Phân tích khổ 8 bài thơ Việt Bắc tổng hợp 14 bài văn mẫu cực kỳ xuất sắc kèm 3 gợi ý viết chi tiết. Phân tích khổ 8 bài Việt Bắc mang lại nhiều cảm xúc và sự hiểu biết sâu sắc về tác phẩm.
Phân tích khổ 8 Việt Bắc đã gợi lên nhiều cảm xúc cho chúng ta. Đoạn thơ này là một trong những đoạn nổi bật nhất trong bài Việt Bắc, thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tố Hữu qua đây cũng đã chứng minh tài năng và vị trí của mình trong văn học.
Cấu trúc khung cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc
a) Mở đầu:
- Tóm tắt một số đặc điểm về tác giả và tác phẩm, sau đó đi vào phân tích đoạn thơ
- Nội dung chính của đoạn thơ: Sức mạnh của tinh thần dân quân trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp.
b) Phần chính:
* Sức mạnh kiên cường của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Việt Nam
- Hai câu mở đầu: Mô tả cảnh quân dân Việt Bắc sôi nổi trong các đêm điều binh trong chiến dịch:
- “Con đường rộng lớn của Việt Bắc”: một không gian bao la đong đầy.
- Điệp từ “mỗi đêm đều”: thời gian liên tục kéo dài không ngừng nghỉ.
- So sánh “như đất được nung chảy”: Sức mạnh hùng vĩ làm rung chuyển cả trời đất.
- Sức mạnh vững mạnh của quân đội chúng ta, từ số lượng đến uy tín.
- 6 câu tiếp theo: Sự phối hợp giữa các lực lượng chiến đấu:
+ Lực lượng quân đội:
- Mô tả “với tiếng vang vang vọng”: các đoàn quân tiếp tục di chuyển như những đợt sóng lớn không ngừng trào dâng.
- Hình ảnh “ánh sao trên đỉnh khẩu súng” tạo nên một vẻ đẹp sâu lắng, gợi lên nhiều suy tư:
- Nghệ thuật nhân hóa: ánh sao theo dõi đoàn quân, treo lơ lửng trên đầu khẩu súng, chiếu sáng khắp con đường hành quân - thiên nhiên trở thành bạn đồng hành vững chắc cùng các chiến sĩ.
- Ẩn dụ: ánh sao - lý tưởng cách mạng luôn chiếu sáng đường lối, dẫn đến tương lai rộng mở - lòng tin lạc quan tràn đầy sức mạnh.
+ Lực lượng nhân dân:
- Những ngọn đuốc rực sáng soi đường, làm sáng tỏ hình ảnh của các đoàn quân dân công mang theo lương thực, đạn dược, từ trẻ đến già, từ nam đến nữ... họ đến từ khắp miền quê với mọi phương tiện di chuyển: xe đạp, cáng, gùi... quyết tâm vượt qua khó khăn nguy hiểm để đảm bảo vũ khí, thuốc men, thức ăn... cho tiền tuyến.
- Cách diễn đạt cường điệu “bước… bay”: diễn tả sức mạnh đông đảo và sức mạnh hùng mạnh phục vụ trận chiến. Cuộc chiến của chúng ta là cuộc đấu tranh của nhân dân, đã phát huy sức mạnh của toàn dân.
- Hình ảnh thơ đẹp “tàn lửa muôn phương”, “ngọn đuốc đỏ”: tan biến những nơi u tối, lạnh lẽo trong rừng núi.
- Từ láy 'điệp điệp”, “trùng trùng” + từ “nát đá” : góp phần tạo nên giai điệu hùng vĩ mạnh mẽ.
+ Đội xe quân sự:
- Xe kéo pháo, vận đạn, thuốc men, thức ăn, chở quân tiến vào trận:
- Hình ảnh “ánh sáng pha chiếu”, 'ánh sáng rực rỡ xuyên qua đêm tối đen thui'.
- Hình ảnh ẩn dụ “nghìn đêm” - quá khứ bóc lột; “sương dày” : những khó khăn, sự thiếu thốn hiện tại.
- So sánh “Như ngày mai mọc”, “niềm tin, lạc quan : hình ảnh thơ biểu tượng cho tương lai tươi sáng của đất nước.
- Nhịp điệu sôi động, mạnh mẽ, gấp gáp. Khúc hát hùng vĩ, náo nức; hình ảnh thơ hoành tráng, lộng lẫy.
- Đoạn thơ rực sáng: ngọn sao, ngọn đuốc, ánh đèn pha…, ánh sáng của hy vọng, niềm vui tràn ngập. Tất cả kết thành khúc hát chiến thắng. Việt Bắc không chỉ là của riêng mình mà là của chúng ta – của tất cả mọi người Việt Nam kháng chiến.
* Niềm vui chiến thắng của toàn dân tiếp tục lan tỏa:
- Điệp từ ”vui” như tiếng hò mừng chiến thắng, cảm xúc phấn khích, hạnh phúc, tự hào khi tin vui chiến thắng liên tiếp đến từ mọi miền đất nước.
- Liệt kê các địa danh từ “khắp mọi miền” mở ra không gian rộng lớn của chiến thắng từ núi đến đồng bằng, từ phía bắc đến phía nam.
- Nhịp điệu thơ sôi động, hân hoan, náo nức cho thấy tốc độ kỳ diệu, nhanh chóng của những chiến thắng này.
- Các từ: “vui về”, “vui lên”, ‘vui từ” đã đặt Việt Bắc làm trung tâm của niềm vui này.
- Giọng thơ say mê, hân hoan tràn đầy niềm vui hạnh phúc trong lòng hàng triệu con người từ phía bắc đến phía nam.
c) Kết luận:
- Chỉ với 12 câu thơ, tác giả đã thành công trong việc thể hiện sự cảm hứng và ngợi ca cho cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam.
- Không chỉ là cảm hứng, thông qua bài thơ 'Việt Bắc', chúng ta cũng phải khen ngợi vẻ đẹp xuất sắc của bức tranh về tứ bình.
Phân tích khổ thơ thứ tám của bài thơ 'Việt Bắc' - Mẫu 1
Tố Hữu luôn được biết đến với danh hiệu 'lá cờ đầu tiên của thơ ca Cách mạng Việt Nam'. Các tác phẩm của ông luôn toát lên tinh thần yêu nước, lòng trung thành và sự ngợi ca đối với Cách mạng. Điều này được thể hiện rõ qua bài thơ 'Việt Bắc'. Khổ thơ thứ tám trong bài là một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến chống Pháp với không khí chiến đấu sôi động và khẩn trương. Đồng thời, nó cũng là lời khen ngợi về niềm tự hào mà tác giả dành cho nhân dân cả nước.
Trước hết, người đọc được trải nghiệm khí thế hùng hậu, dũng mãnh của quân và dân ta trong cuộc chiến:
'Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm vang vọng như đất rung'
Không gian của cuộc chiến lúc này dường như mở ra vô hạn cả về không gian và thời gian. Ban đêm thường là lúc mọi người được nghỉ ngơi, thư giãn sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng trên 'những con đường Việt Bắc', ban đêm lại 'vang vọng như đất rung'. Điều này thể hiện một cách rõ ràng sự khẩn trương, quyết tâm của toàn bộ quân và dân. Từ cụm từ 'mỗi đêm' mang lại cảm giác lặp lại, đều đặn. Và hàng ngày, quân và dân ta vẫn dũng cảm tiến về phía trước. Tầm vóc sử thi của con người cũng được kích thích mạnh mẽ nhờ điều này.
Không khí của cuộc chiến, sôi động và khẩn trương, được Tố Hữu mô tả rất sinh động. Từ đó, tạo nên bài ca ngợi quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp. Trước hết là hình ảnh của đoàn quân:
'Quân tiến bước điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đỉnh súng bạn cùng mũ nan'
Những cụm từ láy tiếp tục xuất hiện trong bài thơ, như 'điệp điệp', 'trùng trùng', nhằm mô tả sự đông đảo của đội quân. Mỗi đoàn quân tiến về mục tiêu với tư thế kiêng cường, hiên ngang không kém gì trời đất. Và ở thời điểm này, chúng ta chứng kiến hình ảnh 'ánh sao đầu súng'. Nếu trong 'Đồng chí', Chính Hữu mô tả chi tiết 'đầu súng treo trăng', trong 'Tây Tiến' có 'súng chạm vào trời', thì trong 'Việt Bắc', Tố Hữu lựa chọn ánh sáng sao. Những vì sao lấp lánh trên bầu trời, cùng chiếu sáng cho những con đường phía trước, soi bóng cả những người 'bạn cùng mũ nan'. Họ kề vai sát cánh, bước đi với mục tiêu hòa bình, độc lập cho Tổ quốc.
Và vào đêm tối, không chỉ có các đoàn quân 'điệp điệp trùng trùng' mà còn có cả những đoàn dân công đang dày công cống hiến, phục vụ Cách mạng:
'Dân công đốt lửa từng đoàn
Bước chân dẫm đá nát, muôn tàn lửa bay
Trong nghìn đêm sương dày thăm thẳm
Đèn pha chiếu sáng như ánh mai lên'
Cách bố trí câu văn độc đáo: 'Dân công đốt lửa từng đoàn' đã đem lại cho bài thơ một hình ảnh vô cùng hùng vĩ, hấp dẫn. Họ cũng tiến về phía trước, tạo ra những đám lửa rực cháy và ánh sáng cho con đường phía trước. Tầm vóc sử thi của con người một lần nữa được khẳng định với 'bước chân dẫm đá nát'. Hình ảnh này kết hợp với khung cảnh 'muôn tàn lửa bay' tạo nên một bức tranh sử thi mạnh mẽ. Trong 'nghìn đêm sương dày thăm thẳm' đó, có hàng trăm nguồn sáng đã xuất hiện, soi sáng mọi vật. Từ ngọn đuốc, đến đèn pha của những chiếc xe 'chiếu sáng như ánh mai lên'. Qua đó, độc giả cũng cảm nhận được sự hồi hộp, khẩn trương của cuộc kháng chiến cùng niềm tin, hi vọng vào một tương lai hòa bình, độc lập.
Không bỏ lỡ công lao của quân và dân ta, cuối cùng cuộc Cách mạng cũng thành công. Từ đó, niềm vui lan tỏa khắp nơi trên cả nước:
'Niềm vui chiến thắng khắp nơi
Tin hòa bình ở Tây Bắc, Điện Biên làm mừng vui
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui tràn ngập Việt Bắc, qua đèo De, núi Hồng'
Một chuỗi các địa danh được Tố Hữu thông minh sắp xếp: Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, đèo De, núi Hồng. Không chỉ thế, từ 'vui' cũng làm nổi bật, lan rộng niềm hạnh phúc, phấn khởi đến mọi nơi. Nếu trước đó, độc giả cảm nhận được sự căng thẳng, khẩn trương của cuộc chiến thì bây giờ, niềm vui như tràn ngập. Qua đây, Tố Hữu cũng thể hiện niềm tự hào về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Kết hợp giọng thơ lãng mạn kết hợp với sự trầm ấm của sử thi và hàng loạt hình ảnh gợi mở, Tố Hữu đã thành công tái hiện không khí của cuộc chiến tranh chống Pháp. Tác giả mang lại cho chúng ta một đoạn thơ với giọng điệu đầy say mê, nhịp thơ hùng tráng, dồn dập. Từ đó, thể hiện niềm tự hào, sự vui sướng trước những thành công rực rỡ của quân và dân ta.
Mặc dù đoạn thơ ngắn nhưng đã gợi lên muôn vàn cảm xúc cho người đọc. Có thể nói rằng đây là một trong những đoạn văn nổi bật nhất trong bài thơ 'Việt Bắc', thể hiện được ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Qua đó, Tố Hữu cũng đã khẳng định tài năng, vị trí của mình trong dòng văn học qua các thế hệ.
Phân tích khổ thơ thứ tám 'Việt Bắc' - Mẫu 2
Sau những năm gian khổ kháng chiến chống Pháp, cuối cùng quân và dân ta cũng đã đạt được chiến thắng. Tháng 10 năm 1954, Đảng và các cơ quan Chính phủ đã chuyển từ khu vực kháng chiến ở Việt Bắc về Hà Nội. Nhân dịp này, nhà thơ Tố Hữu viết bài thơ 'Việt Bắc', mô tả chân thực và sinh động những năm gian khổ trên vùng núi rừng. Trong bài thơ, ông tái hiện lại cảnh quân ra trận hùng vĩ.
'Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm vang lên như tiếng đất rung'
Hai câu thơ đầu đã thể hiện sức mạnh sôi nổi của những người chuẩn bị cho chiến dịch lớn. Lời thơ khẳng định chủ quyền của quê hương 'Những con đường' không chỉ là 'một con đường' hoặc một vài con đường 'của chúng ta'. 'Đêm đêm' là thời gian liên tục, mỗi đêm tiếp nối nhau. Trong thời gian và không gian đó, có những người chiến đấu thực hiện nhiệm vụ của họ. 'Vang lên' thường diễn tả bước hành quân đầy khí thế với sức mạnh áp đảo của đội ngũ rất đông đảo và chỉnh tề. Từ láy 'đất rung' kết hợp với phép so sánh 'như tiếng đất rung' đã thể hiện sức mạnh hùng mạnh, làm rung chuyển trời đất của toàn quân.
Tinh thần đoàn kết dân tộc, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng quân và dân được thể hiện rõ ràng trong đoạn thơ này. Từ các đoàn quân, đoàn dân công đến các phương tiện vận tải chở lương thực, đạn dược cùng tham gia vào chiến dịch:
'Quân tiến điệp tiến trùng trùng
Ánh sao sáng trên đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ lửa từng đoàn
Bước chân trên đá vỡ, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm sương mù dày đặc
Đèn pha sáng rực như mặt trời mọc.'
Đầu tiên, hình ảnh những chiến sĩ hiện lên với khí thế mạnh mẽ, hùng vĩ qua từ láy 'điệp điệp', 'trùng trùng'. Đây là từ thường dùng để chỉ những con sóng vỗ vào bờ không bao giờ dứt. Từ đó, ta thấy được số lượng đông đảo của quân đội ta, tạo âm hưởng như những đợt sóng vô tận. Hành quân trong đêm tối, người lính không hề cô đơn mà đã có 'ánh sao đầu súng' làm bạn. Đây dường như là một hình ảnh nhân hóa. Ánh sao như những người bạn thân thiết, tri kỉ đồng hành trong từng bước đi. Thế nhưng 'ánh sao' cũng có thể ẩn dụ cho ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng ấy ở ngay trên đầu mũ, luôn soi sáng, dẫn đường, tiếp thêm sức mạnh cho chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ.
Đoàn dân công cũng mang sức mạnh to lớn không kém gì những chiến sĩ. Họ có một đội ngũ đông đảo, góp phần lớn sức người cho chiến dịch. Biện pháp 'Bước chân nát đá' thể hiện khí thế mạnh mẽ, vượt trội không thể xem thường cùng quyết tâm đánh thắng kẻ thù. Người trong đoàn dân công cầm những ngọn đuốc mang ánh sáng xua tan đi cái lạnh lẽo, tăm tối nơi núi rừng. Sắc 'đỏ' của ngọn 'đuốc' và 'lửa bay' cũng mang màu sắc bay bổng, thể hiện niềm vui, sự hứng khởi như người dân đang chuẩn bị tham gia ngày hội lửa trại. Câu thơ này khiến ta nhớ đến lời Các Mác nói 'Cách mạng là ngày hội của quần chúng'.
Góp phần thành công cho chiến dịch là những đoàn xe chở lương thực, thuốc men, đạn dược đến tiếp tế cho chiến trường. Mặc cho 'Nghìn đêm thăm thẳm sương dày' thì vẫn sẽ có 'Đèn pha bật sáng như ngày mai lên'. Hai câu thơ là biện pháp ẩn dụ độc đáo của tác giả. 'Nghìn đêm', 'sương dày' nói về những năm tháng trong quá khứ, khi chưa có Cách mạng, nhân dân ta phải chịu sự áp bức và bóc lột dã man của bọn thực dân đế quốc. Chúng ta đã từng mất mát, chịu đựng đau thương nhưng chưa từng đớn hèn, biết bao nhiêu cuộc cách mạng đã nổ ra, với sự kiên trì của nhân dân, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng. 'Đèn pha bật sáng' chính là ánh sáng của tương lai ấm no, hạnh phúc, ánh sáng của lí tưởng cách mạng xua tan đi lớp sương chướng khí hút máu nhân dân. Mặc dù đoạn thơ miêu tả khung cảnh hành quân vào ban đêm nhưng không hề tối tăm, mù mịt mà lại có rất nhiều ánh sáng: 'ánh sao', ánh lửa từ ngọn đuốc, 'đèn pha'. Tác giả như muốn thể hiện rằng dù cuộc kháng chiến còn nhiều gian khó, đêm tối chưa tàn nhưng nhất định chúng ta sẽ giành lại chiến thắng, gọi 'ngày mai lên'.
Và niềm tin ấy đã trở thành hiện thực. Sau những ngày tháng chiến đấu gian khổ, tin vui đã được truyền đến, chiến thắng đã về với mọi miền Tổ quốc:
'Tin vui chiến thắng khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.'
'Tin vui' là biểu hiện của chiến thắng. Tác giả liệt kê nhiều tỉnh thành, địa danh trên cả nước, từ Bắc đến Nam, từ núi đến đồng bằng. Mọi mặt trận đều đã chiến thắng. Đất nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập. 'Vui' như tiếng reo mừng, thể hiện sự hạnh phúc, tự hào của tác giả và toàn dân. Nhịp thơ ngắn, dồn dập, náo nức cũng thể hiện sự bất ngờ, hạnh phúc đến nghẹn ngào.
Có thể nói 'Việt Bắc' là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca Cách mạng. Nghệ thuật của bài thơ là tổng hòa của nhiều yếu tố đặc sắc. Thể thơ lục bát truyền thống rất dễ tiếp cận, giúp tác phẩm trở nên gần gũi hơn. Hình ảnh thơ giàu tưởng tượng như 'ánh sao', 'ánh sáng' dẫn đến tương lai tươi sáng, hạnh phúc. Từ láy như 'rầm rập', 'điệp điệp', 'trùng trùng' thể hiện khí thế mạnh mẽ của toàn dân tộc. Biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng được sử dụng khéo léo, thể hiện ý nghĩa rõ ràng của tác giả.
Chỉ qua vài câu thơ lục bát, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh những ngày tháng dân tộc đoàn kết thực hiện chiến dịch giành lại độc lập. Bức tranh đó thể hiện khí thế dũng mãnh của quân dân ta, niềm hạnh phúc khi nghe tin chiến thắng từ khắp nơi. Sự tự hào về đất nước đã trở thành nguồn cảm hứng trong những bài ca sau này của Tố Hữu:
'Mây trời của chúng ta, trời xanh của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa'
Phân tích khổ 8 Việt Bắc siêu hay - Mẫu 3
Nhà văn Tố Hữu, biểu tượng của văn hóa cách mạng Việt Nam, đã từng nói: Tôi yêu quê hương và nhân dân như yêu một người phụ nữ. Thơ của ông là bản tình ca dành cho đất nước và con người Việt Nam. Trong số những tác phẩm ấy, không thể không nhắc đến 'Việt Bắc' - đỉnh cao của Tố Hữu, là tác phẩm nổi bật trong văn học kháng chiến chống Pháp. 'Việt Bắc' không chỉ là một tình ca sâu sắc mà còn là khúc hùng ca về những anh hùng dân tộc. Bên cạnh những dòng thơ ngọt ngào, ta còn thấy sự kiêu hãnh của quân dân ta:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
'Việt Bắc' bao gồm 150 câu thơ lục bát, được viết vào tháng 10/1954 khi Đảng và chính phủ rời 'Thủ đô gió ngàn' quay về 'Thủ đô nắng Ba Đình'. Bài thơ gồm hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm về cuộc kháng chiến và phần sau tưởng tượng về tương lai tươi sáng của đất nước và khen ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ. Đoạn thơ 'Những đường Việt Bắc của ta...Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng' tái hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến khi quân và dân ta đang dành lợi thế.
Trong 8 câu thơ đầu, nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Câu thơ 'Những con đường Việt Bắc của ta' vang lên mạnh mẽ, hùng vĩ, toát lên niềm kiêu hãnh tự hào. Trăng nghiêng, dẫn đường về Việt Bắc, mọi con đường từ đó tỏa sáng khắp nơi đều là của chúng ta: Hai từ của ta đơn giản nhưng cực kỳ thiêng liêng. Chúng thể hiện tinh thần lãnh đạo của những người chiến đấu cho đất nước cũng như niềm tự hào về sự không thể xâm phạm của vùng căn cứ. Sống trong những ngày kháng chiến đầy gian khổ, chúng ta mới thấm thía niềm tự hào về cuộc đấu tranh chống Pháp. Sau bao ngày tháng vất vả, phải phòng thủ, chúng ta đã nắm lấy sự chủ động trên mọi mặt trận. Những con đường từng bị giặc chiếm đóng bây giờ đã thuộc về chúng ta. Hình ảnh 'Đêm đêm rầm rập như là đất rừng' mô tả sự mạnh mẽ, nhanh chóng và hào hùng của đoàn quân và dân ta. Tác giả chọn thời điểm ban đêm không phải tình cờ. Trong cuộc sống, đêm là thời điểm yên bình, tĩnh lặng, nhưng trong chiến đấu, đêm thường là thời gian chuẩn bị cho ngày mai chiến thắng. Trong bức tranh đêm vô cùng rộng lớn, đoàn quân của ta ra trận mạnh mẽ như một trận bão, làm đất rung, trời lên. Với các từ rõ ràng, hình ảnh so sánh, phóng đại, và nhịp thơ mạnh mẽ, câu thơ toát lên không khí hùng vĩ, khỏe khoắn, góp phần tái hiện cuộc diễu binh hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần dũng cảm, quyết tâm ra trận của cha ông trong hàng nghìn năm bảo vệ đất nước đã sống dậy trong những ngày tháng chiến đấu.
Chúng ta từng tự hào về những anh hùng thời Trần mang tinh thần Sát Thát, về quân Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch không ngờ - Đánh hai trận tan tác chim muông. Và ngày nay, chúng ta lại tự hào hơn về cuộc chiến tranh thần thánh của thời kỳ cách mạng:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Các từ miêu tả và tượng trưng như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng một cách khéo léo, diễn tả chính xác sự tự tin, hồ hởi bao trùm lên đoàn quân đang ra trận như một dòng thác không thể cản trở. Hình ảnh ánh sao đầu súng đậm chất lãng mạn. Tại đầu súng của lính, ánh sao trở thành biểu tượng của lý tưởng cách mạng, niềm tin vào hòa bình và chiến thắng. Hình ảnh ánh sao đầu súng gợi nhớ đến bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu. Chỉ với một hình ảnh thơ, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh của đoàn quân chủ lực mạnh mẽ nhưng cao quý.
Cùng với đoàn quân chủ lực, có cả lực lượng dân công hỏa tuyến vĩ đại. Mặc dù là buổi tối nhưng vẫn đầy ánh sáng - ánh sáng từ đuốc đỏ, lửa bay, đèn pha:
Công nhân đỏ lửa bừng từng đội
Bước chân trên đá nát, lửa bốc cháy rực
Đêm thăm thẳm ngàn dặm, sương mù dày
Đèn pha tỏa sáng như ngày mai tới
Hình ảnh về công nhân đỏ lửa bừng từng đội và muôn tàn lửa bay tái hiện không khí sôi động của lực lượng tiến công. Với mong muốn giải phóng đất nước, các đội quân di chuyển vào ban đêm, mỗi đội mang theo đốt lửa sáng rực, hối hả tiến về phía trước. Bước chân trên đá nát, lửa bốc cháy rực, khiến cho mọi nẻo đường trở nên sáng rực. Sự yên bình của đêm bỗng chốc bị phá vỡ bởi ánh sáng từ đèn pha. Hình ảnh đèn pha tỏa sáng như ngày mai tới không chỉ mô tả sự mạnh mẽ của quân đội mà còn biểu hiện niềm tin vào một tương lai tươi sáng, huy hoàng.
Khúc hùng ca về Việt Bắc ra trận kết thúc bằng tiếng reo vang khi chiến thắng thuộc về chúng ta:
Tin vui chiến thắng lan tỏa khắp miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui mừng
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Từ 'vui' được lặp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh mạnh tạo nên không khí phấn chấn, hân hoan, hồ hởi. Cụm từ về niềm vui tạo ra không khí phấn khích, hạnh phúc, vui tươi. Từ Việt Bắc, tốc độ chiến thắng bùng lên, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, niềm vui tràn ngập. Điều đáng chú ý là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà không làm mất đi sự hấp dẫn của đoạn thơ. Nếu ở Tây Tiếm, những địa danh của Quang Dũng xuất hiện với niềm thương nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng lẫy chiến công làm cho lòng người bừng tỉnh. Điều này làm cho đoạn thơ của ông trở nên độc đáo.
Nhìn tổng quan, đoạn thơ Việt Bắc ra trận là minh chứng rõ ràng cho phong cách thơ sử thi và cảm hứng lãng mạn dồi dào của Tố Hữu. Đọc đoạn thơ, ta cảm nhận như một bài ca về chiến thắng của quân dân Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khẳng định, ca tụng và tự hào về quê hương Việt Bắc - 'Quê hương cách mạng xây dựng nên cộng hòa'.
Phân tích khổ thơ 8 Việt Bắc - Mẫu 4
'Từ đó, trong tâm hồn tôi rực sáng như nắng hạ
Mặt trời chân lí chiếu qua lòng tôi'
(Tố Hữu)
Ánh sáng cách mạng chính là ngọn đuốc chỉ đường dẫn lối cho nhân dân ta tiến tới độc lập, tự do. Như một nhà thơ trưởng thành từ những cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã mang đến cho độc giả rất nhiều tác phẩm trữ tình lãng mạn cách mạng với tình yêu nước cháy bỏng. Trong khổ thơ thứ tám của bài thơ 'Việt Bắc', nhà thơ đã tái hiện lại bức tranh sống động của cuộc kháng chiến chống Pháp với niềm tự hào to lớn.
Tố Hữu (1920 - 2002) là tiên phong của thơ cách mạng Việt Nam, ông đã góp phần quan trọng vào cách mạng và văn hóa dân tộc. Tố Hữu cũng là tác giả của biên niên sử bằng thơ và là nhà thơ trữ tình lãng mạn cách mạng hàng đầu thế kỷ XX. Bài thơ 'Việt Bắc' được sáng tác vào tháng 10 năm 1954 khi chính phủ chuyển từ Việt Bắc về thủ đô. Bài thơ này được đăng trong tập thơ cùng tên và được đánh giá cao là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của thơ cách mạng kháng chiến chống Pháp. Khổ thơ thứ tám thể hiện không khí sôi nổi, khẩn trương của cuộc kháng chiến với Pháp, được tác giả mô tả sinh động qua ngòi bút điêu luyện của mình.
Mở đầu bài thơ, tác giả tái hiện không khí của cuộc chiến toàn dân, toàn diện với những con đường ở Việt Bắc:
'Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm nhộn nhịp như tiếng đất rung'
Dù ban đêm thường là thời gian để nghỉ ngơi, nhưng trong cuộc chiến chống Pháp, nhân dân ta đã không ngừng chiến đấu vì Tổ quốc. Sự hồi hộp, quyết tâm của cuộc chiến trong 'đêm đêm' với tiếng hành quân 'nhộn nhịp' được tác giả so sánh với tiếng đất rung, là minh chứng cho tình hình chiến đấu khẩn trương. Tiếng 'nhộn nhịp' ấy cũng thể hiện sức mạnh và dũng khí của quân dân ta, luôn sẵn sàng tiến lên. Không khí của cuộc kháng chiến được mô tả với tinh thần sử thi, những âm hưởng hùng tráng đã làm cho bài thơ trở thành một tác phẩm kỳ diệu, kết hợp giữa tình yêu quê hương và tinh thần chiến đấu.
Tác giả tiếp tục tái hiện không khí của cuộc kháng chiến trong sáu câu tiếp theo của khổ thơ thứ tám:
'Quân dân bước đi quyết tâm đầy đặn
Ánh sao đầu súng, mũ nan đồng hành.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân gãy gập, lửa cháy muôn phương.
Đêm dài sương dày như hình nhân
Đèn pha soi sáng tỏa rạng bình minh.'
Đêm không chỉ là thời khắc quân dân ta kiểm soát mọi góc trời, mà còn là thời điểm bắt đầu của cuộc chiến đấu cam go, đầy rẫy khó khăn. Hình ảnh đoàn quân 'đi điệp điệp trùng trùng' cho thấy sức mạnh vô song của cuộc diễn tập tổng kết 'Bốn mươi thế kỷ đồng loạt ra trận'. Con người là chủ nhân của trái đất, trong bóng tối ta vẫn thấy 'ánh sao đầu súng', bạn đồng hành cùng chiến sĩ. Trăng không chỉ là người bạn đồng hành của mọi nhà mà còn là biểu tượng của hòa bình, của một tương lai tươi sáng. Trong cuộc chiến đó, không chỉ có chiến sĩ mà còn có cả bộ đội, dân công, những người làm việc vất vả ở sau chiến trường kết hợp lại với nhau tạo nên 'Bước chân gãy gập, lửa cháy muôn phương'. Những bước chân mạnh mẽ, gãy gập đã tạo nên sức mạnh 'đè nát' kẻ thù. Dù màn đêm tối nhưng không tối tăm mà nó luôn được chiếu sáng bởi ngọn đuốc, ánh trăng và đèn pha. Bởi sự kết hợp ấy đã tạo ra ánh sáng sáng như 'bình minh tương lai'. Từ không khí sống động của cuộc chiến, nhà thơ đã thể hiện niềm tin, lòng lạc quan cách mạng về tương lai, sức sống ấy bắt nguồn từ niềm đam mê lãng mạn cách mạng.
Sự quyết tâm của quân dân đã dẫn đến một chiến thắng vang dội, đất nước được giải phóng. Nhà thơ đã miêu tả niềm vui đó thông qua bốn câu cuối của khổ thơ thứ tám của 'Việt Bắc':
'Niềm vui chiến thắng lan tỏa trên mọi miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui mừng
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui cả Việt Bắc, đèo De và núi Hồng.'
Niềm vui chiến thắng tràn ngập cả núi rừng, niềm vui của cuộc chiến tranh được thể hiện qua sự kết hợp, chồng chất và tập trung, là niềm tự hào của con người tham gia cuộc chiến. Nếu như tám câu thơ đầu của khổ thơ đã tái hiện được không khí căng thẳng, khẩn trương của trận chiến thì bốn câu thơ sau, nhà thơ đã mở ra một chân trời hòa bình với niềm vui lan tỏa khắp mọi miền. Niềm vui kết nối với nhiều địa danh như Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De và núi Hồng. Từ 'niềm vui' gắn với niềm vui chiến thắng, niềm tự hào trước những chiến công cũng chính là niềm tự hào của tác giả trước cuộc chiến tranh thiêng liêng.
Giọng thơ lãng mạn, truyền cảm hứng sử thi, biện pháp tu từ chi tiết là những kỹ thuật nghệ thuật mà tác giả đã áp dụng trong khổ thơ. Đoạn thơ thật sự mang lại niềm vui lớn trong cuộc kháng chiến, khí thế của cuộc chiến được mô tả đầy đủ qua sức mạnh của lực lượng tham gia chiến đấu, những con đường kết nối giữa các vùng đất đã tạo nên một bức tranh hiện thực vô cùng tráng lệ.
Khổ thơ thứ tám của bài 'Việt Bắc' khiến người đọc cảm thấy như đang sống lại trong những năm tháng chiến đấu với tinh thần hào hùng, mạnh mẽ. Đoạn thơ đầy độ sử thi hoành tráng đã tạo ra một bức tranh lịch sử tuyệt đẹp với sự quyết tâm ra trận, giành chiến thắng của dân tộc.
Phân tích khổ thơ thứ tám của bài thơ 'Việt Bắc' - Mẫu 5
Việt Bắc là một bài thơ mà Tố Hữu sáng tác sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi với chiến thắng rực rỡ của chiến dịch Điện Biên Phủ, làm xao lạng thế giới. Có thể xem Việt Bắc là một tổng kết về một giai đoạn lịch sử qua thơ ca, tái hiện lại cảnh đau thương và quyết liệt của cuộc kháng chiến chín năm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Đoạn trích dưới đây là một bức tranh sống động, hùng vĩ về tinh thần tiến công như cơn bão của dân tộc chúng ta:
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
.........
Chúng ta vui mừng trên Việt Bắc, qua đèo De, núi Hồng...
Nhà thơ đã tập trung để thể hiện không khí hào hùng trong giai đoạn thứ ba của cuộc kháng chiến, khi sức mạnh của chúng ta đã được tăng cường, và đông đảo. Theo dòng hồi tưởng, nhà thơ dẫn dắt người đọc vào bối cảnh của Việt Bắc trong cuộc chiến với không gian là những dãy núi rộng lớn, với những hoạt động sôi nổi, hình ảnh sôi động, âm thanh dồn dập làm lay động lòng người. Ánh sáng cách mạng đã xua tan đi vẻ âm u, u ám của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại, đầy âm hưởng anh hùng. Giọng điệu dìu dặt, êm ái ở những đoạn thơ trước đã chuyển thành giọng điệu dồn dập, rắn rỏi và phấn khích.
Tố Hữu mô tả rất chân thực và sinh động cảnh chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch qua hình ảnh của những con đường đêm đêm rầm rập bước chân của bộ đội, dân công, với ánh sáng bập bùng của lửa đuốc và ánh đèn pha của những đoàn xe ra trận.
Trong khoảng thời gian đó, ban ngày máy bay địch tấn công dữ dội nhưng ban đêm chúng trở nên bất lực. Màn đêm rộng lớn đã mang lại ưu thế cho quân dân ta. Không phải tình cờ mà thơ ca kháng chiến thường có nhiều bài tả cảnh ban đêm:
Những đêm dài dằn vặt trong hành quân,
Bất chợt nhớ thương người yêu
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Rừng hoang đêm nay sương muối,
Bên nhau chờ giặc ập tới,
Ánh sáng súng trên đầu treo
(Đồng Chí – Chính Hữu).
Trong cuộc sống hàng ngày, ban đêm là thời điểm mọi thứ lặng lẽ trong giấc ngủ, là khoảnh khắc bình yên của con người. Nhưng trong chiến tranh, đêm thường là lúc khởi đầu của những trận đánh, những chiến dịch lớn tiếp theo: Những con đường Việt Bắc của chúng ta, Đêm đêm rộn ràng như là đất rung. Hai từ này thể hiện rõ ý thức chi phối của nhân dân đối với đất nước, cũng như tự hào về sức mạnh không thể xâm phạm của vùng căn cứ địa kháng chiến.
Trên những con đường dẫn ra hỏa lực, bộ đội, dân công mang theo súng đạn, gánh nặng, với tinh thần chiến đấu bùng nổ. Các từ như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng rất phù hợp để mô tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi và sức mạnh như triều dâng thác lũ của quân dân ta. Hình ảnh so sánh: Đêm đêm rộn ràng như đất rung mô tả quy mô lớn của các trận đánh sắp diễn ra. Tác giả đã thể hiện sự đoàn kết, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong một thời điểm lịch sử đặc biệt.
Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều ngang, trong bức tranh kháng chiến bằng thơ này còn có những nét vẽ theo chiều cao. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan là một ví dụ. Ánh sao trước hết là một hình ảnh thực; bên cạnh đó, nó cũng là biểu tượng giàu ý nghĩa. Ánh sao có thể hiểu là ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của lý tưởng cách mạng soi đường dẫn lối cho người chiến binh. Ba yếu tố: ánh sao, đầu súng, mũ nan tạo thành một hình ảnh vững chãi, phản ánh tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến và tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của quân dân ta.
Mặc dù mô tả về đêm ở Việt Bắc không thiếu chi tiết về ánh sáng, nhưng không thể bỏ qua sự hiện diện của ánh sáng. Ngoài ánh sáng xanh của sao trời là ánh sáng đỏ của lửa đuốc, muôn tàn lửa bay, và ánh đèn pha bật sáng... Hai câu thơ 'Dân công đỏ đuốc từng đoàn,/ Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay' vẽ ra một cảnh tượng rực rỡ và đầy khí thế bằng những nét bút gân guốc, mạnh mẽ. Cách nói thực sự chân thực về sức mạnh đạp bằng mọi khó khăn của những người lính trên đường ra hỏa lực. Những bước chân mạnh mẽ ấy đã khiến cho núi rừng thức tỉnh. Màn đêm sương dày bị tan biến bởi ánh đèn pha, gợi liên tưởng đến chiến thắng sắp tới. Hình ảnh so sánh trong câu: Đèn pha bật sáng như ngày mai lên có vẻ cường điệu, nhưng chỉ có so sánh như thế thì nhà thơ mới diễn đạt được niềm phấn khích tràn ngập lòng người trước sức mạnh vượt trội của quân đội ta trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến: giai đoạn tổng phản công giành chiến thắng.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng…
Tin về chiến thắng từ mọi chiến trường trong cả nước đổ về chiến khu Việt Bắc. Cụm từ như vui về, vui từ, vui lên không chỉ tạo ra không khí phấn chấn, rộn ràng mà còn thể hiện ý: chiến khu Việt Bắc là trái tim của cuộc kháng chiến và niềm vui chiến thắng từ mọi nơi hướng về đó, từ đó lan tỏa trên khắp miền đất này.
Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của hàng loạt địa danh. Thơ kháng chiến thường nhắc tới tên các địa phương gắn liền với các sự kiện lịch sử. Như bài Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm... Cách Tố Hữu sử dụng địa danh khác biệt. Nếu Quang Dũng chú trọng vào những tên đất gợi nhớ về sự hoang sơ, xa xôi, hẻo lánh và bí ẩn; Hoàng Cầm nhấn mạnh vào những tên gợi lên sắc màu truyền thống của quê hương thì Tố Hữu tập trung vào những địa danh nổi tiếng về chiến công, gây ra sự xôn xao trong lòng người. Có thể nói hiếm khi thấy những địa danh bình thường nhưng lại chứa đựng nhiều ý nghĩa lịch sử, thơ ca và vang vọng trong lòng người như thế.
Đoạn thơ này đầy sử thi, thể hiện rõ khả năng tạo ra những bức tranh lịch sử hoành tráng của Tố Hữu thông qua ngôn ngữ thơ ca. Đọc đoạn thơ, chúng ta cảm thấy như đang sống lại trong không khí sôi động của một thời kỳ lửa đạn không thể quên – thời kỳ của những sự kiện lịch sử và những niềm vui, niềm tin, cũng như sự tự hào.
Phân tích khổ 8 bài Việt Bắc - Mẫu 6
Tố Hữu là một trong những nhà văn xuất sắc, thơ của ông đã góp phần quan trọng vào lịch sử dân tộc. Liên quan chặt chẽ với cách mạng Việt Nam, thơ của Tố Hữu đã phản ánh những sự kiện trọng đại trong lịch sử đất nước. Trong đó, bài thơ Việt Bắc và khổ thơ ra trận đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Là một nhà văn vĩ đại, không có gì ngạc nhiên khi thơ của Tố Hữu thu hút độc giả, viết về cuộc kháng chiến mà vẫn thể hiện được những cảm xúc trữ tình, ngọt ngào – một đặc điểm đặc trưng của người Huế.
Tố Hữu, một chiến sĩ cách mạng, luôn lấy Đảng là chân lí, là điểm tựa, là nơi anh gắn bó và trung thành. Từ khi lựa chọn đồng hành với chân lí của Đảng cho đến khi sáng tác bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã thể hiện những ý tưởng cao cả của mình. Anh đã sẵn lòng sống và chiến đấu bên cạnh Đảng để chia sẻ gánh nặng và vinh quang. Khổ thơ ra trận đã phản ánh rõ điều này:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Những đoàn quân dân hùng hục, đầy quyết tâm, liên tục tiến ra trận trên mọi con đường. Họ tỏ ra mạnh mẽ, quyết đoán, liên kết với nhau, thể hiện ý chí kiên cường, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn. Từ ngữ 'những', 'đêm đêm', 'của' chỉ sự sở hữu. So sánh 'như là đất rung' và từ 'rầm rập' thể hiện sự sôi động, sức mạnh và tinh thần lớn lao như một làn sóng không thể ngăn cản.
Quân vững bước, quyết tâm đi tiếp
Ánh sao đầu súng, mũ nan bên nhau
Tiếp theo là hình ảnh 'quyết tâm' và 'liên tục' được phân tách thành hai từ láy 'điệp' và 'trùng' để diễn tả hình ảnh các đoàn quân kéo dài, ánh sáng đầu súng có thể là mũ của những người công nhân ở tuyến lửa, cùng với các lực lượng kháng chiến, chặn đứng bên nhau. Đây là những hình ảnh thực, thể hiện sức mạnh của dân tộc ta. Hình ảnh này càng đẹp đẽ hơn khi kết hợp với các đoàn công nhân ở tuyến lửa, những con người giản dị, chân thành, cùng nhau tạo nên một làn sóng mạnh mẽ.
Dân quân mạnh mẽ, quyết tâm từng đội
Bước chân quyết liệt, mạnh mẽ như bước trên đá nát
Các từ ngữ 'từng', 'muôn', chỉ sự mạnh mẽ của những lực lượng đồng lòng, không chỉ là quân đội mà còn là công nhân dân quân, 'đỏ đuốc' là màu đỏ của lửa, biểu tượng cho nhiệt huyết của người Việt Nam, tinh thần kháng chiến dữ dội. Cách diễn đạt 'bước chân nát đá' nhấn mạnh sức mạnh không thể cản trở của sự đoàn kết toàn dân. Một cảm hứng đầy lãng mạn.
Nghìn đêm sương dày mịt mùng
Đèn pha sáng tỏ như bình minh soi
Trên con đường ra trận, không thể thiếu hình ảnh các xe tăng liên tiếp nhau vượt qua núi non, qua bom đạn, mang vũ khí ra tiền tuyến ngày đêm. 'Nghìn đêm' và 'thăm thẳm' gợi lên ý nghĩa biểu tượng về sự khó khăn, gian khổ trong thời kỳ kháng chiến.
So sánh 'như ngày mai lên' phản ánh niềm tin vào chiến thắng, tinh thần lạc quan, hy vọng luôn hiện hữu, thể hiện tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc.
Bằng việc sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, Tố Hữu đã làm cho câu thơ sống động hơn, đẹp hơn. Với giọng thơ linh hoạt, từ hăng say đến đằm thắm, tha thiết và vui vẻ, ông đã truyền đạt những hình ảnh tuyệt vời. Điều này không chỉ là nguồn động viên lớn trong thời chiến mà còn là động lực to lớn trong thời bình, ca ngợi và khẳng định giá trị của sự đoàn kết dân tộc.
Phân tích khổ 8 bài Việt Bắc - Mẫu 7
Bức tranh 'Việt Bắc tiến quân' được Tố Hữu mô tả vô cùng tráng lệ, với khí thế hùng hậu của những chiến sĩ mới ra trận, như đã sẵn sàng đoạt chiến thắng.
Hai câu đầu phản ánh một cách tổng quát. Tác giả mô tả con đường tiến quân để thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của những người lính.
Những con đường Việt Bắc
Đêm đêm rền vang như lòng đất rung
Cứ ngỡ như mặt đất cũng đang rung chuyển dưới bước chân của những người chiến binh trong mọi trận đánh hùng hậu, từ mọi con đường của căn cứ cách mạng.
Hai câu tiếp theo vẽ nên hình ảnh của 'đội quân đi' đầy ấn tượng. Họ là sức mạnh vô tận trong hàng ngũ 'điệp điệp trùng trùng'. Họ là những ngôi sao trên đầu súng, như là kỷ niệm về hình ảnh 'đầu súng dưới ánh trăng' trong thơ Chính Hữu. Cái ánh sáng ở đây gần gũi với mũ bảo hiểm của họ, lại chiếu sáng cho lý tưởng trên đầu súng của lính. Một bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạn, khiến người ta suy tư về đội quân của Bác Hồ với nhiều cảm xúc đẹp.
Hai câu thứ 5 và 6 vẽ lên hình ảnh của các đoàn dân công phục vụ phía tiền tuyến:
Dân công đỏ lửa từng nhóm
Bước chân vỡ đá, muôn lửa bay cao.
Trong cuộc chiến chống Pháp, ban ngày là thời gian của địch nhưng ban đêm thuộc về chúng ta. Hình ảnh của các đoàn dân công đi qua đêm với lửa sáng đỏ là sự thật. Nhưng với ánh sáng đỏ ấy cùng với 'muôn lửa bay cao', lại mang đậm nét lãng mạn. Giống như một lễ hội đèn đỏ! Còn 'bước chân vỡ đá' là bước chân của những người vượt qua mọi chướng ngại để tiến lên phía trước. Lấy ý từ câu ca dao 'trông cho chân cứng đá mềm', Tố Hữu đã sáng tạo ra một hình ảnh thơ quen thuộc nhưng mới mẻ để ca ngợi sức mạnh của những người chiến thắng.
Hai câu cuối tạo ra hình ảnh của các đoàn xe tiến ra trận với đèn pha sáng rực làm sạch bóng tối của đêm dày của núi rừng Việt Bắc. Rất thực tế nhưng cũng rất lãng mạn. Đằng sau ý nghĩa thực tế, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng, ý nghĩa tượng trưng, trong một hình ảnh lạc quan rạng rỡ.
Đèn pha sáng tỏ như ánh mai sáng rạng.
Ngày mai đã tỏa sáng từ trong bóng tối dày của đêm nhờ vào ánh sáng từ đèn pha, nhờ vào sức mạnh của con người. Vì họ đã từng bước ra chiến trường với sự chắc chắn rằng chiến thắng đã thuộc về mình ngay từ lúc mới ra quân. Câu thơ để lại nhiều ấn tượng, về một cảnh ra quân tráng lệ, đầy hào khí.
Chỉ với 8 câu thơ, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh 'Việt Bắc ra quân' thật tuyệt vời. Bức tranh không chỉ là hồi sinh những kỷ niệm hùng vĩ của quân dân ta trên mảnh đất thiêng liêng của cách mạng mà còn mang lại niềm tin vào quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những tác phẩm thơ hay nhất trong bài thơ Việt Bắc.
Phân tích cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 8
Bài thơ 'Việt Bắc' không chỉ là một bản hùng ca lịch sử về những anh hùng dân tộc mà còn là một tình khúc sâu lắng, đậm chất dân tộc giữa quân dân chiến khu và lãnh đạo cách mạng. Đồng thời, đó cũng là bản kết luận của một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm của cách mạng, đặc biệt là bức tranh 'Việt Bắc ra quân':
Những con đường Việt Bắc
Đêm đêm vang lên như là tiếng đất rung
Đội quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng và mũ bảo hiểm
Dân công đỏ lửa từng nhóm
Bước chân vượt qua chướng ngại, muôn lửa bay cao
Đêm dày sương mù phủ lên nghìn dặm
Đèn pha chiếu sáng như hôm sau rạng ngời
Bao phủ đoạn thơ là sự nhớ về tất cả niềm tự hào, nhớ về những con đường chiến dịch, những đoàn quân, dân công,... Tác giả tôn vinh sức mạnh mãnh liệt của quê hương, của con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh đầy máu lửa.
Từ những chiến thắng ban đầu tại Phủ Thông, đèo Giang, sông Lô, Cao Lạng, quân ta đã nâng cao tự tin và chiếm ưu thế chủ động:
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm vang lên như là tiếng đất rung
Đoàn quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng cùng mũ bảo hiểm
Hình ảnh trong thơ 'Đêm đêm vang lên như là tiếng đất rung' đã mô tả sự trưởng thành, phát triển nhanh chóng và khí thế ra trận hào hùng, mạnh mẽ của quân đội chúng ta. Nhớ lại ngày lễ xuất quân của đội quân Việt Nam giải phóng chỉ có 34 người. Nhưng qua vài năm chiến đấu, quân đội của chúng ta đã trưởng thành về sức mạnh và thế lực với nhiều sư đoàn, quân đoàn vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu. Ngày cũng như đêm, đoàn quân ra trận như một cơn bão. Hình ảnh trong thơ về 'ánh sao trên đầu súng' không chỉ thể hiện hiện thực mà còn đầy cảm hứng lãng mạn. Ánh sáng trên đầu súng của lính cụ Hồ luôn chiếu sáng như những vì sao sáng rực, hòa cùng với ánh sao của lý tưởng Cách mạng hòa bình, niềm tin vào chiến thắng.
Cùng với những đoàn quân chính thức, vẻ vang còn có lực lượng dân công phục vụ phía trước:
Dân công đỏ lửa từng nhóm
Bước chân vượt qua đá vụn, muôn lửa bay cao
Hình ảnh 'dân công đỏ lửa từng nhóm' chính xác với thực tế. Từng nhóm, từng nhóm dân công với đuốc đỏ sáng chói trên tay vội vã ra trận. 'Bước chân vượt qua đá vụn, muôn lửa bay cao' là biểu tượng mạnh mẽ, tôn lên sức mạnh phi thường của lực lượng dân công trên tiền tuyến. Đó không chỉ là biểu tượng cho sức mạnh của đoàn dân công mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của toàn dân tộc. Hình ảnh sáng rực, ý nghĩa của câu thơ lan tỏa niềm vui.
Hai câu cuối là hình ảnh của đèn pha vượt qua màn đêm tối ở rừng Việt Bắc:
Đêm dày sương mù che phủ nghìn đêm
Đèn pha chiếu sáng như ánh mai rạng ngời
Những câu thơ 'Đêm dày sương mù che phủ nghìn đêm / Đèn pha chiếu sáng như ánh mai' tạo ra cảm giác lạc quan, tin tưởng vào tương lai chiến thắng của dân tộc. Ánh sáng từ đèn pha của ô tô kéo pháo chiếu sáng màn đêm dày đặc, chỉ đường cho các chiến sĩ, nhưng cũng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Ánh sáng đó sẽ xuyên thủng bóng tối của đêm để hướng tới tương lai tươi sáng, tương lai hòa bình của dân tộc.
Chỉ với 8 câu thơ, Tố Hữu đã tái hiện chân thực, hào hùng khí thế ra trận của quân và dân ta. Toàn quân ra trận với tốc độ khẩn trương, lực lượng hùng hậu, với ý chí chiến đấu quyết tâm giành lại hòa bình cho dân tộc. Có thể nói, đây là một đoạn thơ hay và đẹp trong 'Việt Bắc.
Phân tích cảnh ra trận trong bài Việt Bắc - Mẫu 9
Tố Hữu được đánh giá là lá cờ đầu của văn nghệ cách mạng Việt Nam. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình sâu sắc, đậm đà, tính dân tộc. Tiêu biểu cho những tìm tòi, sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc không chỉ là khúc ca ân tình mà còn là bản tổng kết 15 năm cách mạng. Bên cạnh những đoạn trữ tình ngọt ngào, ta lại gặp những khúc ca hùng ca đầy khí thế chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh “Việt Bắc ra quân” hào hùng.
“Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Ðêm đêm vang lên như là tiếng đất rung
Ðoàn quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ lửa từng nhóm
Bước chân vượt qua đá vụn, muôn lửa bay cao.
Ðêm dày sương mù che phủ nghìn đêm
Ðèn pha chiếu sáng như ánh mai rạng ngời.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan Trung ương Đảng và chính phủ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Tình cảm sáng tác tạo ra một không khí tâm trạng đặc biệt đầy cảm xúc, đầy nỗi buồn thương. Tố Hữu đã thành công áp dụng thể thơ lục bát, sử dụng cặp đại từ nhân xưng là mình và ta, một lối diễn đạt quen thuộc trong ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào khám phá ra những nỗi niềm, những nỗi buồn, với sự phủ nhận của quá khứ oai hùng của cuộc kháng chiến. Thông qua đó, tình thương của những người chiến đấu với dân tộc, với Việt Bắc, với quê hương được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động.
Có thể nói, hạt giọt của tác phẩm nằm trong mười hai câu thơ diễn đạt nỗi nhớ của những người về những cảnh đẹp và hùng vĩ của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến. Và có lẽ, đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc không phải là về những con đường chiến đấu.
“Con đường Việt Bắc chúng ta đi qua
Ðêm đêm rung lên như đất đang lay”
Với hình ảnh đầu tiên: “Con đường Việt Bắc chúng ta đi qua”. Tiếng gọi “chúng ta” rất quyết định của quân và dân ta với ý thức làm chủ đất nước. Tiếp theo là hình ảnh “đêm đêm rung lên như đất đang lay”. Với từ ngữ “đêm đêm” và “rung lên” kết hợp với so sánh “như đất đang lay”, vừa thực tế, vừa mạnh mẽ, đã cho thấy đất đang rung chuyển dưới bàn chân của những người chiến sĩ. Đây là hình ảnh hùng vĩ là âm vang của cuộc kháng chiến của dân tộc mà không có thế lực nào có thể ngăn cản.
Kế tiếp là đoàn quân vô cùng đông đảo:
“Quân ta đi ra trận với sức mạnh vô biên
Bình minh phía trước dẫn đường bạn, ngọn đèn đầu súng”
Hình ảnh “quân ta đi” rất ấn tượng. Trong dàn đội “sức mạnh vô biên” như một biểu tượng sức mạnh vô hạn. Hai từ “vô biên” đã mô tả đầy ấn tượng về sự liên tục và không ngừng của cuộc hành quân của đoàn quân rộng lớn khắp rừng Việt Bắc. Hình ảnh “bình minh phía trước” và “ngọn đèn đầu súng” không chỉ miêu tả thực tế mà còn gợi lên một vẻ đẹp lãng mạn về cuộc chiến kháng chiến. Ánh sáng từ ngọn đèn đầu súng phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sáng của bầu trời Việt Bắc, ánh sáng của lý tưởng cách mạng. Một hình ảnh vừa thực tế, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Tiếp theo, hình ảnh những người dân công phục vụ kháng chiến được Tố Hữu nhấn mạnh:
“Dân công đỏ lửa từng đoàn
Bước chân cứng đá, vẻn vẹn tàn lửa lung linh”
Trong cuộc chiến dân tộc, ngày như đêm, đêm như ngày. Vào đêm Việt Bắc ra trận, hình ảnh những đoàn quân đi ra trận, chúng ta thấy “Dân công đỏ lửa từng đoàn”, họ như những chiến sĩ hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. Trong cảnh hào hùng đó, hình ảnh “tàn lửa lung linh” từ những bó đuốc đỏ tạo ra một con đường ra trận thêm lung linh và huyền ảo. Với cách diễn đạt cường điệu “bước chân cứng đá”, mô tả sức mạnh và lòng quyết tâm từ hàng vạn con người, họ sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để đạt được chiến thắng. Điều này đã tạo ra một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ, nhằm ca ngợi sức mạnh của con người Việt Nam. Ý thơ mang đậm tinh thần sử thi.
Hai câu tiếp theo mô tả hình ảnh của những đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải chở lính và vũ khí, cùng với lương thực, góp phần tạo nên không khí phấn chấn trên những con đường kháng chiến
“Nghìn đêm dày sương khói mịt mù
Đèn pha sáng rực như bình minh mới nở”
Đây là hình ảnh vừa thực vừa lãng mạn, phản ánh thực tế của cuộc hành quân xuyên qua rừng núi, vượt qua sương mù đêm tối. “Đèn pha sáng rực như bình minh mới nở” mô tả sự lạc quan, hy vọng vào tương lai hòa bình và chiến thắng. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh và phóng đại một cách thành công, khiến cho đèn pha trở thành biểu tượng cho mặt trời mọc, biểu tượng cho ngày mai với niềm tin vào chiến thắng
“Niềm tin chiến thắng tràn ngập khắp mọi miền đất nước,
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên ăn mừng
Ðồng Tháp, An Khê vui mừng,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Niềm tin vào chiến thắng được củng cố, niềm vui của tác giả và nhân dân Việt Bắc tràn ngập trên khắp mọi miền đất nước. Các địa danh như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên... đều chứa đựng những chiến công lớn lao, niềm tự hào của dân tộc. Mỗi địa danh đều kết hợp với từ ngữ “ăn mừng” hoặc “vui mừng” hoặc “vui lên”, tạo ra một bức tranh rực rỡ về những chiến thắng, niềm vui lan tỏa từ Bắc chí Nam
Đoạn thơ 12 cây mô tả sức sống mãnh liệt của Việt Bắc, phản ánh niềm tự hào sâu sắc của dân tộc ta. Với âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ và những hình ảnh phóng đại, đoạn thơ này là biểu tượng cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Tóm lại, bức tranh Việt Bắc ra trận là một bài ca hùng tráng, vẫn vang dậy cho đến ngày nay. Là một học sinh, tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được sống trong thời bình, biết ơn vô hạn những chiến sĩ đã hy sinh, giành lại độc lập cho quê hương, cho dân tộc.
Phân tích khung cảnh ra trận trong bài Việt Bắc - Mẫu 10
Theo Nguyễn Đình Thi, suốt đời, Tố Hữu là nhà thơ của cách mạng, luôn dành tình yêu dịu dàng cho quê hương và nhân dân. Khi Tố Hữu ra đi, điều này đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện, điều này khiến chúng ta tự hào và xúc động. Ngay cả khi mô tả khí thế ra trận, miêu tả cảnh hùng tráng của dân tộc, ta vẫn cảm nhận được chút dịu dàng, nét đặc trưng của văn hóa Huế được gửi gắm vào lòng người Việt Nam.
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm vang lên như là tiếng đất rung
Với từ “những”, ta thấy rõ sự liên tục của các đoàn quân trùng trùng điệp điệp trên con đường Việt Bắc, tạo ra một bầu không khí ra trận mãnh liệt, làm rung chuyển mọi thứ, thể hiện khí thế hùng mạnh của những người dân chủ động, kiểm soát đất nước. Bằng cách sử dụng từ láy “đêm đêm”, Tố Hữu tạo ra hình ảnh của một cuộc hành trình lặp đi lặp lại, kéo dài qua nhiều đêm, những bước chân “rầm rập” của hàng triệu người tạo nên âm thanh dồn dập của cuộc di chuyển. Bằng cách so sánh “như là đất rung”, ông khẳng định sức mạnh, sự sống động của lực lượng kháng chiến Việt Bắc.
Quân đội ra trận, trùng trùng điệp điệp
Ánh sao phía trước như mũ nan đánh sáng
Khí thế được thể hiện rõ nét hơn, với sự phân tách từ “điệp trùng” thành “điệp điệp” “trùng trùng”, tạo ra hình ảnh của rất nhiều đoàn dân công tiến về phía trước. Trong cuộc chiến, hy sinh không thể tránh khỏi, đọc đến đây, ta không thể không cảm thấy buồn bã, họ biết rằng việc ra đi có thể không bao giờ có ngày trở về, nhưng tinh thần đoàn kết của họ khiến ta cảm thấy thêm xúc động và tự hào. Hình ảnh so sánh “ánh sao trên mũ” rất giống với hình ảnh “trăng treo trên đầu súng” của Chính Hữu. Đó là hình ảnh lãng mạn, trang trọng và đẹp đẽ. Những người lính giải phóng đang ra trận, họ không chỉ anh dũng mà còn lãng mạn. “Ánh sao phía trước” kết hợp với “mũ nan” có thể là mũ của những người dân công ở hỏa tiễn, họ cùng nhau tiến lên chiến đấu, những hình ảnh này bên nhau tạo nên một cảnh tượng thật sự lãng mạn. Chúng cũng làm nổi bật sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc.
Đoàn dân công ra trận, đỏ lửa từng đoàn
Bước chân như đá nát, lửa bay khắp nơi
Vẫn là các đoàn dân công liên tiếp ra trận, những bước đi của họ đi kèm với những bóng đuốc đỏ rực sáng. Đây là hình ảnh thực tế, đẹp và tráng lệ, từ màu đỏ của lửa được nhấn mạnh, nhấn mạnh sức mạnh tinh thần, khí thế mạnh mẽ như máu chảy trong tim và ý chí quyết tâm của tất cả mọi người, làm cho những bước chân của họ trở nên mạnh mẽ hơn, có thể “nát đá” trên mọi con đường.
Nghìn đêm u tối, sương dày mù mịt
Đèn pha sáng rực như bình minh mai
Trong những cuộc hành quân gặp phải vô vàn khó khăn, từ đêm đen u tối, u ám, bao phủ bởi sương lạnh của rừng già. Nhưng nhờ tinh thần đoàn kết của lực lượng kháng chiến, Tố Hữu đã dùng hình ảnh biểu tượng “đèn pha bật sáng” để tượng trưng cho niềm hi vọng quyết tâm và sự chiến thắng sẽ mang lại ánh sáng cho dân tộc, để “bình minh mai” sẽ là một ngày thắng lợi và tươi sáng nhất.
Tin vui chiến thắng từ khắp nơi
Hòa bình, Tây Bắc, Điện Biên mừng vui
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Từ khắp mọi miền, không chỉ một nơi, để nói về niềm vui khi chiến thắng đến với toàn dân tộc. Từ “vui” kết hợp với cụm từ “mừng vui từ”, “mừng vui lên”, chỉ ra một niềm vui tự hào lớn, mà ta cảm nhận như niềm vui đang lan tỏa từng chỗ, tràn ngập khắp mọi nơi, là thành quả của sự đoàn kết toàn quốc trong những ngày cả nước hành quân ra trận. Đồng thời, việc kết hợp với các địa danh khắp nước, nhấn mạnh lại lần nữa sự chiến thắng của dân tộc, niềm vui sẽ lan tỏa đến mọi ngóc ngách của tổ quốc.
Kháng chiến ơi! Mười năm gian truân
Sáng mai nghìn năm vẫn sáng soi
Có vẻ như Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi đã hòa mình vào tinh thần này, tất cả những nỗ lực chiến đấu, giống như một ngọn lửa sáng rực. Và ý chí quyết tâm đó sẽ là nguồn sáng soi rọi tương lai, động viên nhân dân ta tiếp tục nỗ lực giành chiến thắng trên mọi miền đất nước.
Bức tranh về Việt Bắc ra trận thể hiện tinh thần ý chí và miêu tả cảnh quan trận đấu hùng vĩ của dân tộc ta. Tố Hữu đã dùng từ ngữ của mình để tăng thêm sức mạnh cho dân tộc. Tinh thần đó là nguồn hy vọng lớn, giúp chúng ta tiếp tục đấu tranh cho độc lập trong tương lai. Xin cảm ơn Tố Hữu vì điều đó, cảm ơn người đã giữ lửa tinh thần cho dân tộc Việt Nam, để thế hệ sau tiếp tục gìn giữ tinh thần của thế hệ cha anh.
Phân tích về cảnh quan trận đấu trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 11
Ngay từ đầu cuộc chiến chống Pháp, đặc biệt là thời kỳ Cách mạng tháng Tám, Tố Hữu được xem là hình mẫu của một tuổi trẻ không ngại khó khăn và hy sinh, dũng cảm tham gia vào cuộc đấu giải phóng đất nước bằng cả tinh thần và sinh mạng của mình.
Tố Hữu được đánh giá là biểu tượng của văn học Việt Nam, ông để lại một di sản văn học vô cùng phong phú và giá trị, cùng với một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình chính trị sâu sắc, thể hiện tinh thần dân tộc. Việt Bắc là tổng kết của một giai đoạn lịch sử gian khổ và dũng cảm của cuộc chiến chống Pháp kéo dài 15 năm. Ngoài những đoạn thơ trữ tình sâu lắng, ta còn thấy những bức tranh hùng vĩ, tươi sáng về tinh thần chiến thắng của quân đội ta, điển hình là bức tranh “Việt Bắc ra trận”.
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm râm ran như tiếng đất rung
Quân ra điều tiếp tục liên tiếp, hàng trăm người, hàng vạn người
Ánh sao sáng trên đầu súng, cùng mũ bảo hộ
Các đội công nhân đỏ lửa, từng đội một
Bước chân dẫn đến sự phá vỡ của đá, lửa bốc cháy như muôn ngàn vạn ngọn lửa
Nghìn đêm dày sương, bóng đêm thăm thẳm
Đèn pha soi sáng như ánh bình minh sắp lên.
Bốn câu thơ đầu tiên tác giả miêu tả con đường Việt Bắc cùng thể hiện tinh thần dũng cảm của những người ra trận:
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm râm ran như tiếng đất rung
Quân ra điều tiếp tục liên tiếp, hàng trăm người, hàng vạn người
Ánh sao sáng trên đầu súng, cùng mũ bảo hộ
Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những con đường cách mạng của dân tộc, đã đến lúc mở rộng và tiến xa. Hình ảnh con đường là biểu tượng quen thuộc trong thơ Tố Hữu, tượng trưng cho con đường cách mạng. Khí thế hùng hồ được thể hiện qua loạt từ ngữ như 'đêm đêm', 'râm ran', 'điệp điệp', 'trùng trùng'. Đoạn thơ gợi lên không khí rộng lớn 'những con đường Việt Bắc' và thời gian kéo dài 'đêm đêm' của cuộc kháng chiến vĩ đại, khắc nghiệt. Với từ 'râm ran' đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta trở thành một cuộc diễu binh hùng tráng, duyệt binh. Khí thế chiến trận được cảm nhận qua âm thanh 'râm ran' - từ ngữ này không chỉ diễn đạt được âm thanh mạnh mẽ của bước chân mà còn giúp người đọc hình dung được nhịp độ gấp gáp, khẩn trương của hàng triệu người cùng hành quân về một hướng. Tất cả tạo nên một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang dấu ấn sâu sắc của truyền thuyết. Trên con đường ấy dường như cả nước cùng tham gia vào. Tất cả đã miêu tả đoàn quân mạnh mẽ tiến về như những đợt sóng dâng trào, mỗi đợt tiếp theo nối tiếp đợt trước, dường như không bao giờ ngừng.
Mặc dù trang bị vật chất còn nhiều thiếu sót, nhưng đoàn quân 'điệp điệp trùng trùng' trở thành biểu tượng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta trong cuộc kháng chiến. Hình ảnh rạng ngời ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ bảo hộ giản dị tạo ra một vẻ đẹp bình dị nhưng cao cả, bình thường nhưng vĩ đại. Trong những đêm dài điều hành quân chiến đấu, ánh sáng sao lấp lánh trên đầu súng của lính, đó chính là ánh sáng hiện thực giữa bóng tối cũng là một biểu tượng ẩn dụ về ánh sao của lý tưởng, của niềm tin vững chắc trong chiến sĩ, đuổi đánh kẻ thù, bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc. Hình ảnh này gợi liên tưởng tới hình ảnh 'đầu súng trăng treo' trong tác phẩm của Chính Hữu. Nếu ánh trăng trong tác phẩm của Chính Hữu là biểu tượng cho khát vọng hòa bình, thì ánh sao trong bài thơ này là biểu tượng của lý tưởng, của niềm tin chiến thắng đang tỏa sáng trong tâm hồn người ra trận.
Tác giả đã mô tả sức mạnh mạnh mẽ của quân đội nhân dân bằng cách sử dụng lối nói thậm xưng, phóng đại:
Các đội công đỏ rực ánh lửa từng đoàn
Những bước chân vượt qua đá nát, khiến lửa bốc cháy muôn phương
Những bó đuốc sáng tỏa soi rọi con đường đã làm rực sáng hình ảnh của các đoàn công nhân vận chuyển tài nguyên quân sự, kiên cường vượt qua những cung đường gồ ghề, đảm bảo cung cấp lượng vật chất cho quân đội chiến đấu và giành chiến thắng. Các từ như 'từng đoàn', 'muôn tàn lửa' kết hợp với các động từ 'đỏ rực', 'bước chân', 'nát đá', 'lửa bay' ca ngợi lòng nhiệt tình, sự hăng hái, đông đảo và sức mạnh vượt trội của những đội công nhân. Sức mạnh này thể hiện qua khắp núi rừng, tinh thần làm việc cả ngày lẫn đêm của họ khiến cho cả núi cao phải chào thua, và đêm tối cũng phải sáng tỏ. Thành ngữ 'chân cứng đá mềm' được Tố Hữu biến tấu thành 'bước chân nát đá', một hình ảnh khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong cuộc kháng chiến. Cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc chiến của toàn dân, vận dụng sức mạnh toàn dân tộc để đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa, vì thế chúng ta nhất định sẽ chiến thắng.
Từ những đêm dày sương của Việt Bắc, một cảm hứng lãng mạn về tương lai rạng ngời của dân tộc vượt qua những dòng thơ:
Ngàn đêm u ám sương dày bao phủ
Ánh đèn pha rực sáng như ánh mai sớm một ngày mới
Hình ảnh các đoàn xe ra trận với ánh đèn pha soi sáng, làm sạch màn sương đêm dày của núi rừng Việt Bắc, thật hiện thực và lãng mạn. Ánh sáng này xuyên thủng bóng tối đêm để mở ra tương lai tươi sáng, tương lai hòa bình cho dân tộc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, phóng đại thành công việc 'đèn pha' như mặt trời mọc, như ngày mai tươi đẹp từ trong đêm sâu thẳm nhờ ánh sáng. Sức mạnh của con người cùng với lý tưởng cao đẹp đã thể hiện sự hào hứng và niềm tin tuyệt đối vào ngày mai chiến thắng.
Đoạn thơ trên như một dấu gạch nối, minh chứng cho những ngày tháng chiến đấu gian khổ, nhưng hào hùng với tinh thần anh dũng quyết chiến quyết thắng của toàn dân tộc, để hiện thực hóa ước mơ về ngày mai tươi đẹp. Tố Hữu cũng thể hiện mong ước đền đáp ân nghĩa với những người hi sinh cho cách mạng và kháng chiến, mong họ được sống trong hạnh phúc, tươi đẹp. Cuộc sống hạnh phúc, an lành là mục tiêu, là lí tưởng cao cả, là nguồn sức mạnh to lớn của những người kháng chiến. Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại, là một ví dụ cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
.............
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu