Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu với 23 bài văn mẫu siêu hay. Qua bức tranh tứ bình Việt Bắc, học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận và giọng điệu văn thích hợp để nắm vững kiến thức.
Bức tranh tứ bình Việt Bắc tạo ra hình ảnh sinh động về cảnh vật và con người Việt Bắc, gợi lên ấn tượng khó quên. Nó làm cho bài thơ Việt Bắc thêm ấm áp và huy hoàng của núi rừng. 23 bài văn mẫu về bức tranh tứ bình Việt Bắc cung cấp gợi ý sáng tạo về cách sử dụng từ ngữ và cấu trúc câu.
Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc
a) Giới thiệu
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu: một nhà thơ lớn, trữ tình chính trị, thể hiện những cuộc đấu tranh và thành công của dân tộc.
- Bài thơ Việt Bắc: tác phẩm xuất sắc của Tố Hữu, tóm tắt cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, biểu tượng cho lòng tri ân cách mạng.
- Bức tranh tứ bình: những đoạn văn tuyệt vời trong bài thơ Việt Bắc.
b) Phân tích
* Tổng quan về bài thơ Việt Bắc
- Hậu cảnh sáng tác: Trong bối cảnh chiến dịch Điện Biên Phủ chiến thắng, Tố Hữu sáng tác bài thơ này khi Trung ương Đảng và Chính phủ di chuyển từ Việt Bắc đến thủ đô.
- Các dòng thơ trong bức tranh tứ bình là lời chia tay của người ra đi gửi đến những người ở lại.
- Hai dòng thơ đầu tiên là sự phân vân của người ra đi về tình cảm ở lại và là cách họ diễn đạt tâm trạng, nhớ nhung về tự nhiên và con người Việt Bắc.
* Quan điểm 1: Khung cảnh mùa đông
- 'Rừng um xanh, hoa chuối đỏ rực': bằng cách sử dụng kỹ thuật chấm phá, hoa chuối đỏ nổi bật trên nền xanh rộng lớn của rừng, tạo ra hình ảnh màu đỏ của hoa chuối (màu đỏ của hoa chuối gợi liên tưởng đến hình ảnh của ngọn lửa đuốc phía xa, làm tan đi cái lạnh của rừng mùa đông), cùng với màu vàng của những vệt nắng.
- 'Đèo cao, nắng rọi như mũi dao': hình ảnh của ánh nắng chiếu lên từ mũi dao rất mạnh mẽ, tạo nên hình ảnh vẻ đẹp mạnh mẽ, mạnh mẽ của người lao động, với tinh thần làm chủ thiên nhiên và cuộc sống.
* Ý kiến thứ hai: Bức tranh mùa xuân
- 'Mùa xuân đem theo những giấc mơ, làm sáng rực rừng rậm': màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không gian rừng, làm cho thiên nhiên trở nên sống động khi xuân về.
- Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài năng, khéo léo và tận tụy: 'Nhớ những người đan nón, từng sợi chỉ được tạo thành': hành động tinh tế, tỉ mỉ với từng thành quả lao động của mình.
* Quan điểm 3: Hình ảnh mùa hạ
- “Ve kêu, rừng phách đổ vàng”: Toàn bộ cảnh quan tự nhiên bất ngờ chuyển sang màu vàng thông qua động từ “đổ”.
- Màu vàng có thể được kết hợp với tiếng ve kêu vang lên, tràn đầy sức sống.
- Hoặc cũng có thể là tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.
- “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: Từ “cô em gái” thể hiện sự tôn trọng, yêu thương của tác giả đối với nhân dân Việt Bắc, trong khi hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự cần cù, kiên nhẫn của nhân dân nơi đây.
* Quan điểm 4: Hình ảnh mùa thu
- “Rừng thu dưới ánh trăng sáng tỏa hòa bình”: Ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng lên núi rừng Việt Bắc, là biểu tượng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.
- Con người hát vang bài ca, mộc mạc và chân thành, mang trong lòng lòng trung thành và biết ơn.
* Tổng kết:
- Phản ánh tổng quan về bức tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình tạo ra sự cân đối và hài hòa, thể hiện toàn diện vẻ đẹp của đối tượng. Bốn bức tranh cùng nhau tôn vinh giá trị, không thể tách rời, chúng hoà quện với nhau tạo nên một bức tranh tuyệt vời kết hợp giữa con người và thiên nhiên.
c) Kết luận
- Tóm tắt những đặc điểm nghệ thuật và phong cách thơ của Tố Hữu: Sự dân tộc sâu sắc (sử dụng thể thơ lục bát, kết cấu tương tác từ văn học dân gian, ngôn từ đơn giản, hình ảnh thơ gần gũi, diễn đạt chân thành).
- Phân tích giá trị nội dung toàn bộ bài thơ: Một bản hùng ca và tình ca về cách mạng, về cuộc đấu tranh và những người tham gia cuộc đấu tranh.
.......................
Dự án sơ đồ tư duy của bức tranh tứ bình Việt Bắc
Bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 1
Việt Bắc, một tác phẩm trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu, là một biểu tượng của thơ kháng chiến, đồng thời cũng là tinh hoa của thơ Tố Hữu trong cuộc kháng chiến.
Bài thơ này ra đời trong bối cảnh lịch sử quan trọng: là cuộc kháng chiến dài chín năm đầy gian khổ và dũng cảm của dân tộc Việt Nam, vừa kết thúc và chuyển sang giai đoạn xây dựng hòa bình và thống nhất đất nước. Việt Bắc đã mang người đọc trở lại với những kỷ niệm, tình cảm của những người lính chiến khu Việt Bắc.
Trích đoạn thơ:
'Quay về, ta vẫn nhớ ta
Quay về, ta nhớ hoa và bạn.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ ngời
Đèo cao, nắng soi đường rừng.
Xuân đến, hoa nở trắng rừng
Nhớ người dệt nón, chuốt giang sợi.
Ve kêu, rừng phách chuyển vàng
Nhớ em gái hái măng một mình.
Rừng thu, ánh trăng soi sáng
Nhớ tiếng hát, ân tình thủy chung.'
Được đánh giá là một tác phẩm hoàn hảo, thể hiện rõ vẻ đẹp đặc sắc của ngòi bút thơ Tố Hữu.
Phân đoạn thơ này có thể chia thành hai phần, với phần đầu gồm hai câu:
'Quay về, ta vẫn nhớ ta
Quay về, ta nhớ hoa cùng người.'
Như một khúc hát giao duyên, lời mở đầu đưa người đọc vào không khí lãng mạn. Người ra đi (như là người con trai) ướm hỏi lòng người ở lại (như là người con gái), khẳng định tình cảm trong lòng. Phần hai gồm tám câu, chia thành bốn cặp lục bát, mỗi cặp câu đều kể về hoa và con người. Đây có thể coi như một bức tranh tứ bình về bốn mùa bằng những đặc điểm đặc trưng của miền quê cách mạng này.
Cấu trúc tứ của toàn bài thơ tuân theo lối đối đáp trong hát giao duyên (như dân ca quan họ), và hai câu mở đầu trong phần này cũng được viết theo cấu trúc tứ đó. Lời đối được thể hiện như là lời của người ra đi, nhưng lại được diễn giả như là lời của người con trai trong một bài hát giao duyên, đối đáp.
'Quay về, ta vẫn nhớ ta'
Chữ “mình” được dùng ở ngôi thứ nhất. Thông thường, trong cuộc sống, việc sử dụng ngôn từ như vậy thường chỉ xuất hiện trong quan hệ tình yêu hoặc tình cảm gia đình.
Lời này tạo ra một âm điệu ngọt ngào và sự gần gũi trong mối quan hệ giữa người đi và người ở lại. Câu thơ không chỉ là một câu hỏi về việc người ở lại có nhớ người ra đi không, mà còn chứa đựng một thông điệp khẳng định về tình cảm của người ra đi, rằng: Dù không biết người ở lại có nhớ mình không, nhưng ngay cả khi người ở lại không nhớ mình, thì mình vẫn nhớ người. Và, nỗi nhớ chính là điều duyên dáng, duyên dáng:
'Quay về, mình có nhớ mình.'
Thiên nhiên ở Việt Bắc không chỉ có vẻ đẹp của hoa. Và ở đây, hoa được đồng hiện với người. Đó, hẳn là một cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật của Tố Hữu. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên và con người là đối tượng đẹp nhất của cuộc sống. Dân gian có câu “Người ta là hoa của đất”. Vì lẽ đó, hoa và con người đồng hiện là sự kết hợp của những thứ đẹp nhất, tinh túy nhất trong cuộc sống này. Phải là “hoa cùng người” chứ không thể là “hoa và người” vì nếu như thế thì sẽ không thể làm nổi bật sự hòa quện, sự chiếu sáng, sự bổ sung của cả hai đối tượng; hoa làm cho con người trở nên hấp dẫn và con người làm cho hoa trở nên sống động và có hồn.
Hai câu thơ này cũng giống như một lời mở đầu tổng quan, như một phần mở đầu dẫn dắt người đọc vào bức tranh tứ bình về “hoa cùng người” ở Việt Bắc.
Với nghệ thuật hội họa thời trung đại, bức tranh tứ bình là một tập tranh phổ biến gồm bốn bức, mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đó. Như tùng - cúc - trúc - mai; ngư - tiều - canh - mục; long - li - quy - phượng.v.v... Mỗi tập tranh như vậy, tự nó là một cách tổng quan riêng, một thế giới riêng.
Đoạn thơ của Tố Hữu là một tập tranh tứ bình đẹp và đáng quý về “hoa cùng người” của bốn mùa ở Việt Bắc.
Khai mạc, là bức tranh mùa đông, Việt Bắc hiện lên như một miền quê yên bình:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.'
Chỉ một từ “xanh” nhưng người đọc cũng có thể tưởng tượng được đó là màu sắc cơ bản của bức tranh này. Màu xanh làm nền cho “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật. Nếu màu xanh gợi lên vẻ mênh mông, trầm tĩnh của cảnh thiên nhiên nơi núi rừng thì màu đỏ của hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Ghép với hoa chuối, có lẽ chỉ một từ thích hợp là “đỏ tươi”. Hình ảnh hoa chuối bổ sung cho gam màu của bức tranh phong cảnh về mùa đông thêm sinh động, sáng tươi. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện.
'Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.'
Không ngẫu nhiên mà tác giả nhớ về hình ảnh con người gắn với vị trí đang ở “đèo cao”. Tại đỉnh đèo, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao gài ở thắt lưng của con người sẽ lóe sáng, lấp lánh. Không chỉ là thiên nhiên tô điểm cho vẻ đẹp của con người mà quan trọng hơn là câu thơ gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của con người làm chủ nơi núi rừng.
Bức tranh thứ hai, phác họa cũng chỉ bằng vài nét chấm phá về thiên nhiên và con người trong mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.'
Khác với bức tranh mùa đông có nền là màu xanh trầm tĩnh, mùa xuân, nền là màu trắng của hoa mơ. Và, nếu ở bức tranh thứ nhất, màu đỏ của hoa chuối làm nền cho bức tranh tươi sáng thì ở đây, hai chữ “trắng rừng” cũng làm bừng sáng bức tranh phong cảnh.
Trên nền cảnh ấy, hiện ra hình ảnh con người với công việc thầm lặng:
'Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.'
Công việc đó, không chỉ đòi hỏi sự chăm chỉ, mà còn cần sự cẩn thận và khéo léo. Câu thơ giúp ta hiểu thêm một đặc điểm đáng quý nữa ở người dân Việt Bắc.
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.'
Khác với hai bức tranh trước, chủ yếu được thể hiện bằng màu sắc, đường nét và ánh sáng. Bức tranh thứ ba đã mang âm thanh vào. Đó là tiếng nhạc của ve. Dù không miêu tả trực tiếp âm thanh của ve nhưng thông qua thực tế, có thể khẳng định: Tiếng ve là âm thanh sôi động - âm thanh có thể làm rung động cả không gian. Hè đến, tiếng ve kêu là lời mời gọi mùa hè xuất hiện? Chỉ biết rằng khi hè đến, mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu của rừng phách.
Chữ “đổ” trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không chỉ có nghĩa là “đổi màu” mà còn diễn đạt sự nhanh chóng trong việc biến đổi màu sắc. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, cây phách vẫn còn màu xanh, nụ hoa vẫn ẩn mình trong kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè vang lên, chúng bắt đầu nở hoa vàng. Chỉ trong vài ngày, màu vàng đã bao phủ không gian của khu rừng mùa hạ. Trên nền cảnh đó, xuất hiện hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh cô gái liên quan đến công việc như thế gợi lên vẻ đẹp chịu khó, chịu khó, khéo léo.
Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh mùa thu. Ba bức tranh trước là cảnh ban ngày, bức tranh thu là cảnh ban đêm:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình'
Trong rừng thu, ánh trăng chiếu sáng tạo nên không gian yên bình. Đây là một cảnh tượng đẹp, thơ mộng, lãng mạn, thích hợp cho sự hiện diện của âm nhạc:''
'Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.'
“Tiếng hát ân tình” thể hiện tình cảm của người hát. Câu thơ, qua đó, khơi dậy sự ấm áp của người trong bài hát giao duyên. Tuy nhiên, không chỉ vậy, qua âm nhạc ấy, ta cũng thấy được phẩm chất ân tình, trung thành của người dân Việt Bắc dành cho những người lính chiến đấu, cho cách mạng.
Tóm lại, bốn bức tranh là bốn khung cảnh của bốn mùa trong năm tại Việt Bắc, đồng thời cũng là bốn nét đặc trưng, bốn phẩm chất nổi bật của con người trên đất nước cách mạng. Bốn từ kết hợp với bốn bức tranh tạo nên bầu không khí đậm đà, sâu lắng của cảm xúc, của giọng điệu dịu dàng, tình cảm mật ngọt - giọng điệu đặc trưng của thơ Tố Hữu.
Bức tranh tứ bình tại Việt Bắc siêu tuyệt vời - Mẫu 2
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Đối với Việt Bắc, tinh thần thơ không chỉ là nghề thơ của Tố Hữu mà còn là nhiều bút tô đồng thời, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người”. Điều này phản ánh rõ ràng trong bức tranh tứ bình về vẻ đẹp tự nhiên và con người tại Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Khi nói về Việt Bắc, chúng ta nghĩ ngay đến nguồn cội của cuộc kháng chiến, một miền đất “hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son”, mặc dù gian khổ, nghèo khó nhưng vẫn toát lên tinh thần đoàn kết và trung thành. Trong suốt mười lăm năm “thiết tha mặn nồng” ở miền trung du này đã để lại cho cả người lính kháng chiến và nhân dân Việt Bắc bao kỷ niệm. Sau khi đất nước đoạt được độc lập vào năm 1954, họ phải xa cách, người lính phải trở về để tiếp tục công việc xây dựng đất nước. Trong lúc tiễn đưa, người đi và người ở, lòng họ không ngừng hoài niệm, xúc động về quê hương. Đó cũng là tình hình mà tác phẩm được ra đời. Với lời thơ giản dị, chân thành và tâm tình, Tố Hữu đã truyền đạt nỗi nhớ về Việt Bắc trong từng câu thơ trữ tình của mình. Việt Bắc không chỉ là bài ca tình yêu mà còn là bài ca về chiến tranh, kháng chiến và về con người, thiên nhiên. Có thể nói, bức tranh tứ bình là điểm sáng của tác phẩm, thể hiện một vẻ đẹp hài hòa và mật thiết giữa cảnh vật và con người.
Mở đầu là lời ướm hỏi trìu mến của người đi tìm dành cho người ở lại:
“Khi ta trở về, lòng vẫn nhớ nhung”
Câu hỏi từ “khi ta trở về” kèm theo tâm trạng đặt ra liệu ta có nhớ nhung không? Việc sử dụng cách gọi “ta – mình” khiến người đọc liên tưởng đến cách diễn đạt phổ biến trong ca dao, dân ca: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Không đợi lời trả lời, “ta” ngay lập tức chia sẻ: “Ta về ta nhớ những bông hoa kề bên”. Sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên thể hiện qua hình ảnh đẹp “hoa kề bên”. Hoa và con người cùng tồn tại, thỉnh thoảng làm đẹp lên cho nhau, một trong hai, hai trong một. Liệu có phải người đi không muốn rời xa miền đất Việt Bắc vì hình ảnh “hoa kề bên” quá quyến luyến?
Những người chiến sĩ trở về thành phố nhưng tâm hồn vẫn vương vấn nhớ mong miền núi: nhớ hoa, nhớ cảnh, nhớ những người ở đó. Tám câu thơ tiếp theo mô tả vẻ đẹp tự nhiên của miền Việt Bắc qua bốn mùa, từ đông sang xuân, hạ và thu, với những màu sắc tươi tắn và âm thanh sống động, rộn ràng. Mỗi mùa ở Việt Bắc được Tố Hữu diễn đạt qua những hình ảnh đặc trưng và bắt đầu với khung cảnh mùa đông nơi núi rừng:
“Rừng xanh rực sắc hoa chuối đỏ
Đèo cao nắng chang chang, con dao gài thắt bên lưng”
Những bông hoa chuối đỏ nhuốm màu đỏ trên nền xanh của rừng. Nhìn từ xa, giữa mảnh rừng xanh biếc, sự hiện diện của hoa chuối đỏ nổi bật hơn cả, rực rỡ và độc đáo. Thường nói về mùa đông, đặc biệt là mùa đông miền cao với cái lạnh buốt, cảm giác rét thấu xương. Nhưng màu đỏ của hoa chuối như màu của ngọn lửa soi sáng chống lại cái lạnh của những ngày mưa phùn gió bấc. Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc từ đó trở nên ấm áp, đẩy lùi đi cái lạnh, sẵn sàng chào đón mùa xuân. Bức tranh mùa đông được mô tả sống động chỉ với một câu thơ kết hợp giữa đường nét và màu sắc, vừa tương phản vừa hòa quyện, vừa cổ điển vừa hiện đại.
Trên bối cảnh mùa đông, ta nhận thấy vẻ đẹp mạnh mẽ của người dân Việt Bắc. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” trên những con đèo cao nắng vàng không gì khác biệt hơn là người dân miền núi. Con dao trên thắt lưng không chỉ là vật dụng không thể thiếu của họ mà còn là biểu tượng của sự độc lập, sự dũng cảm. Tố Hữu không cần phải mô tả hành động hay khuôn mặt mà lại chọn phản ánh ánh nắng chiếu sáng từ vật dụng quen thuộc của người dân nơi đây. Dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng vẻ đẹp mạnh mẽ, tự tin của người dân Việt Bắc hiện lên rõ ràng. Họ, trong tư thế lao động mạnh mẽ, kiên cường, vượt lên mọi thách thức, khó khăn, làm chủ cuộc sống, làm chủ tự nhiên.
Nếu bức tranh mùa đông rực rỡ, ấm áp với gam màu đỏ và xanh thì bức tranh mùa xuân lại trở nên thơ mộng, nhẹ nhàng, tươi sáng với sắc trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng của mùa xuân Việt Bắc:
“Ngày xuân hoa mơ trắng rực
Nhớ người dệt nón từng sợi giằng”
Trong tác phẩm “Theo bước Bác”, Tố Hữu cũng đã nhắc đến sắc trắng của hoa mơ nở rộ khắp biên giới: “Ôi sáng xuân nay xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”. Hay trong bài thơ “Gái xuân”, Nguyễn Bính cũng viết: “Xuân về, hoa mơ, hoa mận nở”. Cả không gian núi rừng như đang thức tỉnh, bừng sáng với màu sắc của loài hoa này. Động từ “nở” đã làm cho sắc trắng trở nên sống động hơn, như đang tỏa sáng, bung tỏa từ trong nụ hoa.
Vẫn trên khung cảnh mùa xuân ấy, người trở về vẫn nhớ về hình bóng của người dân Việt Bắc. Cảnh xuân tươi sáng hơn bởi vì có sự hiện diện của con người trong tư thế lao động: “Nhớ người dệt nón từng sợi giằng”. Hình ảnh “dệt nón từng sợi giằng” làm nổi bật vẻ đẹp tài năng, khéo léo cùng sự kiên nhẫn trong quá trình làm ra những chiếc nón của người dân miền núi Việt Bắc.
Cảnh vật trong tranh lại chuyển sang một mùa mới – mùa hè. Mùa hạ hiện lên trong nỗi nhớ của người trở về với sắc vàng rực rỡ, tiếng ve kêu vang vọng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Từ “đổ vàng” ở đây diễn tả một cách chính xác sự thay đổi màu sắc đột ngột từ màu trắng của hoa mơ sang màu vàng của rừng thông. Nó nhắc nhớ đến ý thơ trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.” Những ngày cuối xuân, rừng vẫn xanh mướt. Nhưng khi tiếng ve vang lên, gọi mùa hạ, từng bông hoa e ấp giữa những chiếc lá lại bắt đầu héo vàng. “Tiếng ve” và “phách đổ vàng” tạo nên một hiện tượng thú vị: tiếng ve như là một dòng màu vàng lấp lánh, rơi xuống muôn lá cây, làm cho chúng trở nên sặc sỡ.
Giữa “rừng phách đổ vàng” hiện lên hình ảnh một cô gái miền núi cần mẫn, chịu khó “hái măng một mình” để đóng góp vào công cuộc nuôi quân, sản xuất và kháng chiến. Hai từ “một mình” gợi lên vẻ đẹp của sự kiên nhẫn, cần cù trong lao động không chỉ của cô gái mà còn của tất cả người dân Việt Bắc.
Một lần nữa, cảnh vật lại chuyển đổi khi mùa thu về. Bộ bốn bức tranh kết thúc bằng một cảnh thu với rừng thu cao vút và trăng thu yên bình:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ánh trăng thu huyền ảo, trong trẻo rọi xuống chiến khu Việt Bắc tạo ra một cảnh tượng yên bình, thanh thản và lãng mạn. Mùa thu cũng là thời điểm của cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài hàng thế kỷ của dân tộc Việt Nam. Trong những bài thơ viết về cuộc kháng chiến, trăng thu đã trở thành một đề tài quen thuộc với nhiều nhà thơ. Ánh sáng của trăng không còn chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn là biểu tượng của sự sống, sự tự do và sự thanh bình. Trong những đêm trăng thu yên bình, tiếng hát ân tình thủy chung vẫn vang lên, ghi lại những cảm xúc sâu lắng, tình cảm trọn vẹn của người dân miền núi.
Đoạn thơ đã mô tả một cách đầy đủ vẻ đẹp của cảnh vật và con người ở chiến khu Việt Bắc bằng những đường nét đơn giản, màu sắc tươi sáng: mùa đông sôi nổi, tràn đầy sức sống; mùa xuân tươi trẻ, thơ mộng; mùa hạ rực rỡ và mùa thu yên bình. Các bức tranh tứ bình của Tố Hữu thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa thiên nhiên và con người, từ đó tạo nên một bức tranh sắc nét về cuộc sống và tâm hồn của người dân miền núi.
Bức tranh tứ bình là sự kết hợp của nhiều nghệ thuật dân tộc, từ thể thơ lục bát đến lối xưng hô “mình – ta”, tạo ra một bức tranh âm nhạc ngọt ngào, đậm đà tình cảm dân tộc. Tiếng hát ân tình thủy chung trong đoạn thơ là biểu hiện của lòng trung thành và sự kiên nhẫn của người dân Việt Bắc trong cuộc sống và cuộc kháng chiến.
Với những nét chấm phá, màu sắc tươi sáng và hình ảnh giàu biểu tượng, Tố Hữu đã tạo ra một bức tranh sống động về thiên nhiên và con người ở Việt Bắc. Đoạn thơ này không chỉ là một biểu hiện của văn hóa và tinh thần dân tộc mà còn là một tác phẩm văn học nổi bật của văn học Việt Nam hiện đại.
Phân tích bức tranh tứ bình hay nhất - Mẫu 3
Ngoài việc là một nhà thơ tài ba, Tố Hữu cũng là một chiến sĩ cách mạng quả cảm, hy sinh cho đất nước. Thơ ông luôn phản ánh tinh thần cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc, với sự hùng hồn và đầy nồng nhiệt của tình yêu trích dẫn. Bài thơ 'Việt Bắc' là một minh chứng cho phong cách sáng tạo của Tố Hữu. Nó không chỉ là một tác phẩm ca ngợi cuộc kháng chiến mà còn là một bức tranh đẹp mắt về thiên nhiên và con người ở vùng núi, với đặc biệt là đoạn mô tả bốn mùa.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954 sau chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với sự giải phóng miền Bắc và sự trở lại của cuộc sống mới. Những chiến sĩ cách mạng trở về từ căn cứ miền núi sau nhiều năm gian khổ. Chính phủ và Trung ương Đảng rời khỏi Việt Bắc để trở về thủ đô. Bài thơ này kỷ niệm một sự kiện quan trọng của đất nước, nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp của những người dân miền núi. Bên cạnh những đoạn thơ về cuộc kháng chiến, bài thơ cũng nhấn mạnh về cuộc sống và thiên nhiên ở Việt Bắc, nơi mà Tố Hữu và các đồng đội của ông có một mối liên kết sâu sắc. Nhớ về miền núi cũng là nhớ về con người và thiên nhiên tươi đẹp. Thông qua thể thơ lục bát, tác giả đã tạo ra một bức tranh sống động về Việt Bắc qua bốn mùa trong năm, tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp và hoàn hảo.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
Người trở về không chỉ thể hiện lòng nhớ nhung mà còn khẳng định tình cảm với nơi đã đi qua. Mặc dù không còn ở lại nhưng vẫn luôn nhớ về đó với những điều tươi đẹp nhất, như “những hoa cùng người”. Hoa là biểu tượng của sự tinh tế và đẹp đẽ trong tự nhiên. Mỗi người ở đây cũng giống như những bó hoa tươi đẹp, phản ánh phẩm chất và tâm hồn của họ, luôn tràn đầy nồng nhiệt và tình cảm. Người và hoa hiện diện trong ký ức của người đi. Nhớ đến hoa cũng là nhớ đến người, và ngược lại, luôn kèm theo hình ảnh của những bông hoa rực rỡ. Nhờ đó, chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu một cách tự nhiên, đó là về hoa và con người ở Việt Bắc. Câu thơ tiếp theo đã mô tả rõ ràng hình ảnh đó:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Khi nhắc đến miền núi Việt Bắc, chúng ta nghĩ ngay đến rừng trăm cây, nơi con người và thiên nhiên hòa quyện sống chung. Màu xanh của rừng làm nền cho bức tranh đầu tiên, tạo ra một không gian yên bình, lặng lẽ, đặc biệt trong mùa đông lạnh giá. Màu đỏ tươi của hoa chuối rừng nổi bật giữa bức tranh xanh mát, làm cho không gian trở nên sáng sủa, đẹp đẽ hơn. Dù chỉ mô tả bằng hai từ “đỏ tươi”, nhưng đã đủ để tạo nên một hình ảnh rực rỡ và cuốn hút. Tiếp theo, tia nắng chiếu xuống đèo cao, chiếu sáng lên chiếc dao làm rừng, tạo ra một ánh sáng chói lọi như một mặt trời thứ hai. Ánh nắng không chỉ làm cho không khí trở nên rực rỡ, mà còn thể hiện sự tự tin, vững chãi của người lao động trên núi. Tố Hữu không chỉ miêu tả ở bài thơ này, mà còn trong bài “Lên Tây Bắc”:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Vùng miền núi với những đồi cao và thấp tạo nên một địa hình đầy thách thức. Người dân Việt Bắc làm việc trên những ngọn đồi cao, với ánh nắng dịu dàng của mùa đông. Ánh nắng chiếu vào cây dao, tạo ra ánh sáng chói lọi giống như một mặt trời thứ hai. Ánh sáng này không chỉ tạo ra một không gian lấp lánh, mà còn phản ánh sự tự tin và kiên định của người làm việc trên núi. Tố Hữu không chỉ mô tả trong bài thơ này, mà còn trong bài “Lên Tây Bắc”:
“Đẹp lắm cảnh chiều nắng pha
Bóng dài trên dốc cheo leo
Núi không vùi vai vươn cao
Lá trổ lối reo gió vờn.”
Dãy núi, ngọn đồi kỳ vĩ liên tục nối tiếp nhau, với địa hình gập ghềnh, nhưng con người vẫn không ngần ngại gian khổ, họ gắn bó với núi rừng và làm chủ nơi đất đai hiểm trở ấy. Hình ảnh con người tỏa sáng với ánh nắng hy vọng và ý chí vươn lên. Tố Hữu đã tài tình khi viết ra câu thơ này, trong đó con người sáng lên như màu đỏ tươi của bông hoa chuối dưới ánh sáng phản chiếu của mặt trời chói lọa. Ở bức tranh thứ hai, cảnh vật lại hiện thân với một vẻ đẹp khác:
“Trắng hoa rừng rực mùa xuân
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi
Sau màu xanh rậm rạp của rừng núi, là sắc trắng thuần khiết của hoa mơ. Màu trắng đọng đầy tinh khiết của hoa mơ khiến cả khu rừng như bừng sáng lên, nhấn mạnh sự mới mẻ và trong sáng của cuộc sống. Trong bài thơ 'Theo chân Bác', Tố Hữu cũng mênh mông sắc trắng của rừng mơ:
“Xuân nay rực trắng mùa 41
Hoa nở trắng biên giới phía xa
Bác về, im lặng, chim hót
Bờ lau reo vui tưng bừng”.
Mùa xuân trên miền núi là biểu tượng của sự tinh khiết với những chùm hoa mơ rừng trắng tinh khôi. Đó là màu trắng trong trẻo thanh bình của đất trời, chào đón năm mới. Trên nền trắng ấy, hình ảnh con người trong công việc nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa được vẽ lên:
“Nhớ đến người đan nón từng sợi
Những người dân miền núi không chỉ làm nông trại mà còn thực hiện những công việc thủ công cần sự khéo léo và kiên nhẫn. Từ 'từng' như mô tả một sự cẩn thận và tỉ mỉ. Họ không chỉ mạnh mẽ và chăm chỉ mà còn rất tài năng. Hai bức tranh đầu tiên đã vẽ lên con người và thiên nhiên trong hai mùa đông và xuân với chi tiết, màu sắc, và ánh sáng, đến bức tranh tiếp theo mang cảm giác âm nhạc:
“Tiếng ve kêu rộn rã, rừng phách đổ vàng
Nhớ đến cô em gái hái măng một mình”
Tiếng ve náo nức trong mùa hè làm sôi động không gian núi rừng. Ánh nắng gay gắt càng làm cho không gian sống động hơn, tác giả sử dụng từ 'đổ' một cách độc đáo để tạo ra hình ảnh đặc biệt. Tiếng ve đã làm cho những rừng phách chuyển màu vàng. Trên nền trắng của hoa mơ vào mùa xuân, trong mùa hè chúng biến thành màu vàng rực rỡ. Trong cảnh này, hình ảnh của con người cũng rất độc đáo: 'Nhớ đến cô em gái hái măng một mình'. Giữa sự sôi động của mùa hè là sự kiên nhẫn và lòng hi sinh của một người phụ nữ hái măng một mình. Hình ảnh này toát lên nét duyên dáng, lòng nhân hậu và sự kiên trì. Tác giả truyền đạt sự cảm thông qua câu thơ này.
Bức tranh mùa thu trong đêm là điểm kết thúc tuyệt vời cho bộ tranh tứ bình. Ba bức tranh trước đều mô tả cảnh ban ngày, nhưng bức cuối cùng lại đưa ta vào không gian của đêm tối. Có lẽ mùa thu là thời điểm mà vầng trăng sáng nhất và tròn nhất.
“Rừng thu trăng chiếu hòa bình
Nhớ người hát tiếng ân tình thủy chung”
Trong đêm tĩnh lặng, rừng thu bừng sáng dưới ánh trăng, tạo ra hình ảnh tươi sáng của sự tự do. Ánh trăng chiếu sáng trên bầu trời bình yên của dân tộc. Dưới trăng sáng đẹp, những người dân Việt hát lên những giai điệu đậm chất tình yêu. Nhớ về con người là nhớ về hình dạng lao động và giọng hát của họ. Âm nhạc không chỉ làm rung động tâm hồn mà còn gợi lên sự ấn tượng sâu sắc.
Với những câu thơ lục bát nhẹ nhàng và ngôn từ tinh tế, Tố Hữu đã tạo nên bức tranh tuyệt đẹp về con người và thiên nhiên ở Việt Bắc. Bức tranh này mang tính cổ điển của thi ca truyền thống nhưng lại hiện đại và tươi mới với sự kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Mười câu thơ này là tinh hoa của tác phẩm 'Việt Bắc'. Chỉ có một tâm hồn đặc biệt và một tài năng thi ca như Tố Hữu mới có thể viết ra những câu thơ tuyệt vời như vậy.
Phân tích Việt Bắc bức tranh tứ bình - Mẫu 4
Tố Hữu là một trong những nhà thơ đặc trưng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng cộng sản, và thơ của ông thường liên quan đến cách mạng. Ông có một mối liên kết mạnh mẽ với nhân dân và tác phẩm của ông luôn gần gũi với cuộc sống hàng ngày của họ. Ông để lại một di sản văn học phong phú, với những tác phẩm kết hợp giữa tình yêu dân tộc và lý tưởng chính trị. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ 'Việt Bắc', trong đó mười câu thơ đã tạo ra một bức tranh tinh tế về nỗi nhớ về vùng quê và con người ở Việt Bắc.
“Ta trở về, lòng ta khắc khoải
Ta về đây, nhớ về những cánh hoa kia”
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi rực
Đèo cao, nắng ánh sáng nhấp nhô
Ngày xuân, rừng trắng hoa mơ nở
Nhớ về người, tay đan nón mộc mạc
Ve kêu, rừng phách nhuộm vàng
Nhớ về cô em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng soi sáng cảnh vật êm đềm
Nhớ về tiếng hát, nỗi lòng trung thành”
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào đầu tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc chiến chống Pháp kết thúc, khi các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã sống và làm việc ở Việt Bắc trong một thời gian dài, và bài thơ này có vẻ như được viết trong cảm xúc rờn rợn của cuộc chia tay. Điều đẹp nhất trong ký ức về Việt Bắc chính là hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, tạo nên một bức tranh sống động và lãng mạn.
“Ta trở về, lòng ta khắc khoải
Ta về đây, nhớ về những cánh hoa kia”
Mở đầu của đoạn thơ là một câu hỏi tĩnh lặng, nhưng chính câu hỏi đó lại là cách thể hiện lòng nhớ thương sâu sắc của người về Thủ đô. Hai dòng đầu tiên là một loạt câu hỏi tự hỏi, tức là câu hỏi của những người lính đã trở về từ chiến trường. Ta tự hỏi liệu có nhớ về những người cách mạng đã trở về không, và những người Việt Bắc đã thể hiện tâm trạng của mình rằng dù ở nơi xa xôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn luôn gắn bó với chiến khu Việt Bắc. Chữ 'ta', 'nhớ' được lặp lại để thể hiện lòng trung thành một cách rõ ràng. Sự nhớ nhung dành cho 'những hoa cùng người', là sự nhớ nhung về thiên nhiên, về núi rừng và về con người Việt Bắc. 'Hoa' là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên, còn 'người' là biểu tượng của cuộc sống xã hội. Theo cách nhìn này, 'người cũng là hoa của đất'. Hai yếu tố này khi được đặt bên cạnh nhau tạo nên một vẻ đẹp toàn diện, làm cho cả không gian núi rừng, Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết.
Những dòng thơ tiếp theo tái hiện một cách cụ thể, chân thực vẻ đẹp của bốn mùa trong chiến khu. Cảnh vật và con người đã hoà quyện vào nhau một cách tuyệt vời. Mỗi dòng thơ mô tả cảnh vật đều kèm theo một dòng thơ mô tả con người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng biệt tạo nên một bức tranh tứ bình đầy ánh sáng, màu sắc và âm thanh, tràn đầy sự vui tươi và ấm áp.
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng ánh dao gắn thắt lưng'
Bắt đầu với một khung cảnh mùa đông làm cho bức tranh tứ bình trở nên hoàn thiện. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao tác giả lại bắt đầu với mùa đông thay vì theo trật tự tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Điều này có lẽ do thời điểm Tố Hữu viết bài thơ vào đầu tháng 10 năm 1954, là thời điểm của mùa đông, nên hình ảnh mùa đông Việt Bắc đã tạo ra nguồn cảm hứng cho ông để viết về mùa đông trước hết.
Khi nhớ về mùa đông ở Việt Bắc, tác giả không chỉ nhớ về cái lạnh buốt, u ám mà còn nhớ về những ngày đông rực rỡ với ánh nắng vàng ấm áp. Màu xanh của rừng núi Việt Bắc đã làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh 'hoa chuối đỏ tươi' là biểu tượng cho mùa đông ở Việt Bắc, nó giống như những ngọn đuốc, đã làm sáng bức tranh mùa đông, xua đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng ở đây. Toàn bộ không gian như được sưởi ấm bởi vẻ đẹp đặc trưng của mùa đông ở Việt Bắc. Đằng sau hình ảnh mùa đông ấy, là hình ảnh của những người nông dân đi lao động, leo lên những đoạn đèo cao để làm việc. Hình ảnh của những người lao động mạnh mẽ, tỏa sáng và rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng kỹ thuật đảo ngữ, không sử dụng 'ánh nắng' như một danh từ mà thay vào đó là 'nắng ánh' – một động từ, nhằm làm cho hình ảnh của những người lao động trở nên đẹp hơn và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông giá lạnh, Tố Hữu dẫn chúng ta vào mùa xuân ấm áp, vui tươi hơn:
“Ngày xuân, hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Hình ảnh những bông hoa “nở trắng rừng” là biểu tượng của mùa xuân tại núi rừng Việt Bắc. Hoa nở trắng làm sáng bừng cả khu rừng, không chỉ màu trắng nhỏ như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du “cành lê trắng điểm vài bông hoa”. Đó là màu trắng trong trẻo, tinh khôi, làm sạch lên núi rừng Việt Bắc. Đằng sau mùa xuân tươi mới, lãng mạn ấy, nhà thơ đã nhớ về những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” cũng làm nổi bật đức tính chăm chỉ, tinh tế, khéo léo, và tài hoa của người dân nơi này. Họ đã làm ra những sợi giang mềm mại để đan thành những chiếc nón. Đó là vật phẩm không thể thiếu để che nắng, che mưa của người dân ở đây, và cũng có thể là món quà tặng mà tác giả dành cho những người mà họ yêu thương.
“Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Khi tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách bất ngờ đổi màu vàng, tạo nên sự biến đổi đột ngột khiến người ta cảm thấy như khi tiếng ve vang lên, cùng với lá cây phách từ màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian của Việt Bắc như được tô điểm bởi màu vàng rực rỡ, và trong ánh sáng vàng rực rỡ đó, hình ảnh những cô em gái hái măng hiện lên. Tại đó, chúng ta có thể cảm nhận được sự cẩn trọng, chăm chỉ và tinh tế. Măng là loại rau nuôi sống các chiến sĩ cách mạng. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự yên bình và thư thái. Câu thơ đã đưa ta liên tưởng đến câu thơ:
“Trám rụng vì thời gian, măng mai già dần”
Nếu mùa đông được biểu hiện bằng hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, và mùa hè là hoa phách vàng. Vậy mùa thu mơ mộng được biểu hiện bằng hoa gì? Trong mùa thu, mặc dù không có hoa, nhưng mùa thu vẫn sở hữu vẻ đẹp của con người, vì “Người ta là hoa của đất”.
Trái ngược với thời kỳ văn học trung đại, khi thiên nhiên được coi là tiêu chuẩn cho vẻ đẹp, văn học hiện đại lại coi con người là tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
“Rừng thu rọi bóng dáng hòa bình
Nhớ giọng hát ân tình, trìu mến”
Nếu hình ảnh của ánh trăng được miêu tả trong sáu câu thơ, thì âm nhạc được tạo thành bởi “giọng hát ân tình” trong hai câu thơ sau. Sự kết hợp giữa “trăng” và “âm nhạc” tạo ra vẻ đẹp lãng mạn và lung linh. Trong thời kỳ kháng chiến gay go của đất nước, nhưng trong những câu thơ của Tố Hữu, chúng ta thấy được sự thanh bình, hòa bình, và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ truyền tải đầy tình yêu và lòng nhớ sâu nặng về cảnh đẹp và con người. Dù ở hay về, lòng ta vẫn thấm đẫm nỗi nhớ, tình cảm trìu mến, và ân tình thủy chung. Năm tháng trôi qua, những tình cảm thủy chung với cuộc cách mạng ở Việt Bắc vẫn luôn rực rỡ, và khắc sâu trong trái tim của chúng ta.
Tóm lại, với 10 câu thơ này, Tố Hữu đã kết hợp một cách hài hòa giữa việc mô tả cảnh vật và con người. Sự hòa quyện này tạo ra một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Tố Hữu đã thể hiện tình cảm của mình với thiên nhiên và con người ở Việt Bắc, và lòng tự hào sâu sắc với đất nước này. Chúng ta cũng cần phải yêu quý và tự hào về vẻ đẹp của đất nước, và nhớ mãi công ơn của những chiến sĩ đã hy sinh để xây dựng đất nước yên bình và xinh đẹp như ngày nay.
Bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 5
Văn học Việt Nam đã đón nhận nhiều tác phẩm quan trọng từ nhiều tác giả khác nhau. Mỗi giai đoạn trong lịch sử lại có những cống hiến văn học đặc biệt. Trong đó, tác giả Tố Hữu không thể không được nhắc đến - một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam. Qua bài thơ Việt Bắc, ông đã chia sẻ góc nhìn riêng về cuộc sống và tình yêu thương của mình dành cho người dân và thiên nhiên ở Việt Bắc. Đặc biệt, những dòng thơ như sau đã đem lại hồi ức cho những người về lại với bức tranh tứ bình Việt Bắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mười câu thơ truyền tải hình ảnh sâu sắc về sự kết hợp giữa thiên nhiên và con người ở Việt Bắc trong tâm trí của những người ra đi. Bắt đầu bằng việc khẳng định tình cảm của họ đối với những người ở lại:
Ta về, lòng còn nhớ ta
Ta về, lòng nhớ hoa cùng người
Câu thơ đầu tiên đặt ra một câu hỏi tu từ “lòng còn nhớ ta”, câu thứ hai tự trả lời. Với Tố Hữu, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những ngày gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ vẻ đẹp duyên dáng của Hoa cùng Người. Tại đây, hoa biểu tượng cho sự tinh tế của thiên nhiên Việt Bắc. Và con người là những con người Việt Bắc, với trang phục chàm nghèo khổ nhưng chứa đựng tấm lòng son sắt. Hoa và Người kết hợp với nhau trong một hình ảnh hài hòa đẹp đẽ, tạo ra sự riêng biệt và độc đáo của vùng đất này. Điều này đã tạo nên cấu trúc đặc biệt cho đoạn thơ.
Sau khi xác nhận nỗi nhớ của mình đối với thiên nhiên và con người ở Việt Bắc, người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ đó thông qua từng mùa trong năm, bắt đầu bằng mùa đông:
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Ðèo cao, nắng chan hòa, làm bó lưng
Điểm nhấn trên bức tranh của cánh rừng xanh mướt là sắc đỏ tươi của hoa chuối rực rỡ dưới ánh nắng ban mai. Từ xa nhìn, những bông hoa như những đốm lửa lung linh, tạo nên một bức tranh đầy màu sắc và độc đáo. Màu đỏ tươi nổi bật giữa màu xanh rì của núi rừng, làm cho thiên nhiên ở Việt Bắc trở nên tươi sáng và ấm áp hơn. Sự sống động của hoa chuối kết hợp với con người làm nương, phát rẫy trên núi làm cho bức tranh mùa đông ở Việt Bắc trở nên hùng vĩ và kỳ diệu.
Cuối mùa đông, mùa xuân hiện lên với vẻ đẹp tinh khôi:
Mùa xuân tràn ngập màu trắng
Nhớ người dệt nón mỗi sợi rơm
Mùa xuân phủ lên cảnh sắc là màu trắng dịu dàng, trong trẻo và tinh khiết của hoa mơ khắp rừng: 'Mùa xuân tràn ngập màu trắng'. 'Tràn ngập màu trắng' làm cho cả khu rừng sáng bừng bởi sắc trắng mơ màng của hoa mơ. Mùa xuân trở nên tươi tắn hơn với hình ảnh con người dệt nón mỗi sợi rơm. Họ thể hiện sự tỉ mẩn, khéo léo và tài hoa trong công việc hàng ngày của mình, là điều làm nên vẻ đẹp tự nhiên của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến với âm thanh vang lên của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu, rừng phách bao trùm vàng óng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Khi tiếng ve vang lên, rừng phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Sự đổ vàng của hoa phách làm cho cả môi trường trở nên sáng sủa hơn, nhấn mạnh thêm sự nồng ấm của mùa hè. Trong một câu thơ, ta cảm nhận được sự thay đổi sống động của thiên nhiên: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè và rừng phách chuyển sang màu vàng tươi. Hình ảnh cô gái mặc áo chàm đi hái măng rừng cho bộ đội kháng chiến được tạo nên với sự tận tâm, thân thiện và quyến luyến. Thơ cũng vẽ nên vẻ đẹp mộc mạc, thơ thương của cô gái đó, đồng thời lồng ghép những cảm xúc sâu sắc của tác giả.
Kết thúc bức tranh tứ bình là mùa thu yên bình, thanh thoát:
Rừng thu trăng sáng lung linh
Nhớ ai ca hát ân tình thủy chung.
Khắp nơi tràn ngập ánh trăng, ánh trăng của sự tự do và hòa bình chiếu sáng lên từng góc của Việt Bắc. Bức tranh mùa thu tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh của vùng đất núi rừng, và câu thơ cuối cùng mang lại cảm giác của tình yêu và sự kính trọng đối với quê hương, đất nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc êm đềm, cảm xúc được thể hiện qua khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, về những anh hùng chiến đấu dũng cảm. Nhà thơ đã truyền đạt những tình cảm sâu sắc của mình đối với Việt Bắc, ca ngợi tình đoàn kết, lòng yêu nước chân chính. Đồng thời, ông cũng nhắc nhở người đọc nhớ về lịch sử kiêng kị của dân tộc, là những trang sử đậm máu và nước mắt, cũng là những trang sử đan xen tình yêu nước.
Việt Bắc bức tranh tứ bình - Mẫu 6
Theo Pauxtôpxki, niềm vui của nhà thơ chính là niềm vui của người dẫn dắt người khác đến với cái đẹp. Đúng với nhận định đó, Tố Hữu đã khai phá cái đẹp của bức tranh tứ bình và cũng làm dẫn dắt tới tình yêu quê hương, đất nước.
Quay về, lòng nhớ ấp ủ
…
Điệu hát ân tình còn vang mãi
Tố Hữu là biểu tượng của thơ ca lý tưởng cộng sản, là lá cờ đầu trong văn học cách mạng Việt Nam. Qua từng giai đoạn lịch sử, ông đã góp phần tạo nên những dấu ấn sâu sắc với tinh thần cách mạng và trí tuệ nhân dân: 'Việt Bắc', 'Gió lộng', 'Ra trận', 'Máu và hoa'… 'Việt Bắc' đặc biệt là tác phẩm vĩ đại nhất của ông, thể hiện sự ca ngợi và đau xót trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Sáng tác vào thời điểm lịch sử đặc biệt, bài thơ này đã truyền đạt những cảm xúc sâu lắng và biểu tượng về vùng đất Việt Bắc.
Hai câu thơ mở đầu chứa đựng cảm xúc chính của toàn bài thơ, là nỗi nhớ mãi về Việt Bắc:
Ta trở lại, lòng còn nhớ mãi
Về với mình, đâu phai chút nào
Đoạn thơ khai mạc bằng một câu hỏi sâu lắng, chạm đến tận sâu tâm hồn và cảnh vật. Sử dụng cách gọi 'Ta - Mình' phản ánh sự gần gũi, ngọt ngào của dân ca, đầy biểu cảm. 'Ta' là người đi, 'Mình' là người ở lại. Từ 'ta' lặp lại bốn lần cùng với 'hoa' tạo âm 'a' mở, khiến cho cảm xúc của người đi trở nên sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ về 'những hoa cùng người'. 'Hoa' là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, còn 'người' là vẻ đẹp của con người lao động. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục đề cập đến hoa, trong khi câu bát nói về người. Hoa và người hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ trung của Tố Hữu. 'Nhớ những hoa cùng người' có thể là nỗi nhớ trong những lúc bâng khuâng, da diết tuôn trào khắp thiên nhiên, núi rừng chiến khu.
Bức tranh mùa đông mở ra vẻ đẹp sống động của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng lấp lánh gắn thắt lòng ta
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc trong tháng 10 năm 1954, khi Bắc Việt Nam đang bước vào mùa đông. Mùa đông không chỉ là thời điểm hiện tại mà còn là cơ hội để mở ra bức tranh tứ bình. Một số ý kiến cho rằng, việc bắt đầu bằng mùa đông trong đoạn thơ này là do Tố Hữu lấy cảm hứng từ chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Khi nói đến mùa đông, người ta thường nghĩ đến cảnh lạnh buốt, cô đơn và u ám. Nhưng trong thơ của Tố Hữu, mùa đông lại hiện lên với sự sống và ấm áp. Màu xanh và đỏ tươi, mặc dù đối lập nhưng lại hài hòa, đem lại nhiều cảm xúc. Màu xanh tượng trưng cho sự sống, trong khi màu đỏ tươi làm ấm áp bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh mùa đông càng sinh động hơn với sự xuất hiện của con người, những người lên núi làm ruộng, sản xuất lương thực cung cấp cho cuộc kháng chiến. Họ tỏa sáng dưới ánh nắng mặt trời, tạo nên hình ảnh đẹp như tranh vẽ.
“Núi rừng đây là của chúng ta
Trời xanh đây là của chúng ta”
(Nguyễn Đình Thi).
Đó là tư thế tự tin và kiêu hãnh của họ. Giữa vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và trời xanh bao la, họ trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Bức tranh mùa xuân rực rỡ sức sống hoang dã và mạnh mẽ của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nếu phương Nam nổi tiếng với sắc vàng của hoa Mai, Hà Nội với màu đỏ của hoa đào, thì Việt Bắc lại đặc trưng bởi màu trắng của hoa mơ. Màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng lan tỏa sức sống mùa xuân. Động từ “nở” làm cho mùa xuân tràn ngập sức sống, khu rừng trắng xóa. Màu trắng như lấn át mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng khu rừng bằng sắc trắng mơ màng, dịu mát của hoa mơ.
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, hiện lên hình ảnh con người lao động đan nón chuốt từng sợi giang. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày, là nét đẹp tần tảo tạo nên vẻ đẹp của con người làm chủ nơi đây.
Bức tranh mùa hạ ở Việt Bắc tỏa sáng vàng như một bức tranh sơn mài kết hợp cổ điển và hiện đại:
Ve kêu rừng phách rộn tiếng vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ đầu tiên vẽ lên hình ảnh tiếng ve và hoa phách, biểu tượng của mùa hạ và mùa hè Việt Bắc. Khi rừng phách rực rỡ sắc vàng, những bông hoa nở rộ tạo nên một khung cảnh tuyệt vời như tranh sơn mài, tươi sáng và sống động. Câu thơ như một tác phẩm nghệ thuật, mê hoặc và cuốn hút người đọc. Tranh mùa hạ như một tác phẩm của các danh họa phương Tây vẽ về mùa thu.
Trong cảnh thiên nhiên rực rỡ ấy, hình ảnh cô gái áo chàm đi hái búp măng để cung cấp cho bộ đội hiện lên: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Trái với hình ảnh cô đơn trong thơ xưa, hình ảnh này toát lên sự cần cù và trách nhiệm của phụ nữ.
Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!
Chẳng trả lời tôi một lời nào
Cứ lặng lẽ đi rồi khuất trong bóng tối
Rừng mơ hiu quạnh, lá mơ rụng
(Nguyễn Bính)
Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh người em luôn đầy tình cảm, lãng mạn và gần gũi. Dù nói về việc 'một mình', nhưng không phải vì cô đơn mà vì cô đang tận hưởng sự đẹp đẽ của thiên nhiên, làm chủ lao động và tự do. Thơ vẽ lên hình ảnh vẻ đẹp tinh tế và đầy lòng thương yêu của người em. Trong đó, có biết bao cảm xúc và sự trân trọng từ tác giả. Cụm từ 'măng - một - mình' tạo nên giai điệu êm đềm, làm cho câu thơ trở nên sâu lắng và da diết. Người ra đi nhưng hồn vẫn lạc trong rừng hoa phách bao la. Và có vẻ như, anh không chỉ nhớ em trong quá khứ và hiện tại mà còn nhớ em trong tương lai, vì ngày mai lại đến, anh sẽ vẫn thương em một mình đơn côi.
Kết thúc bức tranh tứ bình là hình ảnh mùa thu kèm theo tiếng hát của lời chia tay, để lại âm vang của tình bạn và kháng chiến:
“Rừng thu dưới ánh trăng sáng tỏa hòa bình
Nhớ người với tiếng hát trung thành của tình yêu”
Có người đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc rợp hoa đủ màu sắc, nhưng có loài hoa lạ 'Hoa trăng'. Trăng đẹp nhất chính là trăng mùa thu. Có thể vì lẽ đó mà hình ảnh thiên nhiên và con người trở nên gần gũi và ấm áp hơn bao giờ hết. Từ 'rọi' miêu tả được ánh trăng len lỏi khắp không gian, là ánh sáng của tự do, của hòa bình, soi sáng niềm vui trên mọi ngóc ngách của Việt Bắc.
Trong vẻ đẹp rộn ràng của ánh trăng vàng, tiếng hát vang lên. Đó là bản hát trong trẻo của dân tộc, là tiếng hát gợi nhớ đến tình yêu thủy chung. Đó cũng là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng, của những tình cảm gắn bó mãnh liệt trong suốt mười lăm năm:
Mình về thành phố xa lạ
Nhà cao, còn thấy núi đồi không?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Ánh đèn sáng, còn nhớ trăng giữa rừng không?
Đoạn thơ trên gây ấn tượng nhờ vào nhiều kỹ thuật nghệ thuật: hình thức thơ lục bát với giai điệu nhẹ nhàng, lãng mạn, mang hơi hướng dân ca, ca dao sâu sắc. Sử dụng hình ảnh phong phú, động từ và cảm xúc đầy đủ. Sử dụng màu sắc sống động. Từ 'nhớ' biến hóa linh hoạt để gợi lại những cảm xúc khó quên: nhớ mình - ta nhớ hoa cùng bạn; nhớ người đan nón - nhớ cô em gái - nhớ tiếng hát. Tất cả tạo nên một đoạn thơ phong phú về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở ra khía cạnh tình yêu quê hương sâu sắc trong lòng nhà thơ cách mạng - Tố Hữu.
Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc hoàn thiện bức tranh tuyệt vời về núi rừng, khiến người đến và độc giả đều cảm nhận được tình yêu quê hương đậm sâu. Về tình yêu quê hương, nhà văn I-li-a Ê-ren-bua của Nga đã nói: Dòng suối chảy vào sông, sông chảy ra biển Von-ga, con sông Von-ga đổ vào biển. Tình yêu cho quê hương, cho làng xóm, cho miền quê trở thành tình yêu cho Tổ quốc. Nhìn bức tranh tứ bình Việt Bắc, lòng người lại càng yêu quê hương đất nước mình, yêu những vẻ đẹp của quê hương trên mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương không chỉ là yêu văn hóa, yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà còn yêu quê hương, yêu đất nước vì những cảnh đẹp tự nhiên ấy. Tố Hữu đã mang đến trong tâm hồn chúng ta vẻ đẹp của thiên nhiên bốn mùa để chúng ta yêu thương những điều giản dị, thân thiết, gắn bó trong cuộc sống hàng ngày. Thiên nhiên đất nước ta thật đẹp, thật hùng vĩ mà cũng thật lãng mạn. Từ Lũng Cú đến mũi Cà Mau, từ cực Bắc đến cực Nam, từ phía Tây sang phía Đông. Nơi đây có những danh thắng thiên nhiên mà nhân dân đã đóng góp sức lực xây dựng. Những con sông, con suối tự nhiên chảy vào dòng sông thơ mộng, rực rỡ bằng những bài thơ tuyệt vời: sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đà Rằng, sông Hồng 'tiếng hát bốn ngàn năm'. Những ngọn núi Vọng Phu, những đỉnh Trống Mái... do tình yêu thủy chung của con người tạo nên. Thậm chí cả những người dân giản dị cũng đã góp công sức của mình để xây dựng 'tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân'.
Trong không gian đó, con người Việt Nam đã sống, làm việc, yêu thương, đoàn kết, chia sẻ, đồng thời chống lại kẻ thù để bảo vệ độc lập dân tộc. Con người Việt Nam xứng đáng được tự hào, họ là những người 'sống giản dị, chết bình tâm'. Trong thời gian chiến tranh, dù 'trăm thân phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa' nhưng cũng không ngần ngại. Trong thời bình, họ 'cần cù lao động', 'súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa'. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu chuộng hòa bình, tôn trọng danh dự và phẩm giá con người.
Trong thời đại hiện nay, dù sống trong thời kỳ yên bình, chúng ta vẫn cần phải tăng cường cảnh giác trước những biến động phức tạp của khu vực và thế giới, đặc biệt là trong cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu. Khả năng xảy ra một cuộc xung đột là có. Ngày nay, mỗi người trẻ cần tích cực học hỏi để có kiến thức, nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương nếu có biến cố xảy ra. Hãy nhớ rằng: 'Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, đá có thể mòn, nhưng sự chân thành ấy không bao giờ thay đổi' (Hồ Chí Minh). Hãy yêu quê hương từ con đường đi học đến những cành cây, bông hoa, từ giọng nói của thầy cô đến ánh mắt của mẹ cha âu yếm nhìn ta mỗi khi về nhà.
Chúng ta xin cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho chúng ta những bài thơ tuyệt vời về thiên nhiên và con người Việt Bắc, là biểu tượng của cảnh vật và con người Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta nhận ra rằng tình yêu đất nước không phải chỉ ở những nơi xa xôi, mà còn ở những điều bình dị xung quanh ta. Hãy yêu quê hương, yêu đất nước của mình, bởi:
'Ai không nhớ đến quê hương
Sẽ không trưởng thành được'
(Đỗ Trung Quân).
Cảm nhận về bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 7
Với sự dịu dàng, ấm áp và chân thành, những câu thơ của Tố Hữu đã để lại trong lòng độc giả nhiều cảm xúc sâu sắc. “Việt Bắc” là một tác phẩm nổi tiếng mà tác giả viết vào năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh và suy tư trong tác phẩm đã làm cho chúng ta yêu quý và trân trọng hơn tâm hồn và tài năng của Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài thơ cũng là một điểm đặc biệt khiến người đọc cảm thấy ấn tượng sâu sắc.
Sự tình cảm nồng nàn ấy vẫn hiện hữu trong bức tranh tứ bình về cuộc sống và thiên nhiên ở Tây Bắc, đặc biệt là khi nói đến mùa đông:
“Về đây, ta nhớ về đây
Nhớ hoa, nhớ những người ở lại
Rừng xanh, hoa chuối rực rỡ
Đèo cao, nắng sưởi lưng người”
Mùa đông sống động và ấm áp ở vùng núi Tây Bắc đã được nhà thơ mô tả một cách sinh động. Đó là mùa của những mảnh đất được phủ đầy màu “đỏ”, “tươi” của hoa chuối rừng trên nền xanh mướt của cỏ cây rừng, với ánh nắng ấm áp len lỏi khắp nơi, làm cho không gian trở nên rộn ràng. Trên nền thiên nhiên phong phú đó, con người Tây Bắc xuất hiện với vẻ đẹp mạnh mẽ trong công việc lao động: “nắng sưởi lưng người”. Hai từ “nắng sưởi” như làm sáng lên lời thơ, giúp tôn lên vẻ đẹp của con người lao động, những người vươn lên đỉnh cao của ngọn đèo. Mùa đông thường được miêu tả trong thơ là thời gian u ám, se lạnh, với những cơn gió lạnh buốt và không khí u ám. Đông Hồ từng viết:
“Em nhớ: một sáng ngày đông
Gió bấc ào ào, tiếng hò reo
Theo kẽ cửa sổ, gió thổi vẫy
Chỉ nghe gió lạnh lùng thôi”
Hoặc như nhà thơ Ngô Chi Lan đã diễn đạt:
“Bên lò sưởi, ngọn lửa sáng rực
Rượu buồn, lúc sầu giải điều
Tuyết rơi, se lạnh rèm cửa
Gió thổi, mặt sông tan băng”
Trái với tâm trạng buồn rầu, nỗi sầu thương không được gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu viết về mùa đông Tây Bắc với một tinh thần sôi nổi, ấm áp và sôi động. Con người trong bức tranh đó tràn đầy sức sống và hoạt bát.
“Xuân về, hoa mơ nở rợp rừng
Nhớ người dệt nón, những sợi thêu”
Đó là hai dòng thơ lục bát kế tiếp, nhà thơ miêu tả về sự trở lại của mùa xuân và cuộc sống của con người Việt Bắc. Vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng của hoa mơ “nở rợp rừng” đã làm cho lòng người phải xao xuyến. Trên nền cảnh đó, con người hiện ra trong cuộc sống bình dị, đầy màu sắc. Động từ “thêu” đã tinh tế làm nổi bật sự khéo léo, tài nghệ của con người lao động ở đây. Sự thanh nhã, mộng mơ của tự nhiên, sự giản dị, tài năng của con người tạo nên một tác phẩm thơ Tố Hữu nổi bật và ấn tượng.
Nhà thơ Bàng Bá Lân đã thể hiện cảm xúc của mình qua những câu thơ trong bài “Trưa hè”:
“Bầu trời cao vút, không gian bao la
Đồng cỏ xanh mướt, sóng hồng nở hoa
Sóng lúa êm đềm như dải lụa mịn
Tiếng ngựa lững lờ trên đường xa vang
Quán cổ nằm im bên dòng nắng rọi
Bà chủ quán cũ, khách ngủ say sưa
Như thể mồ hôi chảy ròng ròng như tắm
Một chiếc diều đang lơ lửng giữa bầu trời xanh”
Mùa hè trong thơ Bàng Bá Lân hiện ra như thế, yên bình và đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè ở Việt Bắc là:
“Ve kêu trên cành, rừng phách rực vàng
Nhớ cảnh em gái hái măng một mình”
Sắc màu rực rỡ của rừng phách và âm thanh ve kêu rộn ràng được nhà thơ mô tả sinh động. Từ “đổ” trong câu thơ được coi như một biểu tượng hiện nay rõ ràng ý niệm của tác giả. Có lẽ, ông muốn nói đến mối quan hệ đặc biệt giữa âm thanh và màu sắc, tạo ra sự sống động và giao thoa mạnh mẽ của cảnh vật ở đây. Con người Việt Bắc hiện ra với một sự yên bình nhưng vẫn rất hiền lành, là điểm nhấn sâu sắc giữa không gian sôi động của tự nhiên trong mùa hạ.
Được đề cập cuối cùng, nhưng cách nhà thơ diễn đạt về mùa thu vẫn khiến người đọc ấn tượng và nhung nhớ. Một Việt Bắc tinh khôi. Một Việt Bắc thanh bình dưới ánh trăng. Đó là những điều mà chúng ta cảm nhận qua hai câu thơ:
“Rừng thu dưới ánh trăng tỏa sáng
Nhớ ân tình thủy chung trong tiếng hát kỷ niệm”
Trên nền thiên nhiên hiền hòa ấy, con người hiện ra với lòng thương mến thân thiết trong tiếng hát đầy ân tình, là biểu tượng của lòng trung thành sâu sắc của cách mạng.
Để tái hiện bức tranh tứ bình về cảnh thiên nhiên và con người ở Việt Bắc, nhà thơ đã khéo léo kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài nghệ đó đã tạo ra một bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” đặc biệt, ghi dấu trong lòng người đọc qua thời gian, mang lại sự đa dạng cho thể loại thơ về bức tranh tứ bình.
Phân tích về bức tranh tứ bình - Mẫu 8
Việt Bắc không chỉ là quê hương của cách mạng, mà còn là mảnh đất trung du nghèo khó nhưng nặng nề những kỷ niệm, những tình cảm sâu nặng. Đây là nơi chứa đựng những kỷ niệm về thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng, khiến lòng ta không thể không xuyến xao bồi hồi khi nhớ về nó.
Và như thế, sợi nhớ, sợi thương vẫn kết nối, xoắn xuýt như lời gọi 'Ta - mình' của hai tâm hồn yêu nhau. Đúng như bài thơ của Chế Lan Viên đã viết: 'Khi ở đất chỉ là nơi ở/ Khi đi đất, tâm hồn bỗng chuyển biến'. Việt Bắc đã trở thành tâm hồn đậm chất yêu thương trong thơ Tố Hữu, với những dòng thơ như nhạc ngân nga, với cảnh với người ấm áp, đọng lại những kỷ niệm ân tình khó phai.
'Ta về, lòng nhớ ta hiện về
Ta về, nhớ những hoa, những người thân yêu
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Đèo cao, nắng ánh, dao gài thắt lưng
Mùa xuân, hoa nở trắng rừng
Nhớ người, từng sợi giang bày
Ve kêu, rừng phách vàng đổ
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng rọi, hòa bình
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung'
Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, diễn đạt tình cảm cách mạng một cách nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Việt Bắc là nguồn cảm hứng lớn nhất cho ông, là đỉnh cao của thơ cách mạng chống Pháp. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và các chiến sĩ từ chiến khu trở về Thủ đô Hà Nội. Đây là một dòng thơ đầy nỗi nhớ về những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc, những thời khắc đầy khổ đau nhưng cũng đầy hào hứng. Nhưng có lẽ phần ấn tượng nhất trong bài thơ là đoạn mô tả bức tranh tứ bình với bốn mùa.
Bắt đầu với hai dòng thơ giới thiệu tổng quan nội dung của đoạn thơ:
'Ta về, lòng nhớ ta hiện về
Ta về, nhớ những hoa, những người thân yêu'
Sợi nhớ, sợi thương dệt thành điệu 'Mình có nhớ ta', câu thơ tự trả lời tự, từ 'ta' lặp lại bốn lần, âm 'a' mở ra âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng khó khăn 'bát cơm sẻ nửa chăn sui', mà còn nhớ vẻ đẹp yêu dấu của Hoa và Con người. Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Người đại diện cho con người Việt Bắc, với tấm áo chàm nghèo nhưng lòng son sắt. Hoa và Người kết nối với nhau trong vẻ đẹp hài hòa để tạo nên cái nét đặc biệt, riêng của vùng đất này. Điều đó tạo nên cấu trúc độc đáo cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu sáu gợi nhớ về hoa, cảnh, câu tám gợi nhớ về người. Cảnh và Người trong từng câu mang những sắc thái đặc biệt, lôi cuốn.
Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh buốt xương, cái âm u ám của ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn thương của bầu trời âm u. Nhưng khi đến Việt Bắc trong thơ Tố Hữu, mùa đông lại lạ thường ấm áp:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ rực
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'
Trên nền xanh bát ngát của rừng, hoa chuối đỏ tươi bừng nở dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa, bông hoa như những ngọn đuốc sáng rực, tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu 'đỏ tươi' - gam màu nóng của hoa chuối nổi bật giữa màu xanh bát ngát của rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên sôi động, ấm áp và tỏa ra một sức sống, xua tan cái lạnh buốt vốn có của núi rừng. Câu thơ khiến ta nhớ đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương'
Từ liên tưởng ấy, ta cảm nhận được, mùa đông trong thơ Tố Hữu không chỉ mang hơi ấm của mùa hè mà còn có sự lung linh của màu đỏ của hoa chuối, như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng với sự lung linh của hoa chuối là con người của vùng chiến khu lên núi làm ruộng, phát triển sản xuất ra nhiều lúa, khoai cung cấp cho cuộc kháng chiến 'Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'. Trước vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên, con người dường như trở nên tráng lệ, hùng vĩ hơn. Nhà thơ không chỉ miêu tả gương mặt của con người mà còn tạo ra một tâm trạng sáng sủa nhất. Đó là ánh mặt trời chiếu lên lưỡi dao rừng trên lưng. Câu thơ vừa sử dụng ngôn ngữ thơ mà còn chứa đựng ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một điểm sáng trong không gian. Con người đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - 'đèo cao'. Con người trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa đông qua đi, mùa xuân lại đến. Khi nhắc đến mùa xuân, ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cây cỏ, hoa lá, của hàng trăm loài đang thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'
Bao phủ trên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: 'Ngày xuân mơ nở trắng rừng'. 'Trắng rừng' được viết theo phép đảo ngữ và từ 'trắng' được sử dụng như động từ để nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như làm chủ toàn bộ màu xanh của lá, và làm sáng tỏ khu rừng bằng sắc trắng mơ màng, dịu mát của hoa mơ. Động từ 'nở' tạo ra sức sống mùa xuân lan tỏa và phong phú. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng đó, năm 1941, Việt Bắc đã đón chờ Bác Hồ trong màu sắc của hoa mơ:
'Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ'
Mùa xuân trở nên tươi tắn hơn với hình ảnh con người 'chuốt từng sợi giang'. Con người hiện diện đẹp tự nhiên trong những công việc hàng ngày. Từ 'chuốt' và hình ảnh thơ đã thể hiện được bàn tay lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến với tiếng ve rộn rã, bức tranh Việt Bắc sống động hơn bao giờ hết:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình'
Khi ve kêu, rừng phách đổ vàng. Động từ 'đổ' mạnh mẽ, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và tiếng ve kêu râm ran trở nên óng vàng. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ bằng hoài niệm, nên ánh sáng, màu sắc và âm thanh rực rỡ. Tố Hữu không chỉ có tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn trong việc diễn đạt sự thay đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ, ta thấy được sự sống động của thời gian luân chuyển: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách nhuốm màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện đặc sắc của bản sắc dân tộc.
Trong cái thiên nhiên ươm vàng rực rỡ, là hình ảnh cô gái áo chàm cẩn thận đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: 'Nhớ cô em gái hái măng một mình'. Hái măng một mình mà không gợi lên cảm giác cô đơn nhưng lại đầy trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương. Hình ảnh thơ cũng gợi lên vẻ đẹp chịu khó và tình thương của cô gái. Đằng sau đó, chứa đựng biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng tự do, hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng đã biết đến mùa thu trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
'Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về'
Ở đây không cần tiếng chuông báo chiến thắng mà lại vọng lên tiếng hát. Đó là giai điệu trong trẻo của người dân tộc, là những âm điệu gợi nhớ tình thân thiết và trung thành. Đây chính là âm nhạc của Việt Bắc, của núi rừng, của những mối quan hệ sâu đậm kéo dài mười lăm năm.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn thiện bức tranh tuyệt vời của núi rừng và kết thúc bằng tiếng hát 'thủy chung và ân tình', làm cho người đọc nhớ về cảm xúc sâu xa của tình yêu đất nước.
Với những nét vẽ đơn giản nhưng tinh tế, vừa mang dáng vẻ cổ điển lại vừa hiện đại, đoạn thơ của Tố Hữu đã nổi bật bức tranh mùa và người qua bốn mùa ở Việt Bắc. Cảnh vật và con người tương hợp nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi, sống động và đầy hồn. Tất cả đã trở thành niềm nhớ và lòng trung thành sâu sắc trong lòng người cán bộ trở về.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 9
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông đóng vai trò như một vũ khí, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, đồng thời phản đối sự xâm lược của kẻ thù.
Bài thơ 'Việt Bắc' được viết trong thời gian tác giả ở vùng Việt Bắc. Nó thể hiện tình cảm sâu đậm giữa quân và dân khi chia tay, bao gồm cả những cảm xúc nghẹn ngào.
Bài thơ truyền đạt một tình cảm chân thành giữa quân và dân, do tác giả Tố Hữu thể hiện. Những từ ngữ giản dị, mộc mạc gần gũi, khiến cho người đọc cảm nhận được sự thiêng liêng và nặng nề của tâm trạng chiến sĩ.
Bài thơ Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát gần gũi, dễ hiểu. Tác giả Tố Hữu linh hoạt sử dụng so sánh và ẩn dụ để thể hiện sự tinh tế trong ngôn từ. Bức tranh về thiên nhiên và con người Việt Bắc được phác họa rất tươi đẹp.
Ta nhớ mình xa quê hương
Nhớ hoa và người ấm thân
'Ta' và 'mình' thể hiện mối gắn bó của quân dân như người thân trong gia đình, như bạn tri kỷ. Khi phải xa cách, nỗi nhớ và lưu luyến tràn ngập không gian.
Tác giả Tố Hữu đã rất khéo léo khi dẫn dắt độc giả đến với những cảnh đẹp thơ mộng của núi rừng Việt Bắc, tạo nên một mùa đông ấm áp, đong đầy tình yêu và hy vọng của những người dân hiền lành ở đây.
Rừng xanh hoa chuối đỏ phấn khích
Đèo cao nắng chiếu đường thôn dã
Thiên nhiên của Việt Bắc mở ra một thế giới kỳ diệu, làm cho người đọc phải say mê, bởi vẻ đẹp tinh tế của núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi sáng giữa cái lạnh của mùa đông tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vô cùng sống động, ấm áp và đẹp đẽ với sắc đỏ của hoa chuối rừng, thể hiện nét quyến rũ đặc biệt của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh cô gái đi hái măng, lấy nấm với chiếc dao sắc bén như vũ khí bảo vệ mình, là biểu tượng của sự sinh động trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Ánh nắng mùa đông làm cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là sự u ám, ảm đạm như chúng ta thường thấy trong những bài thơ miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn tươi sáng, vẫn tràn đầy sức sống, hấp dẫn lòng người.
Ngày xuân mơ mộng bung lụa rừng
Nhớ người đan nón gài tung bông sợi phấn
Trong hai câu thơ này, tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi chuyển sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ nở vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ khiến người đọc mê mải trước vẻ đẹp của thiên nhiên ở đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi dây để làm bánh chưng, bánh tét, làm nón lá làm cho không khí mùa xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào.
Hình ảnh của thiên nhiên tươi đẹp luôn kết hợp với những con người ở đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc, ông cũng nhớ về những con người, những hoạt động của họ, thể hiện tình cảm sâu đậm của ông với miền đất này mà ông đã gắn bó suốt 15 năm.
Ve kêu rừng phách rơi vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Khi mùa hè đến, tiếng ve kêu là dấu hiệu rõ ràng. Mùa hè là thời điểm sôi động, hoàn toàn khác biệt so với mùa đông ấm áp và mùa xuân tươi mới. Khi mùa hè đến, tiếng ve kêu rền vang trên núi rừng Việt Bắc, màu vàng của phách kết hợp với tiếng ve làm cho thiên nhiên ở đây trở nên sống động hơn. Tiếng ve vang lên, đánh tan sự yên bình, thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thời gian.
Bức tranh về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, huyên náo tiếng ve kêu. Tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với hình ảnh con người trong mỗi bức tranh, thể hiện sự giao hòa tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên ở đây.
Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc, tác giả đã khéo léo kết hợp thiên nhiên với hình ảnh người con gái hái măng, một hình ảnh gần gũi nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.
Rừng thu trăng chiếu ánh bình yên
Nhớ giọng hát ân tình, trung thành
Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc rất dịu dàng, nên thơ với ánh trăng chiếu sáng bình yên, thể hiện sự trọn vẹn, trung thành như một phần của người dân ở đây với cách mạng, với những chiến sĩ dũng cảm đã hy sinh để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất này.
Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là một người rất sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tự nhiên, con người Việt Bắc tươi đẹp, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Phân tích về bức tranh tứ bình - Mẫu 10
Khi nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến, không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn chứa đựng những hình ảnh trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:
'Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng chiếu sáng thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách rơi vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi ánh bình minh
Nhớ giọng hát ân tình, trung thành'
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và chứa trong đó một nỗi nhớ nhung sâu sắc cùng tấm lòng trung thành của tác giả và những người cán bộ dành cho Việt Bắc:
'Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'
Hai câu thơ đặt ra lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Câu 'ta về' mở đầu như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Đẹp ở câu thơ là hình ảnh 'hoa cùng người', liệu con người có phải là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh này tạo nên sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp theo là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thực cùng với những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng chiếu sáng thắt lưng'
Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng Việt Nam.
Trong cái nền xanh tươi của rừng sâu, những bông hoa chuối đỏ tươi nổi bật, làm cho núi rừng không còn lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng gặp trong bài thơ Tây Tiến: 'Mường lát hoa về trong đêm hơi'. Màu 'đỏ tươi' của hoa chuối như làm tan đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chứa đựng sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương'
Trong cánh rừng ấy, vẻ đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
'Đèo cao nắng chiếu sáng thắt lưng'
Người Tây Bắc khi vào rừng luôn mang theo một con dao găm ở thắt lưng để chiếu sáng đường đi và phòng vệ. Tác giả không chỉ miêu tả ánh sáng chiếu xuống lưỡi dao ở thắt lưng mà còn thể hiện sự rực rỡ của con người dưới ánh nắng. Đây là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh và vẻ đẹp của con người Tây Bắc giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
Đông đã qua, xuân đang đến. Mùa xuân ở Việt Bắc trở nên lung linh với sắc trắng của hoa mơ làm sáng bừng cả khu rừng:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'
Khi nhắc đến mùa xuân, ta nghĩ đến thời tiết dễ chịu, cỏ cây bắt đầu mọc, lá non nảy lộc, tạo nên bức tranh sống động. Tác giả miêu tả mùa xuân ở Việt Bắc với từ ngữ độc đáo: 'mơ nở trắng rừng'. Cách diễn đạt 'trắng rừng' không chỉ là màu sắc mà còn là sự lan tỏa của sắc trắng hoa mơ, làm cho không gian trở nên trong lành, dịu mát.
Trong cảnh hoa mơ trắng, nhìn thấy hình ảnh người lao động chăm chỉ, tài năng: 'chuốt từng sợi giang'. Đây là biểu tượng của sự tinh tế và sự khéo léo trong lao động hàng ngày của người Việt Bắc.
Mùa hè đến, tiếng ve vang lên khắp núi rừng:
'Ve kêu rừng phách rụng vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình'
Tiếng ve làm lá phách rụng vàng, tượng trưng cho sự chuyển mùa từ xuân sang hè. Hình ảnh 'cô em gái hái măng một mình' thể hiện sự cô đơn nhưng cũng toát lên vẻ đẹp của sự kiên trì và sự chịu khó trong lao động hàng ngày.
Mùa thu đến Việt Bắc, ánh trăng len lỏi trong rừng làm cho không khí trở nên mơ màng, êm đềm. Giữa khung cảnh trăng thu ấy, tiếng hát trầm bổng, đầy tình cảm của người dân Việt Bắc lại vang lên, làm ấm lòng người:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'
Không chỉ có chiến thắng, mà còn có tiếng hát chân thành của người dân Việt Bắc, là biểu tượng của tình thân ái gắn bó với núi rừng Tây Bắc suốt mười lăm năm. Tiếng hát 'ân tình' đóng góp vào bức tranh về thiên nhiên và con người, gợi lên những cảm xúc sâu lắng về tình yêu đất nước.
Nếu câu lục mô tả cảnh vật thì câu bát diễn đạt về con người. Điều đặc biệt của bài thơ là sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh nơi đây đẹp, lãng mạn, trữ tình, là nền tảng hoàn hảo cho hình ảnh của những con người Việt Bắc: đáng yêu, chăm chỉ, giàu lòng nghĩa, thủy chung, và kiên định.
Với những nét vẽ đơn giản, mộc mạc, bức tranh tứ bình Việt Bắc thể hiện sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tạo ra một bức tranh toàn diện về cuộc sống và thiên nhiên. Đoạn thơ này là một phần không thể tách rời trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu, khi nói về Việt Bắc, ta nghĩ ngay đến những tấm lòng hồn hậu, giàu tình cảm và trung thành.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 11
'Việt Bắc' - một bài thơ lục bát với sự tráng lệ của một trường ca kéo dài 150 câu, tràn đầy cảm xúc và cảm nhận sâu sắc. Xuất hiện vào tháng 10 năm 1054, trong niềm vui giải phóng Thủ đô Hà Nội, bài thơ của Tố Hữu thể hiện một cách chân thành mối tình sâu sắc với Việt Bắc, tình yêu dành cho cách mạng và cuộc kháng chiến.
Đoạn thơ từ câu 43 đến câu 52 trong bài 'Việt Bắc' tả lên những nỗi nhớ cháy bỏng, thủy chung với Việt Bắc:
'Ta về mình có nhớ ta,
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Hai câu thơ đầu tiên là câu hỏi - câu trả lời của 'ta', của những người cán bộ kháng chiến trên đường về, họ tự hỏi 'có nhớ ta không'. Dù đi xa, dù chia cắt nhưng trái tim của họ vẫn trung thành với Việt Bắc: 'Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'. Từ 'ta', từ 'nhớ' được nhấn mạnh để thể hiện lòng trung thành kiên định. Sự nhớ nhung đó dành cho 'những hoa cùng người', dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc thân thương:
'Khi về, lòng ta vẫn nhớ chính mình,
Khi về, ta nhớ những hoa cùng người'.
Hai từ 'mình - ta' thường xuất hiện trong bài thơ, cũng như trong hai dòng thơ này đã thể hiện một cách đẹp đẽ tình yêu đôi lứa hòa quyện trong tình yêu với Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên sâu lắng như âm nhạc giao duyên. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu.
Tám dòng thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát kể lại một kỷ niệm cụ thể về một cảnh sắc, một người cụ thể trong bốn mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông, nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ tươi của hoa chuối như những ngọn lửa soi sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương về rẫy, dao gài thắt lưng, đứng mạnh mẽ, hào hùng trên đèo cao, dưới ánh nắng... Con dao của họ phản chiếu ánh nắng, tạo ra hình ảnh rất gợi cảm:
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'.
Màu 'xanh' của rừng, màu 'đỏ tươi' của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của 'nắng ánh' từ con dao; sự hòa hợp này làm bừng sáng sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc, họ đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống trong kháng chiến. Tố Hữu đã hiểu rõ sức mạnh tinh thần của cách mạng và kháng chiến đang làm chủ tập thể của dân tộc. Người lao động sản xuất hùng mạnh đứng trên 'đèo cao' ngập nắng và gió. Đoàn dân công trong chiến dịch với 'bước chân nát đá muôn tàn lửa bay'. Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
'Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo'.
('Lên Tây Bắc')
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ 'nở trắng rừng'. Từ 'trắng' không chỉ là màu sắc mà còn là một bổ ngữ, tạo ra hình ảnh hoa mơ trắng rực rỡ bao phủ khắp nơi, tạo nên thế giới trắng xóa, thanh khiết. Cách sử dụng từ ngữ tinh tế của Tố Hữu gợi lại câu thơ của Nguyễn Du về một xuân thơ mộng, trinh bạch trong 'Truyện Kiều':
'Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'.
Nhớ về 'mơ nở trắng rừng', nhớ những người thợ thủ công đan nón 'chuốt sợi giang'. 'Chuốt' ở đây mang ý nghĩa làm cho sợi giang trở nên sáng bóng, tỉ mỉ, kiên nhẫn mới có thể 'chuốt từng sợi giang' để đan thành những chiếc nón, mũ phục vụ cho kháng chiến, để anh bộ đội mang theo 'ánh sao trên mũ nan cùng súng bạn'. Người đan nón là biểu tượng cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của người dân Việt Bắc. Mùa xuân ở Việt Bắc thật đáng nhớ:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt sợi giang'.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu tạo nên khúc nhạc của rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô gái đi 'hái măng một mình' giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô gái hái măng một mình'.
Một chữ 'đổ' đầy tài năng. Tiếng ve kêu như làn sóng 'đổ' tràn xuống thúc đẩy ngày hè trôi nhanh, khiến cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có một câu thơ sử dụng từ 'đổ' để diễn đạt cảm giác tương tự: 'Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá...' (Thơ duyên - 1938). Câu thơ 'Nhớ cô gái hái măng một mình' là một câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, âm điệu. Có vần lưng: 'Gái' vần với 'hái'. Có điệp âm qua các phụ âm 'm': 'măng - một - mình'. Đây là những vần thơ đầy hứng khởi, tạo ra một không gian nghệ thuật đẹp và sôi động, đầy âm thanh. 'Cô gái hái măng một mình' không cảm thấy cô đơn, vì cô đang làm việc trong âm nhạc của rừng, hái măng để giúp đỡ quân đội phục vụ cho cuộc chiến tranh. Cô gái hái măng là biểu tượng của sự trẻ trung, yêu đời trong thơ của Tố Hữu.
Nhớ mùa hè và nhớ mùa thu ở Việt Bắc, nhớ mãi không nguôi, nhớ ánh trăng ngàn, nhớ những giai điệu hòa âm:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Trăng xưa 'rải vàng trên lá cây, bóng sân bóng lồng'. Trăng ở Việt Bắc trong thơ của Bác Hồ là 'trăng treo cao bóng hoa treo lồng'. Những người chiến sĩ về thăm nhớ về vầng trăng của Việt Bắc giữa rừng thu, trăng sáng qua tán lá rừng xanh, trăng mát dịu màu 'hòa bình' đầy cảm xúc. 'Ai' ở đây là đại từ nhân xưng mập mờ, 'nhớ ai' là nhớ về mọi người dân Việt Bắc giàu lòng trung thành, đã hy sinh cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên thể hiện tình yêu thương sâu sắc. Tình cảm đậm đà như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người đi, mình nhớ mình, nhớ người. Tình cảm đó rất sâu nặng, đong đầy ân tình thủy chung. Thời gian có thể trôi qua, nhưng những tiếng hát ân tình thủy chung ấy sẽ mãi là dấu son đỏ rực trong lòng người.
Đoạn thơ này mô tả vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình tuyệt vời, đậm chất dân tộc. Khởi đầu từ mùa đông năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp, đến mùa thu tháng 10 năm 1954, Hà Nội giải phóng - Tố Hữu cũng biểu hiện nỗi nhớ về Việt Bắc qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng lịch sử. Mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng biệt, tràn đầy sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh của hòa bình. Thiên nhiên ở Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thật tuyệt vời, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nhắc đến không phải là những ngư dân, thợ săn, nông dân, mà là những người đi nương, những người đan nón, những cô gái hái măng, những ai đang hát những giai điệu ân tình thủy chung. Tất cả đều phản ánh phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc: chăm chỉ, làm chủ thiên nhiên và cuộc sống trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung, lạc quan, yêu đời, trung thành với cách mạng và kháng chiến.
Một dòng thơ ngọt ngào, tha thiết, xen vào lòng người đọc. Sự nhớ nhung được thể hiện trong 'Việt Bắc' cũng như trong đoạn thơ này là một nét đẹp trong phong cách của Tố Hữu: trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình ảnh đẹp, phong phú, sâu lắng. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: 'Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay...'
Thơ thực sự 'là hình ảnh, là bức tranh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la' (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ này đánh thức trong ta tình yêu và tình mến với Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ 'nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp', để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 12
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ vĩ đại, thơ ông liên kết với cách mạng. Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Vì vậy, các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một di sản văn chương phong phú, giàu giá trị với phong cách trữ tình - chính trị sâu sắc, mang đậm bản sắc dân tộc. Bài Việt Bắc là điển hình. Có thể nói, tinh hoa của tác phẩm được lưu truyền trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
'Trở về, lòng ta nhớ về mình
Trở về, ta nhớ hoa và người thân'
Rừng xanh, hoa chuối sắc thắm
Đèo cao nắng gắt dao gài thắt lưng
Mùa xuân mơ màng trắng xóa
Nhớ người đan nón tỉ mẩn
Ve kêu rừng vàng óng ánh
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng soi ánh bình minh
Nhớ ân tình tiếng hát thắm thiết'
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thành công. Các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu là một trong những cán bộ gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để trở về thủ đô. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.
'Trở về, lòng ta nhớ về mình
Trở về, ta nhớ hoa và người thân'
Đoạn thơ mở đầu bắt đầu với một câu hỏi tu từ. Nhưng câu hỏi chỉ là lời cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người trở về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của người cán bộ kháng chiến trở về. Ta hỏi lòng ta có nhớ về mình. Người cách mạng trở về hỏi về Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình, dù có ở nơi xa xôi, dù có xa cách, nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ 'ta' và 'nhớ' được lặp lại thể hiện lòng thủy chung sâu sắc. Nỗi nhớ hướng về 'hoa và người thân' đề cập đến thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc. 'Hoa' là biểu tượng của hương sắc, còn 'người' là biểu tượng của đời sống xã hội. Xét cho cùng, 'người ta là hoa của đất'. Hai từ này được đặt cạnh nhau làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng bừng không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Các câu thơ tiếp theo mô tả chi tiết, chân thực vẻ đẹp của bốn mùa trong chiến khu. Cảnh vật và con người hòa quyện vào nhau. Mỗi câu thơ tả cảnh lại đi kèm với một câu thơ tả người. Mỗi mùa mang một vẻ đẹp đặc trưng riêng, tạo thành một bức tranh tứ bình rực rỡ ánh sáng, màu sắc, âm thanh, ấm áp.
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao, nắng ánh, dao gài thắt lưng'
Bức tranh tứ bình mở đầu bằng khung cảnh mùa Đông. Tác giả chọn mùa Đông làm đầu vì thời điểm sáng tác vào tháng 10 năm 1954, là mùa Đông ở Việt Bắc tạo cảm hứng cho ông viết về mùa này trước.
Nhớ về mùa Đông Việt Bắc, tác giả không nhớ đến giá rét, mà nhớ đến những ngày ấm nắng rực rỡ. Màu xanh của núi rừng Việt Bắc nổi bật cùng màu đỏ tươi của hoa chuối, tạo nên bức tranh sáng rực, xua tan đi bóng tối, lạnh lẽo. Đằng sau hình ảnh đó là người nông dân lao động leo đèo cao đi làm nương rẫy, tạo nên hình ảnh khỏe khoắn, rực rỡ. Tố Hữu sử dụng ngôn từ một cách sáng tạo để tôn vinh hình ảnh người lao động.
Kết thúc mùa Đông, Tố Hữu dẫn chúng ta đến mùa Xuân ấm áp hơn.
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'
Mùa xuân - hình ảnh bông hoa 'mơ nở trắng rừng' là loài hoa đặc trưng của mùa xuân ở Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa hết cả khu rừng. Không phải là màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du 'cành lê trắng điểm một vài bông hoa'. Đó là màu trắng tinh khiết, tinh khôi, làm cho núi rừng Việt Bắc trở nên tươi mới. Và sau cái mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy, nhà thơ lại nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh 'người chuốt từng sợi giang' đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón, vật dụng không thể thiếu cho cuộc sống hàng ngày của người dân ở đây.
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình'
Khi tiếng ve vang lên, đó là dấu hiệu của mùa hè. Rừng phách đột ngột chuyển màu vàng. Sự thay đổi này khiến cho người ta có cảm giác rằng khi tiếng ve vang lên, lá cây phách từ xanh chuyển sang vàng. Cả không gian của Việt Bắc như được nhuộm đầy màu vàng rực rỡ. Trong cái sắc vàng ấy, hình ảnh cô em gái hái măng tỏa sáng. Ở đó, ta có thể cảm nhận được sự cần mẫn, cần cù và siêng năng. Măng là loại rau cung cấp dinh dưỡng cho bộ đội cách mạng. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự yên bình, thư thái. Câu thơ gợi nhớ câu ca dao:
'Trám bùi để rụng, măng mai để già'
Nếu mùa đông có hoa mơ, mùa xuân có hoa chuối, mùa hè có hoa phách vàng thì mùa thu có gì? Mùa thu không có hoa mà có con người. Con người là loài hoa đẹp nhất. 'Người ta là hoa của đất'.
Trái ngược với thời kỳ văn học trung đại, khi mà thiên nhiên được coi là tiêu chuẩn của cái đẹp, văn học hiện đại lại chú trọng vào con người làm tiêu chuẩn của cái đẹp. Điều này được minh họa rõ qua câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung'
Nếu câu thơ lục tả ánh trăng, thì câu thơ bát tả 'tiếng hát ân tình'. Mối liên kết giữa 'trăng - nhạc' đã tạo ra vẻ đẹp lãng mạn, lung linh. Dù đất nước đang trong thời kỳ kháng chiến, nhưng trong những dòng thơ của Tố Hữu, chúng ta chỉ cảm nhận được sự yên bình, hòa bình và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ dày tình thương, nỗi nhớ đầy sâu đậm vào cảnh vật và con người. Khi ở xa nhau, mỗi người đều nhớ về người kia. Tình cảm đó rất thiêng liêng, đầy ân tình thủy chung. Dù thời gian trôi qua, nhưng tình thủy chung giữa Việt Bắc và con người vẫn mãi đậm sắc, in hằn trong lòng người.
Tóm lại, qua 10 câu thơ, Tố Hữu đã kết hợp hài hòa giữa việc tả cảnh và tả người. Sự hòa quyện ấy tạo nên một bức tranh tự nhiên, đẹp đẽ và đầy màu sắc. Từ đó, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung đối với những con người hiền hòa ở đây. Tình yêu và tự hào của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Mỗi người chúng ta cũng cần phải biết đến các địa danh của đất nước, yêu thương và tự hào về vẻ đẹp tuyệt vời của chúng. Điều quan trọng nhất, chúng ta không bao giờ nên quên công ơn to lớn của những người chiến sĩ đã hi sinh, xây dựng đất nước yên bình, xinh đẹp như ngày hôm nay.
...................
Đề nghị quý vị tải File tài liệu để đọc thêm về bài phân tích về bức tranh tứ bình ở Việt Bắc