Phân tích Mị giải thoát cho A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm 14 bài văn mẫu siêu hay. Qua phân tích nhân vật Mị trong đêm giải thoát cho A Phủ các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
TOP 14 bài Mị giải thoát cho A Phủ cực chất dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm một số bài văn mẫu như: mở bài Vợ chồng A Phủ, phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật A Phủ.
Đề bài: Nhận xét về hành động cắt dây trói cứu A Phủ của nhân vật Mị trong đoạn trích truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, có ý kiến cho rằng: Đây là hành động hoàn toàn mang tính tự phát. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Đây là hành động mang tính tất yếu thể hiện bản chất con người Mị. Bằng hiểu biết về tác phẩm, hãy làm sáng tỏ quan điểm của anh/chị.
Dàn ý phân tích hành động giải thoát của Mị
1. Mở đầu
- Tổng quan về tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ' của tác giả Tô Hoài.
- Đề cập đến hành động cứu A Phủ của nhân vật Mị.
2. Nội dung chính
a. Thông tin tổng quan về nhân vật Mị
- Tiểu sử trước khi vào làm dâu nhà thống lí: Xinh đẹp, tài năng trong việc thổi sáo, yêu đời,...
- Sau khi bị bắt về làm vợ chồng: Bị trói buộc, phải chịu sự áp bức.
b. Phân tích tâm lí dẫn đến hành động cứu A Phủ trong đêm đông của Mị
- Tâm trạng của Mị trước khi cứu A Phủ
- Tâm trạng của Mị khi nhìn thấy giọt nước mắt lấp lánh trên gò má đã xám xịt của A Phủ
- Hành động cứu A Phủ bằng cách cởi trói:
- Từ lòng thương mình đến lòng thương người
- Mị đứng im trong bóng tối, sau đó bất ngờ chạy theo A Phủ
c. Ý nghĩa của hành động cứu A Phủ trong đêm đông của Mị
- Hành động cắt dây cởi trói diễn ra mạnh mẽ và quyết đoán, cho thấy nhân vật đã tự giải thoát khỏi sự trói buộc của quyền lực.
- Thể hiện rõ sự trỗi dậy mạnh mẽ của lòng sống trong tâm hồn nhân vật Mị
- Kỷ luật tài năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
3. Kết luận
Nhấn mạnh ý nghĩa của hành động cởi trói của Mị đối với giá trị nhân đạo của tác phẩm
Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 1
Nhà văn người Nga Léc – môn – tốp từng viết: “Cũng có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thao thức, lòng ngập tràn nhung nhớ, … Khi đó, tôi viết”. Bất kỳ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng bắt nguồn từ một trái tim dạt dào xúc cảm với đời của nhà cầm bút. Để từ trái tim một con người, văn phẩm neo đậu mãi trong lòng người đọc bao thế hệ. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số đó. Đây là tác phẩm sâu nghĩa nặng Tô Hoài dành cho mảnh đất, con người Tây Bắc đã được gửi trọn vẹn qua thiên truyện ngắn xuất sắc nhất đời văn của ông. Những trang văn viết về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thực sự là những trang viết ấn tượng, đầy xúc động, đặc biệt qua hai đoạn trích: “Bây giờ Mị cũng không nói … váy hoa vắt ở phía trong vách” và “lúc ấy trong nhà đã tối bưng, … thì thào một tiếng “Đi ngay!”…”
Trần Đăng Khoa từng nhận xét, Tô Hoài như “một pho sách sống mà không học giả, viện sĩ nào có thể so sánh được”. Không chỉ là một người có sức sáng tạo dồi dào, ông còn có những hiểu biết sâu rộng về những vùng miền của đất nước sau nhiều chuyến đi thực tế. Tô Hoài đến với mảnh đất Tây Bắc năm 1952 trong chuyến đi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, văn nhân cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc để tích lũy vốn sống, để tăng tình cảm gắn bó, để tìm cảm hứng với đồng bào nơi đây. Và từ nơi ấy, “Vợ chồng A Phủ” ra đời. Câu chuyện viết về số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động trước Cách mạng. Nhưng bằng sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, họ đã vươn lên để bước sang một trang đời tươi sáng, hạnh phúc. Những trang văn viết về sự trỗi dậy sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ không chỉ thể hiện được sự tài hoa cùng ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài mà còn cho ta thấy khát vọng sống mãnh liệt của người lao động nghèo vùng cao.
Trước đó, Tô Hoài đã miêu tả Mị là một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, thổi sáo giỏi và có tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Không chỉ có vậy, cô còn là một người con gái hiếu thảo và yêu lao động. Thế nhưng, trớ trêu thay, do nhà nghèo, bố mẹ Mị khi lấy nhau phải vay tiền nhà thống lí Pá Tra, đến tận khi mẹ Mị mất rồi, bố già yếu mà vẫn chưa trả hết nợ. Cô bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, làm vợ của A Sử nhưng họ sống với nhau mà không có lòng với nhau. Và từ đây, chuỗi ngày địa ngục của Mị với thân phận con dâu gạt nợ mở ra. Mị không chỉ bị chà đạp về thể xác, mà còn phải chịu biết bao đau đớn về tinh thần. Ngày tháng trôi đi, sức sống tràn đầy của Mị ngày nào, giờ đây dường như đã ngủ yên, thay vào đó là sự lầm lũi, cam chịu. “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tày ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi”. Mị sống mà mà như chỉ tồn tại. Thế nhưng, bằng ngòi bút nhân đạo, trái tim ấm nóng tình người của mình, Tô Hoài đã phát hiện ra: “Ở trong hình ảnh con rùa lùi lùi ấy, còn có một con người”. Sự biến chuyển về tâm lí của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả thành công, từ đó đã làm sáng lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của cô trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Đoạn trích thứ nhất đã khắc họa một cô Mị đang đắm chìm trong hạnh phúc, đang nghĩ về những cuộc chơi xuân, để từ đó có những hành động mà lần đầu xuất hiện kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lí. Trạng ngữ chỉ thời gian “bây giờ” nói đến thời điểm hiện tại, khi Mị đang ngược về quá khứ theo men say của rượu và tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Trước đó, bằng ngòi bút tả thực cùng sự am hiểu về phong tục tập quán các vùng miền, Tô Hoài đã khắc họa chân thực bức tranh mùa xuân về trên Hồng Ngài với màu sắc rực rỡ, sự no đủ và những hoạt động của đồng bào nơi đây. Thế nhưng, trái ngược với bức tranh đầy sức sống đó, cô Mị lại thờ ơ, vô cảm, dường như không quan tâm đến bất kỳ thứ gì xung quanh. Năm nay, cô lén uống rượu, cô uống “ừng ực từng bát” và như một thói quen, cô đi thẳng vào căn buồng kín mít với một lỗ vuông bé bằng bàn tay của mình. Mị ngồi trên giường, không làm gì cả. Có thể nói, từ khi bước chân vào nhà thống lí, vào căn buồng được coi như thứ ngục thất trần gian này, Mị dường như chỉ tồn tại với một cái xác không hồn, làm việc theo bản năng, chứ không hề có cho mình những xúc cảm riêng. Nhưng đêm nay lại khác, cô ngồi trên giường nhưng lòng cô đi theo men rượu, đi theo tiếng sáo để về với một thời quá khứ tươi đẹp. Mị nhận ra mình còn trẻ, còn nhiều khát vọng: “Mị muốn đi chơi”. Việc nhớ về quá khứ đã làm sống dậy một cô Mị trước khi vào làm dâu nhà thống lí, làm dấy lên sức sống tiềm tàng trong cô. Từ đó, Mị có những hành động của một con người đang thực sự sống, của một cô gái đang độ tuổi tươi đẹp.
“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đèn”. Câu văn mộc mạc, nhịp nhàng và chậm rãi nhưng lại gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mới lạ. Không cần đi tìm, Mị một mạch tiến đến góc nhà, thắp lên cây đèn đã lâu chưa được cô ngó ngàng tới. Vậy là cây đèn vẫn luôn ở đó như biết trước rằng, rồi sẽ lại có một ngày nó được thắp sáng lên bởi bàn tay của Mị. Mị biết vị trí của cây đèn rất rõ nhưng tại sao trước đó, cô lại không thắp lên? Đó hẳn là vì sự chai lì, sự vô cảm của Mị với đời, khiến cô không còn quan tâm đến việc căn phòng sáng hay tối nữa. Cho đến hôm nay, khi sức sống căng tràn nơi nơi trái tim Mị, cô “xắn một miếng mỡ” bỏ vào đèn làm bừng sáng cho gian phòng vốn tăm tối. Hành động thắp đèn của Mị không chỉ là thắp sáng căn phòng, mà còn là thắp lên ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong lòng cô nữa. Căn phòng giờ đây không còn mang dáng vẻ của ngục thất trần gian, dáng vẻ của “nhà mồ chôn sống” nữa mà nó đã trở thành không gian sống, một không gian thực thụ của con người, dành cho con người. Chỉ bằng một hành động và câu văn nhỏ bé vậy thôi nhưng Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ bên trong Mị.
Không chỉ qua hành động thắp đèn, sức sống của Mị còn được hiện lên qua hành động “cuốn lại tóc, với lấy cái váy hoa”. Tiếng sáo rập rờn trong đầu như đưa Mị đến gần với những cuộc vui của ngày trước. Khát khao được vui tươi, được đi chơi của Mị dâng trào một cách mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cô để ý, chăm chút lại mái tóc thanh xuân của mình, thay một cái váy hoa, chuẩn bị đi chơi. Trái tim cô đang rạo rực với ý nghĩ được đi chơi thì A Sử về. Y cùng với sợi dây trói đã chặn đứng khát vọng của cô. Hạnh phúc bỗng vụt tắt, cô lại trở về thành cô Mị vô cảm, thờ ơ với cuộc đời. Đêm tình mùa xuân khép lại, dù chưa có những hành động bứt phá nhưng có thể thấy, lớp băng phủ quanh trái tim của Mị đã dần xuất hiện vết nứt, chỉ chờ một sự tác động nữa là lớp băng ấy sẽ tan biến. Cô Mị với khát vọng sống mãnh liệt sẽ hoàn toàn phục sinh. Và tác nhân ấy sẽ xuất hiện trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Chính nhờ giọt nước mắt của A Phủ, trong Mị đã trỗi dậy lòng thương mình, tình thương đồng loại để từ đó có những hành động bất ngờ, táo bạo, tất yếu. “Lúc ấy” là giữa đêm đông khuya khoắt, lạnh lẽo. Dù không gian bên ngoài giá lạnh, nhưng dường như trái tim của Mị lại ấm nóng hơn bao giờ hết. Phải chăng, giọt nước mắt của A Phủ đã chảy vào lòng Mị, làm tan đi cái lạnh giá nơi trái tim cô. Ngọn lửa Mị vẫn ngồi hơ tay mỗi đêm đã lụi tàn, bóng tối bao trùm cả không gian, nuốt chửng Mị. Thế nhưng, thay vì nhóm lửa lại, Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Hành động của Mị chỉ là “rón rén”, vì đây chỉ là hành động bộc phát, bất ngờ, không có sự chuẩn bị từ trước. Mị “rón rén” vị sợ bị phát hiện, sợ A Sử phát hiện. Nhưng cắt dây trói xong, chính bản thân cô cũng hoảng hốt trước hành động của chính mình. “Mị hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay””. Có thể nói, cô hốt hoảng vì cô chưa từng nghĩ, mình lại có thể làm được những hành động như thế này. Trước kia, cô chỉ bằng lòng, yên phận sống một cuộc đời “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, sống mà chỉ như là tồn tại. Cô nghĩ rằng, cuộc đời này sống làm người nhà thống lí, chết làm ma nhà thống lí, rồi cũng sẽ có một ngày rũ xương ở cái nơi địa ngục trần gian này thôi, chứ cô chưa bao giờ nghĩ rằng, mình lại có thể quyết liệt đến vậy. Tiếng thì thào của Mị như một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, làm điểm sáng cho đoạn trích này. Trong cả tác phẩm, dù là nhân vật chính, nhưng Mị lại chỉ có đúng ba câu nói: một câu nói với cha và hai câu nói với A Phủ. Và tiếng thì thào “đi ngay” của Mị nói với A Phủ là tiếng nói được cất lên từ đáy lòng Mị sau rất nhiều năm sống câm lặng ở ngôi nhà này. Nhưng cũng từ đó, ta thấy được tình thương người lớn hơn thương thân của Mị, đặc biệt thấy được cả sức sống tiềm tàng nơi cô. Hai tiếng “đi ngay” ấy là lời của Mị nói với A phủ, nhưng dường như cũng là lời nói với chính mình để sau đó, cô cũng chạy đi theo A Phủ. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị. Các câu văn ngắn, nhiều dấu phẩy tạo nên giọng văn gấp rút như men theo những chuyển biến tâm lí tinh vi ở Mị. Tác giả dường như đã hóa thân vào nhân vật để lột tả được hết những tâm trạng của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Hai đoạn văn đã phác họa một cách sinh động những biến cố tâm lý phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ, từ đó, đem đến cho độc giả cái nhìn rõ nét về sức sống tiềm ẩn sâu trong con người Mị, luôn bùng cháy mạnh mẽ dưới những cơn gió thổi mạnh. Ở đoạn đầu, chúng ta thấy một cô Mị trẻ trung, vẫn khao khát cuộc vui, mê mải trong niềm vui, sức sống trong cô hiện lên rực rỡ. Trong khi đó, ở đoạn sau, một cô Mị tràn đầy tình yêu thương, tình cảm với người khác (là A Phủ) xuất hiện, là dấu hiệu cho sự trở lại hoàn toàn của Mị. Con người cô quay trở lại với những gì đẹp nhất, tràn đầy sức sống và khao khát tự do nhất - giống như những ngày trước khi bước chân vào nhà thống lí Pá Tra. Như vậy, qua hai đoạn trên, chúng ta thấy Mị thực hiện những hành động mà trước đây cô không bao giờ nghĩ rằng mình có thể làm, đó là biểu hiện rõ nét nhất của ngọn lửa sức sống tiềm ẩn đang bùng cháy trong Mị. Ngọn lửa ấy chưa bao giờ bị dập tắt, chỉ bị những thế lực tàn ác của thần quyền và cường quyền làm yếu đi, chờ đợi ngày được bùng cháy. Từ đó, chúng ta nhận ra thông điệp mà Tô Hoài gửi gắm qua truyện ngắn này: sức sống, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người là bất diệt, dù có bị các thế lực tối ác chèn ép, đẩy đến bi kịch đến như thế nào cũng sẽ vẫn luôn cháy, và chắc chắn sẽ có một ngày bùng cháy mạnh mẽ.
Thành công của thiên truyện Vợ chồng A Phủ không chỉ nằm ở nội dung mà còn nằm ở nghệ thuật. Với cách kể chuyện hấp dẫn, các tình tiết được dẫn dắt một cách khéo léo, Tô Hoài dễ dàng đưa người đọc theo dõi dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị một cách tự nhiên, không ép buộc. Ngôn ngữ phong phú, giàu sức tạo hình mang đậm màu sắc miền núi cùng với hàng loạt danh từ, động từ mạnh mẽ đã giúp nhà văn mô tả tâm trạng của nhân vật Mị một cách rõ ràng. Đặc biệt, lối viết trực tiếp, bút pháp biện chứng tâm hồn tinh tế, tinh tế đã giúp nhà văn đưa người đọc gần hơn với những cảm xúc trong lòng Mị, đồng cảm với Mị. Từ đó, một cô Mị với tâm hồn sâu sắc, sức sống tiềm ẩn, mãnh liệt và trái tim nhân hậu, đầy yêu thương đã hiện ra.
Tô Hoài đã từng chia sẻ về truyện ngắn của mình như sau: “Dù trong cùng cực đến thế nào, mọi thế lực của tội ác cũng không thể giết chết được sức sống của con người. Dù đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm ẩn, mãnh liệt”. Đọc những lời chia sẻ đó của Tô Hoài, tôi mới thấu hiểu hơn về tình yêu của ông đối với đất đai và con người Tây Bắc. Tô Hoài yêu và hiểu nhân vật của mình, vì vậy ông đi sâu vào từng dòng tâm trạng, cử chỉ, hành động và lời nói của họ để khám phá ra những viên ngọc ẩn sau lớp tro tàn trong lòng những kiếp cùng cực đó. Hai đoạn tâm trạng của Mị ở trên cũng như truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói chung đã thể hiện tình yêu thương, đôi khi là đau đớn của Tô Hoài. Ông cảm thấy đau lòng trước những lần Mị bị đày đọa trong những phận trâu ngựa, trong cơn đòn roi hoặc trong tù tội tinh thần. Ông tức giận với bọn chúa đất miền núi với quyền lực và thần quyền nặng nề bám riết vào con người, làm cho họ sống kiếp mòn đi, thờ ơ với mọi điều. Nhưng điều quý giá nhất mà độc giả nhìn thấy là tấm lòng cần cù tìm kiếm viên ngọc ấm trong lớp tro tàn của Mị. Mị với khao khát sống, khao khát hạnh phúc mãnh liệt không bao giờ phai nhạt. Cũng vì điều đó, nhà văn muốn mở ra một con đường giải thoát cho nhân vật, muốn đưa con người ra khỏi bóng tối và đi vào ánh sáng tự do. Mị giải phóng A Phủ, nhưng cô cũng tự giải phóng bản thân mình. Sau đó, hai mảnh đời ấy sẽ hòa quyện vào nhau và tiến tới con đường chân lý - con đường cách mạng. Đọc những dòng văn tươi đẹp của “tấm lòng vàng” này, tôi cảm thấy băn khoăn về cuộc đời mà con người bị vùi vào bóng tối. Nhưng hơn hết, tôi biết Tô Hoài muốn nhắn gửi chúng ta, rằng con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn ẩn chứa những khát vọng đẹp. Hãy cứu giúp, cứu lấy con người khỏi bóng tối khi còn kịp!
Sê - khốp từng nói: “Nhà văn trước hết phải là nhà nhân đạo từ tận tâm”. Nếu không có một trái tim đầy lòng yêu thương, đồng cảm với những số phận đau khổ, bị áp đặt bởi các thế lực tàn ác, đày đọa, thì Tô Hoài đã không thể viết nên những trang văn tuyệt vời và xúc động như vậy. Và nếu không có một bút nhân đạo, Tô Hoài đã không thể khám phá được sức sống mãnh liệt vẫn luôn ẩn sâu trong Mị cũng như trong những người dân lao động ở vùng cao Tây Bắc. Một tấm lòng đẹp đã tỏa sáng trong văn chương Việt Nam, một sức sống đẹp đã nảy nở trong kho tàng văn học dân tộc. Và từ đó, một nhà văn cùng những tác phẩm xuất sắc đã ra đời. Người ta sẽ khó mà quên những câu chữ hồn nhiên từ tuổi thơ trong vương quốc của dế mèn, cũng không thể không cảm nhận được những dòng văn phong phú, thấm đẫm không khí thời đại trong “Chuyện cũ Hà Nội” hay những trang văn tràn ngập sắc màu cuộc đời trong “Vợ chồng A Phủ”. Dù là khi còn nhỏ hay đã trưởng thành, người ta vẫn muốn đến với ông - trên chuyến thuyền chở hồn văn của Tô Hoài.
Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ - Mẫu 2
Cuộc đời và văn học luôn đi đôi với nhau, và văn chương thường phản ánh chân thực về đời sống. Tô Hoài viết 'Vợ chồng A Phủ' để tái hiện cuộc sống của các dân tộc Tây Bắc trong thời kỳ cách mạng. Nhân vật Mị được miêu tả sâu sắc nhất, là biểu tượng của người phụ nữ Tây Bắc: đau khổ nhưng vẫn giữ được sức sống tiềm ẩn. Trích đoạn Mị cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ của Tô Hoài.
Tô Hoài là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học cận đại Việt Nam. Qua tập truyện 'Truyện Tây Bắc', ông đã khắc họa sinh động cuộc sống và con người vùng Tây Bắc. 'Vợ chồng A Phủ' là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, thể hiện tinh thần kiên cường của nhân dân miền núi.
Tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài được viết dựa trên trải nghiệm thực tế khi ông ở và làm việc cùng người dân các bản làng mới giải phóng ở Tây Bắc. Ông đã chân dung một cách đẹp đẽ tinh thần và quan niệm nhân sinh của mình qua nhân vật Mị, một biểu tượng cho sức sống và tinh thần bất chấp.
Mị, một lúc trước còn là bông hoa ban tươi sáng, giờ đây lại trở thành người phụ nữ buồn khổ, tủi nhục. Cuộc sống tươi đẹp, tự do đã biến mất, thay vào đó là những giọt nước mắt, những ký ức xa xôi, ngoài tầm với. Mị bị đày đọa, chai sạn dưới bàn tay ác độc của hủ tục và cường quyền.
Dù cuộc đời Mị có chấm hết, nhưng sức sống và khát khao hạnh phúc vẫn ẩn sau vẻ lầm lũi, câm lặng. Tô Hoài không để nhân vật của mình chìm trong đau khổ, mà thông qua họ, ông nêu bật hành trình hồi sinh, khát vọng sống của Mị. Điều này thể hiện tinh thần cao quý của nhà văn.
Đêm hội mùa xuân chứng kiến sự thay đổi trong tâm hồn Mị. Dù đã trải qua nhiều khổ đau, Mị vẫn bị cuốn hút bởi tiếng sáo và tiếng gọi của bạn bè ở trại gái Hồng Ngài. Khi nghe thấy tiếng sáo, trái tim Mị như được hồi sinh, tin vào cuộc sống tươi đẹp hơn. Tuy nhiên, hy vọng của Mị bị dập tắt khi bị trói bởi A Sử. Mặc cho những khó khăn, Mị vẫn không ngừng hy vọng vào một ngày giải phóng, đỉnh điểm là khi cô cởi trói cho A Phủ.
Mặc dù lạnh lùng và vô cảm, nhưng giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị nhớ lại nỗi thống khổ của mình. Sự đồng cảm đã thúc đẩy Mị vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu, cởi trói cho A Phủ. Sau nhiều năm sống im lặng và cô đơn, trái tim của Mị cuối cùng đã lên tiếng, không chỉ vì bản thân mà còn vì người dân Tây Bắc.
Ngọn lửa bếp đã tắt, nhưng một ngọn lửa mới đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị. Mặc cho sợ hãi, Mị đã vượt qua để cởi trói cho A Phủ. Đêm đó là định mệnh, giúp Mị và A Phủ thay đổi cuộc sống của họ cho tươi đẹp hơn.
Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lý của Mị trong cuộc trốn chạy. Đêm đó là nguồn động lực giúp Mị chiến thắng mọi nỗi lo sợ và giải phóng bản thân cô và A Phủ.
Trong quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ không chỉ cần chú ý đến kỹ thuật mà còn cần phải truyền tải những thông điệp nhân đạo sâu sắc nhất. Tác phẩm của Tô Hoài đã thể hiện rõ tư tưởng và tinh thần nhân đạo, đồng thời tố cáo sự đày đọa của chế độ phong kiến miền núi. Nhân vật Mị không chỉ là biểu tượng cho sự hy sinh và đấu tranh của người dân Tây Bắc mà còn là điểm sáng về sự đổi mới trong văn học của tác giả.
Tô Hoài đã khẳng định vị thế của mình trong thể loại truyện ngắn thông qua sự tự nhiên và sinh động trong cách kể chuyện cũng như hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của Tây Bắc. Tác phẩm của ông không chỉ đơn thuần là việc khắc họa nhân vật mà còn là sự hòa mình vào thế giới nội tâm của họ, thể hiện sự đồng cảm và yêu thương đối với người dân miền núi.
Sự ham sống và khát khao tự do của nhân vật Mị cũng như những nhân vật khác trong văn học đã góp phần tạo nên bức tranh toàn cảnh về người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Mặc cho khó khăn, họ vẫn nuôi dưỡng ngọn lửa sáng trong lòng, hy vọng vào một tương lai tươi sáng, tự do hơn.
Tô Hoài đã khắc họa Mị với ngòi bút tài hoa và tình cảm sâu sắc, thể hiện sự bất khuất và tình yêu đời trong tình hình khó khăn. Hình tượng Mị không chỉ là biểu tượng cho sự hy sinh và đấu tranh của người phụ nữ Tây Bắc mà còn là động lực cho các thế hệ sau học tập và theo đuổi tư tưởng của mình.
Mở ra một con đường mới cho nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện tư tưởng tiến bộ và tinh thần nhân đạo qua sự phản kháng và tự do của họ. Tác phẩm của ông không chỉ là một câu chuyện về cuộc đời của hai người mà còn là tấm gương cho xã hội hiểu biết và thấu hiểu về khó khăn của người dân miền núi.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, sự hấp dẫn không chỉ đến từ việc tái hiện hiện thực cuộc sống miền núi Tây Bắc mà còn từ sự bất ngờ của số phận nhân vật. Mị, một người con gái trẻ xinh đẹp, đã trải qua những biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời, từ sự thăng trầm đến hành động bất ngờ giải thoát cho A Phủ.
Hành động giải thoát A Phủ của Mị không chỉ đơn thuần là một hành động lạ lùng mà còn là sự khám phá lại khao khát sống của cô sau những thời điểm tăm tối. Sự thương cảm trỗi dậy trong Mị khi thấy A Phủ chịu đau khổ đã cho thấy bản năng sống còn của cô.
Việc Mị giải thoát cho A Phủ và cùng anh ta bỏ trốn khỏi Hồng Ngài phản ánh bản chất chống lại sự áp đặt, bất công của cô. Mặc cho khó khăn, Mị vẫn luôn muốn sống và chiến đấu cho sự tự do của mình.
Những hành động của Mị trong Vợ chồng A Phủ cho thấy sức mạnh và ý chí phi thường của con người khi đối diện với những tình huống đặc biệt. Mị luôn khát khao sống và không ngừng phản kháng trước sự định đoạt của số phận.
Chuỗi sự kiện đời Mị trong Vợ chồng A Phủ đã tạo nên một hình ảnh rõ nét về bản chất và ý chí sống mãnh liệt của con người. Mị đã vượt qua tất cả để tìm đến cuộc sống tự do, thể hiện rõ sức mạnh và quyết tâm của mình.
Phân tích đoạn Mị cởi trói cho A Phủ điểm cao - Mẫu 4
Văn chương không chỉ là niềm vui bình sinh mà còn là động lực để vượt qua khó khăn. 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài là minh chứng cho sức mạnh tiềm ẩn trong con người, giúp họ thay đổi cuộc đời chỉ bằng một hành động nhỏ nhưng ý nghĩa.
Tô Hoài đã khám phá một mảnh đất mới trong văn học cách mạng viết về miền núi Tây Bắc. 'Vợ chồng A Phủ' là một trong những tác phẩm đáng nhớ nhất, với sức mạnh truyền cảm và ý nghĩa sâu sắc về sự sống và tự do.
Trong 'Vợ chồng A Phủ', gương mặt buồn của Mị là biểu hiện của sự mất mát và đau khổ do sự bóc lột của xã hội. Nhưng nhờ sự sống động trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tìm lại khát vọng sống.
Mị ban đầu không chịu xót thương cho A Phủ vì đã quá quen với cảnh áp bức. Nhưng nhờ sự hiểu biết và đồng cảm, Mị đã cởi trói cho A Phủ, thể hiện sức mạnh của lòng nhân ái.
Một giọt nước mắt lấp lánh trên hai gò má đã xám đen của Mị khiến cô nhớ lại quá khứ, nhớ lại những đêm bị trói đứng như A Phủ, những giọt nước mắt không thể rơi. Từ việc nhớ đến việc thương người, Mị căm ghét thế lực tàn ác đã gieo rắc đau khổ cho những số phận như cô. Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát và mình đứng thay vào dây trói đó. Dù thế nào, đó chỉ là những tưởng tượng xa xôi.
Mị quyết định cởi trói cho A Phủ, chỉ thì thào một tiếng: 'Đi ngay'. Rồi Mị đứng im trong bóng tối, căng thẳng, hồi hộp trước quyết định quan trọng. Câu văn đứng riêng là khoảnh khắc quyết định cả cuộc đời và số phận của Mị. Đó là bản lề mở cánh cửa cho cuộc đời Mị: từ nô lệ đến tự do, từ cái chết đến sự sống, từ bóng tối đến ánh sáng. Cuối cùng, Mị chịu bước đi sau nhiều năm quỳ gối, theo A Phủ, nói: 'A Phủ, cho tôi đi', 'Ở đây thì chết mất'. Mị chọn trốn thoát khỏi địa ngục, trốn thoát khỏi cái chết. Hành động cởi trói cho A Phủ không chỉ giúp anh ta thoát khỏi sợi dây trói vật chất, mà còn giúp Mị thoát khỏi sợi dây vô hình của nỗi sợ hãi, buông bỏ khổ đau và tăm tối. Mị giải thoát cho A Phủ bằng con dao nhỏ, và giải thoát cho mình bằng khao khát sống. Khao khát sống đã giúp Mị thoát khỏi địa ngục tăm tối, mang lại sự sống.
Tô Hoài với ngòi bút tài hoa đã tái hiện không gian Tây Bắc vào đêm, với những nhân vật tỏa sáng dưới ngọn lửa. Nhân vật Mị được miêu tả trong quá trình từ tình thần phế vật đến biết cảm xúc, đấu tranh cuối cùng đến hành động nhanh chóng nhưng hợp lý và logic. Tác giả đã sâu sắc và cảm động miêu tả sức sống tiềm ẩn của Mị. Sức sống đó như ngọn lửa cháy mãnh liệt không dễ dàng bị dập tắt. Đó là niềm tin vững chắc của Tô Hoài vào khả năng tự giải phóng để đến với tự do, cách mạng của những người lao động vùng cao bằng năng lượng tự thân. Đó chính là giá trị cốt lõi của con người.
Khi một tác phẩm kết thúc, sự sống của nó mới thực sự bắt đầu. Sự sống của Mị, của “Vợ chồng A Phủ” vẫn tiếp tục, dù dấu chấm hết đã đặt, và sẽ tồn tại mãi cho đến khi con người cần niềm tin, cần sức mạnh và cần “vịn vào để đứng dậy”.
Phân tích Mị cởi trói cho A Phủ - Mẫu 5
Giá trị nhân đạo được coi là một trong hai dòng tư tưởng chủ đạo xuyên suốt văn học Việt Nam. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, mà cần gặp gỡ giá trị nhân đạo mới mẻ của ngòi bút Tô Hoài trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Thông điệp của nhà văn được kết tinh trong đoạn văn Mỵ cởi trói cho A Phủ trong đêm đông.
Nhà văn Tô Hoài tìm kiếm cái đẹp thực sự giữa cuộc sống, 'cho dù phải phá vỡ những thần tượng trong lòng độc giả'. Sau chuyến đi của nhà văn và bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, tám tháng gắn bó với đồng bào tạo nên cảm hứng sáng tác “Vợ chồng A Phủ” trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Tác phẩm khám phá vẻ đẹp tâm hồn người lao động và niềm thấu hiểu nỗi thống khổ của con người nơi đây những năm cách mạng chưa về. Giá trị nhân đạo mới mẻ được thể hiện qua nhân vật Mỵ và A Phủ.
Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, A Phủ 'mắc tội' đánh A Sử - con quan vì hắn dẫm đạp lên lệ làng. Sau đó, A Phủ bị bắt làm con ở gạt nợ cho nhà thống lý. Một lần, A Phủ mải mê bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò nên bị thống lý trói đứng vào một cây cột trong góc nhà giữa cái lạnh cắt da, cắt thịt của vùng cao. Trước những đêm đông trên núi cao và buồn, Mỵ cứ 'thản nhiên' thổi lửa, hơ chân tay. Chứng kiến cảnh hành hạ người ăn kẻ ở trong nhà thống lý không khiến cô bận tâm. Mỵ dửng dưng trước nỗi đau đồng loạt, nhưng Mỵ không phải không có trái tim mà đáng thương hơn đáng trách. Bởi đó cũng chính là sản phẩm của chuỗi ngày đau khổ nàng sống không bằng chết. Tuy Mỵ không bị chói nhưng thực chất họ giống nhau ở thân trâu, kiếp ngựa trong phận tôi đòi.
Có lẽ Mỵ vẫn vô cảm như thế cho đến khi thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ cũng như chứng kiến giọt châu của loài người muốn níu giữ cuộc sống mà đành bất lực. Hình ảnh đó khiến nàng nhớ lại đời mình, “đêm năm trước A Sử trói Mị, nhiều lần khóc không biết lau đi được”. Niềm thương thân dẫn lối tới sự thương người, giúp Mỵ biết căm phẫn kẻ gieo giắc cái khổ của đời mình. Lúc đó, cô tưởng tượng ngay cảnh mình cởi trói cho A Phủ, đến hôm sau bị trói thay vào chỗ đó. Nhưng Mỵ không thấy sợ bởi đó chỉ là mường tượng, khoảng cách xa thực tại. Suy nghĩ đó là chất xúc tác, dẫn tới hành động logic đưa Mị tới quyết định “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Chi tiết “đám than đã vạc hẳn lửa” chỉ thời gian, ánh sáng ngoại lai tắt dần khi lửa lòng đã đủ sáng, đủ sưởi ấm. Khi được giải thoát, A Phủ khuỵu xuống bởi bụng đói, cật rét, miệng khát nhưng chợt thấy nghe tiếng thì thầm “Đi ngay”, giữa ranh giới sự sống và cái chết mong manh, A Phủ bừng tỉnh “quật sức vùng lên, chạy”.
Sau khi cởi trói cho A Phủ, “Mị đứng lặng trong bóng tối”, câu văn ngắn đứng một dòng. Đứng trước thời gian quyết định, như ngừng lại, tựa như tấm bản lề khép mở hai trang đời của Mị hoặc ở lại hoặc trốn đi, giữa nô lệ và tự do, sống hay chết, bóng tối hay ánh sáng. Mỵ lặng đi xét suy, bởi cô vẫn lo sợ trước sức mạnh của thần quyền và uy quyền bủa vây suốt đời mình. Cuối cùng, nàng chọn nẻo đường thứ hai, nói theo hơi gió thốc “A Phủ cho tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”. Mỵ cũng trốn chạy cái chết, hành động cởi trói cho A Phủ giống như cô tự giải cứu cho mình. Nếu nàng giải phóng cho A Phủ bằng con dao nhỏ thì khát vọng sống mở đường cho Mỵ. Chi tiết khép lại nhưng hứa hẹn bao điều tốt đẹp về cuộc sống mới.
Tác phẩm ra đời trong bước thở sôi nổi của văn học cách mạng, khi văn chương trở thành vũ khí, nhà văn trở thành chiến sĩ trên mặt trận. Ngòi bút của Tô Hoài lúc ấy nâng lên góc nhìn nhân đạo đặc biệt với sự cảm thông cho thân phận người lao động dưới bóng ách thống trị của chúa đất, chúa mường.
Khen ngợi sức sống tiềm ẩn của những người cùng chịu khổ, và niềm tin vào khả năng tự giải phóng của người lao động, hướng tới tự do để thay đổi cuộc sống. Tầm nhìn thời đại cách mạng cho tác giả một cái nhìn tích cực về đời sống của nhân dân không chỉ xem họ là nạn nhân mà còn xem họ là chủ nhân khi bước từ bóng tối ra ánh sáng. Tư tưởng của tác phẩm chạm đến chân lý ngàn đời của con người về khao khát sống, khao khát tự do, nên “Vợ chồng A Phủ” vượt lên sự tàn phá của thời gian.
Phân tích về hành động cởi trói của Mị - Mẫu 6
Sự kiện Mị cởi trói, giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho mình trong truyện Vợ chồng A Phủ là một sự kiện then chốt, thể hiện rõ chủ đề và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Xây dựng sự kiện này, nhà văn Tô Hoài đã chứng tỏ tài năng xuất sắc trong nghệ thuật xây dựng truyện và khắc họa tính cách nhân vật.
Thời điểm Mị cởi trói phản ánh sự phát triển tự nhiên của cốt truyện. Nhà văn đã chuẩn bị và tạo ra sự diễn biến hết sức tự nhiên để sự kiện xảy ra như một điều không thể tránh khỏi. Trước sự kiện này, người đọc chỉ thấy Mị là một con người không còn ý thức về sự sống, sống như chết (Ở lâu trong cơn khổ, Mị quen với khổ rồi. Bây giờ Mị cứ tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi chỗ từ tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm thôi. [...] Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa) nên sự trỗi dậy của Mị thiếu điểm tựa, sẽ trở nên cưỡng ép, không tự nhiên. Tuy nhiên, Tô Hoài đã rất tinh tế và sâu sắc khi trước đó đã đặt sự ham muốn sống, khao khát hạnh phúc, ý thức về cuộc sống của Mị thức dậy trong đêm mùa xuân. Từ những tác động, kích thích của không khí đầy sức sống của mùa xuân, từ tiếng sáo gọi bạn tình và cả men rượu, trong Mị đã dần hồi sinh những ký ức, những khao khát của tuổi trẻ đã từng có trong mình, kéo theo là ý thức về thời gian, cuộc sống, thân phận. Và Mị thắp cho đèn sáng hơn, quấn tóc lại, lấy váy hoa chuẩn bị đi chơi. Ngay cả khi bị A Sử trói vào cột nhà, Mị vẫn rất mạnh mẽ với niềm khao khát sống. Gần hơn với sự kiện cởi trói, không ngẫu nhiên đúng đêm đó Mị ra ngồi thổi lửa, hơ tay, hơ lưng mà đây là việc đã trở thành thói quen của Mị từ trước, , ngay cả khi A Phủ đã bị bắt trói: Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị nhìn sang, thấy mắt Ả Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Cho đến đêm diễn ra sự kiện cởi trói, khi Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mờ, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại thì trong Mị mới chợt trào lên nỗi đồng cảm trước tình cảnh đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ. Ban đầu là sự đồng cảm của người cũng đã từng phải chịu đựng cảnh trói đứng như thế, rồi Mị liên tưởng đến việc từng có người phụ nữ bị bắt trói cho đến chết ở nhà này. Ý thức phản kháng bắt đầu nhen nhóm: Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đến mai là người kia chết, chết đau, chả đói, chết rét, phải chết. [...] Người kia việc gì mà phải chết thế.. Đến thời điểm Mị nghĩ đến việc phải trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy mà Mị cũng không thấy sợ thì sự đồng cảm, ý thức phản kháng đã đủ để biến thành hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ. Ngay sau đó, lòng ham sống, hy vọng sống, ý thức về sự sống của mình bừng lên trong Mị và chị chạy theo A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời nô lệ của mình.
Như vậy, từng bước, theo sự phát triển của cốt truyện và diễn biến tâm lí nhân vật, hành động cởi trói của Mị là một lựa chọn nghệ thuật đáng giá. Trong việc khắc họa tính cách nhân vật, có thể liên kết những biểu hiện nhất quán: từ ý định tự tử đến ý định đi chơi trong đêm mùa xuân và cuối cùng là việc cởi trói. Điều đó cho thấy, sự sống, ý thức và niềm khao khát về hạnh phúc chưa bao giờ tắt trong con người Mị, có khi nó được bộc lộ, có khi là một sức sống mãnh liệt. Khẳng định điều này, Tô Hoài đã rõ ràng thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
Phân tích hành động cởi trói của Mị - Mẫu 7
'Vợ chồng A Phủ' là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Tô Hoài. Với tình yêu và kiến thức sâu rộng về văn hóa và phong tục tập quán của nhiều miền đất, tác giả đã mô tả cuộc sống của con người Tây Bắc một cách chân thực, sinh động. Từ tác phẩm, độc giả có thể thấy được vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên núi rừng cũng như cuộc sống lao động và số phận của con người dưới ách áp bức của cường quyền và sự trói buộc của thần quyền. Tuy nhiên, điều nổi bật nhất là khát vọng tự do và sức sống tiềm ẩn của người lao động Tây Bắc được thể hiện rõ qua nhân vật Mị, đặc biệt là hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ của Mị.
Bằng những lời giới thiệu đặc biệt, Tô Hoài đã khơi dậy sự tò mò về số phận của một cô gái xinh đẹp nhưng thân phận lại 'không bằng con trâu, con ngựa' trong nhà thống lí Pá Tra: 'Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường thấy một cô gái quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, bên cạnh tàu ngựa'. Ít ai ngờ rằng, Mị từng là cô gái trẻ xinh đẹp, thổi sáo rất giỏi với niềm đam mê cuộc sống tự do và là ước mơ của biết bao chàng trai. Mị chính là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống của người phụ nữ núi rừng Tây Bắc, tự nhiên và phong phú. Nhưng người con gái xinh đẹp, tài năng đó lại trở thành nạn nhân của hủ tục và cường quyền bạo lực. Sau khi bị A Sử bắt về, Mị bị trói buộc, áp bức về cả thể xác lẫn tinh thần và chỉ được xem như một công cụ lao động, sống qua ngày âm thầm như một cái bóng.
Trước khi cứu A Phủ, đã có lúc sức sống tiềm ẩn trong Mị bùng cháy. Đó là khi ánh sáng le lói của niềm ham muốn sống lắng nghe, cảm nhận được tiếng sáo gọi bạn tình vang vọng khiến tâm hồn của Mị 'thiết tha bổi hổi'. Sự thay đổi của môi trường khi mùa xuân đến cùng hơi men rượu cay nồng cũng là yếu tố kích thích khiến Mị 'phơi phới trở lại' và nhận ra rằng 'Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi'. Tuy nhiên, khao khát vừa mới nảy nở đó của Mị đã bị A Sử dập tắt.
Trước khi thấy A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn lạnh lùng, vô cảm và tưởng chừng như không còn cảm xúc, bởi Mị đã quá quen với những cảnh áp bức và bóc lột mà cha con thống lí Pá Tra gây ra. Nhưng khi thấy dòng nước mắt lấp lánh 'chảy xuống gò má đã xám đen lại' của A Phủ, tâm trạng của cô gái 'Sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi' bắt đầu trải qua những biến động mạnh mẽ. Ban đầu, sự đồng cảm và tình yêu thương bắt đầu trỗi dậy trong tâm hồn của một cô gái đã tưởng như đã tê liệt với cảm giác về cuộc sống. Mị nhớ lại đêm mà A Sử tàn nhẫn trói Mị, Mị thương mình và thương người. Mị thoáng nghĩ đến hình phạt mà Mị sẽ phải chịu khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi, tình yêu thương, sự đồng cảm đã chiến thắng và trở thành động lực thúc đẩy Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Sau hành động mạnh mẽ đó, Mị đứng im trong bóng tối và nhanh chóng theo đuổi A Phủ, giải thoát bản thân thoát khỏi sự áp bức của cường quyền thống lí Pá Tra.
Hành động cắt dây cởi trói diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt, cho thấy nhân vật đã tự giải thoát bản thân khỏi sự trói buộc của cường quyền. Đồng thời, thể hiện rõ sức mạnh và ý chí tiềm ẩn trong tâm hồn nhân vật Mị. Nếu trong đêm tình mùa xuân, ý thức về cuộc sống, về tuổi trẻ mới chỉ bắt đầu nảy nở thì hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ đã thể hiện rõ ngọn lửa của sự phản kháng táo bạo vẫn luôn đốt cháy trong tâm hồn Mị, bởi 'cái cọc' và 'dây mây' - hai dụng cụ được sử dụng để trói A Phủ - chính là biểu tượng cho ách thống trị và tàn bạo của cường quyền. Hành động này cũng là sự thể hiện của khát vọng tự do luôn sống động trong tâm hồn của cô gái tưởng chừng đã mất đi niềm tin vào cuộc sống. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Từ đêm tình mùa xuân đến đêm cắt dây cởi trói cho A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát bản thân khỏi 'gông xiềng' của cường quyền.
Qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được sức mạnh tiềm ẩn mãnh liệt luôn tồn tại trong tâm thức của cô gái yêu tự do và ham sống, không bị bất kỳ sự trói buộc nào có thể dập tắt. Đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ'.
Phân tích hành động cởi trói của Mị - Mẫu 8
Tô Hoài là một nhà văn với sức sáng tạo vượt trội trong văn học Việt Nam hiện đại, với gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện... và 'Vợ chồng A Phủ' được coi là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc. 'Vợ chồng A Phủ' đã thành công trong việc mô tả thực tế cuộc sống của người dân miền núi dưới sự thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở ra con đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ không tự nguyện – Mị và A Phủ. Trong đó, hành động cởi trói cho A Phủ của Mị đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc.
Tóm lại, 'Vợ chồng A Phủ' là câu chuyện về Mị và A Phủ, hai người trẻ tuổi, đầy sức sống, yêu đời và tài năng nhưng lại trở thành nô lệ, mang theo số phận trâu ngựa, bị áp bức bởi thực dân phong kiến, đặc biệt là gia đình thống lý Pá Tra. Mị từng là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết 'trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị', hiếu thảo 'Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu', tài năng 'Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi'. Trong khi đó, A Phủ bị mất mát từ nhỏ nhưng lại không chịu số phận đau khổ, và có bản lĩnh hơn người. Mị vì món nợ gia đình trở thành con dâu gạt nợ, trong khi A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi tuổi trẻ dưới ách thống trị của nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị tỉnh lại quá khứ tươi đẹp nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ bị trói đứng nhiều đêm vì mất một con bò. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị vô cảm, nhưng sau đó lòng thương người trỗi dậy, và cô quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị một cách sinh động và tinh tế.
Trước khi cởi trói cho A Phủ, Mị vô cảm. Sau khi về làm dâu gạt nợ, thực ra là con ở không công nhà thống lý, Mị bị đày đọa về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài nhiều lần so sánh Mị với loài vật 'Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi'. Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi của Mị đến mức cô chẳng còn màng đến cái chết nữa vì 'Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi'. Mị gần như từ bỏ, buông xuôi, chấp nhận sự phi lý của cuộc đời như một điều tất yếu. Đến đêm tình mùa xuân, sức sống trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước.
Mặc dù A Phủ bị trừng phạt tàn nhẫn, trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay 'nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi'. Từ cô gái vui vẻ, yêu đời, Mị trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ, và nhận ra sự phi lý trong kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy.
Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ 'Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại'. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong cuộc sống định mệnh và đau khổ của cuộc đời.
Tóm lại, 'Vợ chồng A Phủ' là câu chuyện đầy cảm xúc về sự sống và tự do, về lòng nhân đạo và chấp nhận số phận. Tô Hoài đã khéo léo tái hiện cuộc đời khổ đau của Mị và A Phủ, những người trẻ tuổi nhưng lại phải chịu đựng sự đánh đập của số phận. Cuộc đối đầu với cường quyền, với bản chất tàn bạo của con người đã làm nổi bật sức mạnh và tinh thần chiến đấu không ngừng của họ.
Từ đó, lòng thương người trong Mị mạnh mẽ lớn lên, dẫn đến quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần, buộc Mị phải đối đầu với sự lựa chọn. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất, cứu lấy con người từ trong tận cùng đầy ải, đau thương.
Thông qua ba giai đoạn diễn biến tâm lý cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện tài năng của mình thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Người đọc cũng thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.
Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Con đường giải thoát, niềm tin và lý tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung hiện lên rõ ràng.
Phân tích chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ - Mẫu 9
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hấp dẫn người đọc không chỉ ở hiện thực cuộc sống con người miền núi Tây Bắc tái hiện với cảnh sắc tự nhiên tươi đẹp, phong tục tập quán lạ thường, mà còn ở sự bất thường của số phận các nhân vật. Người đọc khó đoán trước những bước tiến của các nhân vật chính trên con đường đời. Không ngờ, Mị – một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, giàu nghị lực sống lại trở thành một người buồn chán, không còn biết đến niềm vui vì bị đẩy xuống đáy sâu của cuộc sống thống khổ. Và không ngờ nữa, chính con người bầy tớ đó đã cắt dây đánh tháo một chàng trai bị trói vào cột, để rồi cùng anh ta chạy trốn khỏi nơi đọa đày.
Hành động cắt dây đánh tháo A Phủ của Mị là một hành động bất thường, bởi trước đó, Mị đã rơi vào một trạng thái đa phần hoàn toàn vô cảm. Những công việc khó nhọc miên man cả ngày lẫn đêm, những hành động tàn bạo của chồng, sự đối xử bất nhân của nhà thống lí đã khiến Mị không còn tinh thần. Có những đêm lạnh buốt, Mị dậy ngồi hơ lửa, A Sử đi chơi về nhận ra, ngứa chân đạp ngã bên bếp, đêm sau Mị vẫn dậy nhóm bếp hơ lửa như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Mị hành động như 1 kiểu phản xạ có điều kiện của loài vật. Mấy ngày đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị bỏ đói khát ngoài trời giá rét, Mị vẫn chẳng phải chạnh lòng. Thậm chí, nếu A Phủ chết đứng, Mị cũng không cảm thương. Chừng như nỗi âu sầu đã làm trái tim Mị trở thành chai lì.
Nhưng khi nhận ra giọt nước mắt chảy dài trên gò má sạm đen dưới ánh lửa bập bùng của A Phủ, Mị chạnh lòng thương. Mị đã biết nghĩ tới sự bất công nếu A Phủ phải chết. Tính tới sự nguy khốn nếu cắt dây cho A Phủ trốn thoát, Mị không khiếp sợ. Thế nhưng, khi dây trói đứt, A Phủ vùng chạy, chỉ còn một mình, nỗi khiếp sợ tức tốc ập tới. Bản năng sống còn rất mạnh cho Mị hiểu rằng, cái cọc kia chính là sự hiện ảnh của cái chết. Câu nói: “A Phủ, cho tôi đi […] Ở đây thì chết mất” cho thấy Mị vẫn hướng về sự sống. Mị và A Phủ đã chạy băng rừng hàng tháng để thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra, thoát khỏi Hồng Ngài – nơi đối với họ thực sự là tuyền đài dương thế.
Việc Mị cắt dây trói đánh tháo cho A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài có vẻ lạ thường, nhưng xét kĩ, đó là hành động thật tế, thể hiện thực chất của một người luôn tiềm ẩn nhựa sống, luôn kháng cự quyết liệt. Những ngày sống với cha, khi thống lí muốn đưa Mị về làm dâu trừ nợ, Mị đã từ chối dứt khoát. Cô thà hằng 5 phải cuốc nương ngô trả nợ còn hơn bị bán cho nhà giàu. Bị A Sử lợi dụng tục cướp vợ lừa bắt, Mị đã dám tìm tới cái chết để tự đánh tháo. Ngay cả trong 1 đêm xuân, khi tâm hồn rộn ràng quay về, nếu có nắm lá ngón, Mị sẽ ăn cho chết đi, không buồn nhớ tới nữa. Với Mị, sống nhưng bị đọa đày âu sầu, thà chết còn hơn. Những cái chết thoáng qua đầu óc Mị trong những tình cảnh chi tiết không làm mất bản năng hướng về sự sống của cô. Cho nên, trong đêm tình mùa xuân, khi trai gái cất tiếng sáo hò hẹn, khi nhớ lại những câu hát tình tứ ngày nào, khi hơi rượu đã làm ngà ngà, Mị muốn quay về với thời trẻ trung sôi nổi để được sống với những gì mình khát khao.
Chuỗi sự kiện đời Mị mà Tô Hoài mô tả trong phần đầu Vợ chồng A Phủ đã giúp người đọc tưởng tượng rõ nét thực chất của một con người. Nó giải thích tại sao giữa lúc tưởng đã đối mặt với cái chết, Mị lại trỗi dậy khát vọng sống mãnh liệt, vùng lên, vượt qua tất cả để tìm tới cuộc sống tự do.
Phân tích hành động cởi trói của Mị - Mẫu 10
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài thành công khi phản ánh đời sống người dân miền núi một cách chân thực, sâu sắc nhất. Tác giả đã đưa người đọc đến với ánh sáng cách mạng sau khi tự giải thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến cổ hủ, tàn bạo. Diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật Mị trong đêm giải thoát A Phủ khỏi vùng đất Hồng Ngài là một minh chứng sinh động và đầy nhân văn.
Tô Hoài xây dựng không gian, thời gian phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân vật hành động và biểu lộ cảm xúc. Một đêm đông được miêu tả “dài và buồn” khi A Phủ bị trói vào cây cọc, số phận đang cận kề cái chết. Mỗi buổi tối, Mị dậy sớm đốt lửa sưởi ấm, chia sẻ tâm tình với ngọn lửa. Thông qua ngọn lửa ấy, Mị thấy A Phủ trừng mắt, Mị biết hắn còn sống. Mấy đêm nay, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa vào tay, nếu A Phủ là xác chết đứng thì cũng vậy. Mị thấy dửng dưng trước con người đang tàn tạ ấy, lạnh lùng trước số phận con người, trước đau khổ của họ.
Bởi vì, chuyện người bị trói là chuyện quen thuộc, rất bình thường trong gia đình này. Mị cũng đã từng là nạn nhân của thực tế tàn nhẫn, cay độc đó. Mị đang đắm chìm và chết dần trong đau khổ đó. Hơn nữa, nỗi đau của Mị quá lớn, nó như núi đè nặng khiến Mị không còn khả năng, sức lực quan tâm hay chú ý đến người khác. Mị lại rơi vào trạng thái lạnh lùng, thờ ơ.
Rồi một đêm khuya nữa lại đến, Mị tiếp tục dậy thổi lửa sưởi ấm bàn tay. Ánh lửa bếp bùng cháy sáng, Mị nhìn thấy A Phủ mở mắt, giọt nước mắt lăn dài trên gò má sạm đen. Đây là giọt nước mắt bất lực của người đàn ông dũng cảm, nghị lực. Đó là sự tuyệt vọng, khẩn thiết cầu xin. Những giọt nước mắt ấy của A Phủ đã gợi lên nỗi đau của năm trước, khi ấy Mị cũng bị trói. Nó làm Mị nhớ câu chuyện bi thảm về cái chết của một người phụ nữ gầy gò và đánh thức những suy nghĩ mới trong Mị.
Mị thấy rõ hơn sự tàn ác của nhà thống lý Pá Tra và quyết tâm cứu A Phủ, giải thoát cho những con người bất hạnh. Hành động cao đẹp ấy xuất phát từ lòng nhân ái, tấm lòng yêu thương đồng loại, hay có thể nói việc đánh thức ý thức sống không chỉ cho mình mà còn cho người khác. Nhà văn đã khám phá ra nét đẹp này một cách cao thượng và nhân văn.
Mị đã vượt qua thế lực của con ma nhà thống lí, quên đi ách thống trị của cha con thống lí Pá Tra. Cô đã mạnh mẽ thoát ra khỏi “ngục tù”, của sự tủi nhục khốn khổ. Họ hướng về phía trước về thế giới của tự do về một ngày mai tươi sáng huy hoàng.
Cuối cùng cả hai người họ đã tìm đến con người để cứu cuộc đời họ đó chính là ánh sáng của cách mạnh.
Nhà văn Tô Hoài không tô vẽ hay lý tưởng hóa nhân vật của mình trong hoàn cảnh này mà để nhân vật tự hành động cố gắng hiểu và đi theo nó. Mị dám chấp nhận nghịch cảnh, vượt qua nó để chiến thắng và khẳng định mình làm chủ cuộc đời mình.
...............
Tải tệp tài liệu để đọc phân tích chi tiết về Mị cởi trói cho A Phủ