hạt gạo hàng ngày đòi hỏi sự cần cù không ngừng. Trong hạt gạo nhỏ bé đó chứa đựng mồ hôi mặn, những cố gắng không biết mệt mỏi của những người nông dân. Đất nước của chúng ta phát triển từ những cố gắng, làm việc cật lực, một nắng hai sương như vậy.
Và sau tất cả những lời giải thích đó, tác giả một lần nữa khẳng định nguồn gốc của đất nước với niềm tự hào mạnh mẽ nhất:
“Đất Nước đã tồn tại từ ngày ấy”
“Ngày ấy” là một thuật ngữ chỉ thời gian mà không biết chính xác là lúc nào, chỉ biết rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu. Từ những truyện cổ tích, truyền thuyết, đến lịch sử văn hóa, truyền thống gìn giữ sự tự do và văn minh nông nghiệp đều được truyền tụng qua thế hệ. Những nét văn hóa tinh túy nhất được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong thơ một cách tự nhiên, chân thật để mỗi người hiểu rằng văn hóa chính là tâm hồn của đất nước và chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn những giá trị quý báu này.
Đoạn thơ không chỉ thuyết phục bởi tư duy lý luận mà còn lôi cuốn bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Cấu trúc câu như “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” mô tả rõ quá trình phát triển của đất nước qua thời gian. Bằng từ “có”, nhà thơ đã liên kết những hình ảnh tưởng chừng không liên quan thành một thể thống nhất, khẳng định sự hiện diện mang đậm tính truyền thống và ân tình sâu sắc của đất nước. Cách diễn đạt giản dị, tự nhiên, gần gũi với dân gian nhưng lại ẩn chứa sâu sắc tinh tế, làm nổi bật thể loại trường ca một cách đặc biệt.
Nhìn chung, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng cấu trúc tổng- phân - hợp rất chặt chẽ trong đoạn thơ. Đoạn thơ kết hợp hài hòa giữa chất lý luận và trữ tình, vừa được viết bằng sự sâu sắc, hiểu biết văn hóa, vừa được viết bằng cảm xúc, nên dễ dàng chạm vào lòng người. Tư duy “Đất nước của Nhân Dân” được thể hiện rõ trong đoạn thơ, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình ảnh đến chi tiết nghệ thuật. Tư duy này không chỉ thuộc về Nguyễn Khoa Điềm mà còn là một phần của lịch sử văn hóa dân tộc.
Từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình phát triển, đất nước đã gắn liền với nhân dân. Tư duy “Đất nước của Nhân Dân” được thể hiện rõ trong đoạn thơ, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình ảnh đến chi tiết nghệ thuật. Tư duy này không chỉ thuộc về Nguyễn Khoa Điềm mà còn là một phần của lịch sử văn hóa dân tộc.
Trong thời trung đại, khái niệm Đất nước thường được liên kết với các triều đại và vua chúa. Tuy nhiên, một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận ra vai trò quan trọng của nhân dân đối với đất nước. Trần Hưng Đạo từng nhấn mạnh: “Muốn đánh thắng giặc phải biết thông cảm với dân, sử dụng sức lao động của họ như nguồn lực quan trọng”. Nguyễn Trãi cũng đã phát biểu: “Hiểu biết về dân chính là hiểu biết về nước”.
Có một thời kỳ, những nhà lãnh đạo tư tưởng như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh đã nhận ra sức mạnh của nhân dân. Phan Châu Trinh đã nói: “Dân là nước, nước là dân”, trong khi Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Đảng ta phải chú trọng đến nhân dân”. Dù là thời đại nào, các triết gia vẫn nhận thức rằng nhân dân là yếu tố quan trọng nhất trong xây dựng đất nước. Nhân dân chịu trách nhiệm với đất nước từ cuộc chiến tranh đến sự phát triển vĩ đại của đất đai. Điều này đã được nhà văn hiện đại hiểu và cảm nhận rõ ràng. Tuy nhiên, việc biến tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” thành nguồn cảm hứng chính và lan tỏa vào mọi khía cạnh của hình ảnh Đất Nước, thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc trên nhiều mặt, thật sự là một đóng góp đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm.
Sự thành công trong việc thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là kết quả của việc Nguyễn Khoa Điềm sử dụng chất liệu văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là những câu ca dao, điệu dân ca, hò sông nước, câu chuyện cổ tích, phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã tận hưởng và lựa chọn dựa trên hiểu biết sâu sắc và rộng lớn.
Các câu thơ đầu trong trích đoạn “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng' là một khẳng định về tư tưởng mới “Đất nước là của Nhân dân”, là một giải thích hoàn hảo cho câu hỏi: “Đất nước đã tồn tại từ bao giờ và thuộc về ai?” Một cách giải thích mới mẻ và rõ ràng. Tại sao mọi thứ quanh ta, nơi chúng ta sống, đều là của đất nước? Và những câu hỏi về quê hương, đất nước vẫn là những điều sẽ được nhắc đi nhắc lại để người đọc luôn tìm kiếm sự thú vị trong thơ văn:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều'