Phân tích phần mở đầu của Tuyên bố Độc lập cung cấp 13 mẫu cực hay, giúp học sinh tự học để mở rộng kiến thức, nâng cao kỹ năng viết nghị luận văn học một cách tiến bộ hơn mỗi ngày.
Phần mở đầu của Tuyên bố Độc lập chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là một đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ. Ngoài bài phân tích phần mở đầu Tuyên bố Độc lập, bạn cũng có thể xem phân tích Tuyên bố Độc lập và nhiều bài văn khác tại chuyên mục Văn 12.
Dàn ý phân tích phần đầu của bản Tuyên ngôn độc lập
Dàn ý chi tiết số 1
1. Bắt đầu
- Tổng quan về tác phẩm 'Tuyên ngôn độc lập' của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phần đầu tiên.
2. Nội dung chính
a. Ý nghĩa của phần đầu trong bản tuyên ngôn
- Phần mở đầu là nơi trình bày nguyên tắc tổng quát của bản tuyên ngôn.
- Tác giả đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 nhằm:
- Khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc.
- Nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố.
- Từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc.
b. Giá trị nghệ thuật của phần mở đầu bản tuyên ngôn
- Tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho các phần còn lại.
- Dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.
- Lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết.
3. Kết bài
- Đánh giá vai trò của phần mở đầu đối với tác phẩm 'Tuyên ngôn độc lập'.
Dàn ý chi tiết số 2
I. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và đoạn trích Tuyên ngôn độc lập
II. Nội dung chính
* Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)
- Đoạn trích nhấn mạnh vào quyền lợi cao quý của con người, không ai có thể vi phạm. Mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do...
- Khởi đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ hai tuyên ngôn của Pháp và Mỹ.
- Sử dụng phép suy luận tương đồng, sau khi trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, ông đã 'Mở rộng ý nghĩa của đó bằng cách nói rằng: Mọi dân tộc trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng, đều có quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do...'.
- Và cuối cùng, ông khẳng định: 'Đó là những lẽ không ai có thể phủ nhận'.
- Nghệ thuật lập luận: Cách lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích, vừa khéo léo và kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và thuyết phục mạnh mẽ.
- Khéo léo: Hồ Chí Minh biết trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất hủ của người Mỹ, người Pháp...
- Kiên quyết: ông khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí mà người Mỹ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh báo rằng nếu thực dân Pháp tấn công Việt Nam một lần nữa thì họ sẽ phản bội tổ tiên của mình, làm bẩn cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã chiến đấu được.
- Lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo: lời suy rộng của ông chứa đựng tư tưởng cao đẹp của nhà cách mạng. Ông đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền tự quyết, quyền bình đẳng của mọi dân tộc trên thế giới. Đây là một đóng góp của ông và của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng toàn cầu, mang ý nghĩa nhân văn của nhân loại trong thế kỷ XX.
* So sánh với phần mở đầu của Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) để đánh giá cách xác lập chân lý về quyền tự do dân tộc của mỗi tác giả.
- Phần đầu của Bình Ngô đại cáo: Đặt ra chủ đề chính nghĩa.
- Nguyễn Trãi tập trung vào tinh hoa của tư tưởng nhân nghĩa và đưa ra nội dung mới: nhân nghĩa là sự yên bình cho dân chúng, loại bỏ bạo lực.
- Chân lí về quyền tồn tại độc lập, có chủ quyền của Đại Việt: Biên giới lãnh thổ, văn hiến, phong tục, lịch sử, chính sách, anh hùng...
- Phong cách: trang trọng, truyền cảm và hào hùng, phản ánh bản chất của một bài tuyên ngôn.
* Nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền tự do dân tộc của từng tác giả.
- Điểm tương đồng: Cả hai tác phẩm đều mang giá trị văn học - nhân văn sâu sắc. Cả hai đoạn trích đều xây dựng cơ sở pháp lý cho mỗi tuyên ngôn.
- Điểm khác biệt: Mỗi tác giả đều mang phong cách sáng tạo riêng. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi dựa trên lập trường 'Nhân nghĩa' của dân tộc Việt Nam (yên bình dân chúng, loại bỏ bạo lực), trong khi Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đặt nặng vào quyền bình đẳng, quyền tự do của các dân tộc. Bình Ngô đại cáo tập trung vào bên trong nước Đại Việt, trong khi Tuyên ngôn độc lập không chỉ tuyên bố trước dân tộc Việt Nam mà còn đưa tư tưởng độc lập dân tộc lên một tầm cao mới. Nguyễn Trãi sử dụng thể cáo trong khi Hồ Chí Minh sử dụng thể tuyên ngôn...
* Giải thích (khuyến khích học sinh).
- Điểm tương đồng: vì cả hai tác giả đều là những nhân vật vĩ đại của Việt Nam, họ đã hấp thụ tinh hoa dân tộc từ thế hệ trước, và có tình yêu sâu đậm đối với quê hương, đồng bào.
- Điểm khác biệt: vì hai tác giả có hoàn cảnh sống, kiến thức và tài năng nghệ thuật riêng, đặc biệt là Hồ Chí Minh không chỉ học hỏi từ văn hóa dân tộc mà còn từ văn hóa thế giới một cách đa dạng...
III. Tổng kết
- Đánh giá tầm quan trọng của phần mở đầu đối với tác phẩm 'Tuyên ngôn độc lập'.
Dàn ý chi tiết số 3
I. Bắt đầu
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tác phẩm mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều này rõ ràng được thể hiện trong đoạn mở đầu, được viết rất tinh tế, vừa sắc sảo vừa kiên quyết và chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
II. Phần thân
A. Đoạn mở đầu tỏ ra khôn ngoan và quả quyết
1. Nhiệm vụ của đoạn mở đầu trong một bản Tuyên ngôn là đặt nền tảng tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm. Nguyên tắc của Tuyên ngôn Độc lập là xác nhận quyền tự do, độc lập của dân tộc. Tuy nhiên, ở đây, ông không trực tiếp đề cập đến nguyên tắc đó mà thay vào đó, ông dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1778 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để xác nhận “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Điều này thể hiện một nghệ thuật sử dụng “gậy ông đập lưng ông”.
2. Ông đã thể hiện quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam thông qua những lời của tổ tiên người Mỹ, người Pháp ghi trong hai bản Tuyên ngôn đã từng tôn vinh cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của họ. Cách viết này vừa khôn ngoan vừa quả quyết.
3. “Khôn ngoan” vì ông thể hiện sự tôn trọng đối với những danh ngôn vĩ đại của người Pháp, người Mỹ để “kẻ thù” là các thực dân Pháp, Mỹ không dám nói lên điều gì (sự kiện lịch sử đã chứng minh điều này).
4. “Kiên định” vì nhắc nhở họ không nên phản bội tổ tiên của mình, không làm ô uế cho lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của Pháp, Mỹ, nếu họ tấn công và xâm lược Việt Nam.
B. Đoạn mở đầu chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc
1. Bắt đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam bằng việc nhắc đến hai bản Tuyên ngôn lịch sử của hai quốc gia lớn như thế cũng đồng nghĩa với việc đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập và ba bản Tuyên ngôn ở cùng một mức độ, và thực tế, Cách mạng Tháng Tám 1945 của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1778) và Pháp (1789) một cách đúng đắn.
2. Sau khi đề cập đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra và bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” đó là một đóng góp có ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đó như là lời phát động cho cuộc cách mạng ở các thuộc địa sẽ đẩy đổ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới vào nửa sau của thế kỷ XX (lịch sử cũng đã chứng minh điều này).
III. Kết bài
Đoạn khởi đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là một khúc mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.
Sơ đồ tư duy Tuyên ngôn độc lập
Phân tích đoạn 1 Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 1
Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, người Cha già dân tộc của toàn bộ nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã dành trọn cuộc đời để giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc. Người không chỉ mang lại tình thương cho nhân dân mà còn là danh nhân văn hóa, lịch sử, nhà văn, nhà thơ vĩ đại của nước nhà. Tuyên ngôn độc lập được Người đọc tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945 là sự kiện lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn trên thế giới. Có người cho rằng 'Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khéo léo vừa kiên quyết và đong đầy ý nghĩa sâu sắc'. Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm này, đặc biệt ở đoạn văn mở đầu của văn kiện.
Bằng tiếng gọi thân thương 'hỡi đồng bào cả nước', Bác Hồ đã mở đầu văn kiện của mình bằng những lời về quyền được mưu cầu hạnh phúc và hòa bình của con người. Đây là một sự bắt đầu sáng suốt, khéo léo của Bác. Tiếp theo, Bác đã trích dẫn về quyền bình đẳng và tự do của hai nước là Mỹ và Pháp. Đây chính là hai quốc gia đã gây ra những tổn thất và đau khổ tại Việt Nam. Nhờ điều này, Bác đã lợi dụng những lời nói của hai quốc gia này về quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc của con người để mà ám chỉ hành động ngược lại của họ: xâm lăng, đô hộ Việt Nam. Ý nghĩa sâu sắc ở đây chính là Bác đã phản bác lại những kẻ xâm lăng Việt Nam bằng những lời nói về quyền bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Nhờ việc trích dẫn như vậy, lời nói, lí lẽ của Bác không chỉ có trọng lượng của một tài liệu chính trị quan trọng mà nhân dân cũng có thể hiểu được. Nhờ đó, văn bản đã thực sự đạt được mục tiêu của một văn kiện lịch sử quan trọng nhất đối với dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, đoạn khởi đầu của Tuyên Ngôn độc lập mang ý nghĩa quan trọng đối với sự độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhờ những lập luận sâu sắc, thuyết phục và sắc bén, văn kiện này đã mở ra một trang lịch sử rực rỡ của dân tộc Việt Nam.
Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 2
Trải qua lịch sử văn học Việt Nam, có những tác phẩm ra đời với mục đích chính trị, quân sự, nhưng cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực. 'Tuyên ngôn độc lập' xuất hiện vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra một bản văn chính luận mẫu mực. Điều này được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.
Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đây là hai quốc gia đã để lại sự xâm lược và đau khổ tại Việt Nam. Nhờ điều này, tác giả đã sử dụng những lời nói của hai quốc gia này về quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc của con người để mà ám chỉ hành động ngược lại của họ: xâm lăng, đô hộ Việt Nam. Ý nghĩa sâu sắc ở đây chính là tác giả đã phản bác lại những kẻ xâm lăng Việt Nam bằng những lời nói về quyền bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Nhờ việc trích dẫn như vậy, lời nói, lí lẽ của tác giả không chỉ có trọng lượng của một tài liệu chính trị quan trọng mà nhân dân cũng có thể hiểu được. Nhờ đó, văn bản đã thực sự đạt được mục tiêu của một văn kiện lịch sử quan trọng nhất đối với dân tộc Việt Nam.
Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm chứng cứ, tác giả đã mở rộng thành quyền của dân tộc, tạo nên một lập luận thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và phải đấu tranh chống lại sự xâm lược như Việt Nam, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và nhân văn sâu sắc.
Với nội dung là việc nêu nguyên tắc chung, phần khởi đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trong lĩnh vực văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo ra một chứng cứ thực tế, hỗ trợ cho lập luận, quan điểm mạnh mẽ của tác phẩm. Tất cả đã tạo ra một luận điểm chặt chẽ và thuyết phục, vừa khéo léo vừa kiên quyết để xây dựng nền tảng pháp lý vững chắc để tác giả chỉ trích tội ác của bọn thực dân.
Như vậy, thông qua nguyên tắc chung được thể hiện ở phần khởi đầu, chúng ta có thể nhìn thấy tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo ra một tác phẩm chính trị - lịch sử, một bài văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần khởi đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những quan điểm mà tác giả phát triển ở các phần sau, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bản 'Tuyên ngôn độc lập' bất hủ.
Phân tích đoạn 1 Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 3
Tuyên ngôn Độc lập là một tài liệu lịch sử có giá trị lớn. Đó là một tuyên bố về việc loại bỏ chế độ thực dân, phong kiến và tái khẳng định quyền tự chủ, quyền bình đẳng của dân tộc ta trong thời kỳ mới, thời kỳ độc lập, tự do. Phần giới thiệu của tác phẩm thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
'Hỡi đồng bào cả nước' là câu mở đầu của bản tuyên ngôn. Nó có sức kích thích, động viên hàng triệu con tim, trí óc và là mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người nhận bản tuyên ngôn này là đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, và bọn thực dân Pháp đang cố gắng xâm lược nước ta cùng với đế quốc Mỹ.
Vì vậy, ông đã trích dẫn hai đoạn từ “Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ” năm 1776. Họ đã được Tạo hóa ban cho những quyền không thể xâm phạm, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791) nêu rõ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hành động này đã đặt nền móng và lập trình pháp lý cho Tuyên ngôn. Bác tỏ ra tự hào, tự tôn dân tộc. Bác đã so sánh cách mạng Việt Nam với cách mạng Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã sử dụng chiến lược “gậy ông đập lưng ông” và thông qua hành động của thực dân Pháp, Mỹ là sự bóp méo lá cờ tự do, bình đẳng, nhân ái và xâm lược Việt Nam.
Kỹ thuật lập luận trong phần giới thiệu cũng rất cụ thể. Hồ Chí Minh đã sử dụng lập luận sắc bén, đanh thép, hùng hồn. Phong cách của ông thể hiện sự uyên bác và trí tuệ đương thời. Tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên phong về các vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lập luận đầy đủ và cụ thể, ông đã đưa ra một lập luận chặt chẽ: “Đây là những sự thật không thể bác bỏ.” Bạn cũng có thể nhận thấy điều đó. Phần mở đầu này đã nhấn mạnh giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Phân tích phần mở đầu của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 4
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện có giá trị lịch sử và ý nghĩa lớn lao: Tuyên bố tiêu diệt chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khởi đầu cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một thời kỳ mới của sự độc lập, tự do cho dân tộc.
Bản 'Tuyên ngôn Độc lập' được Hồ Chí Minh soạn thảo, trong phần mở đầu có giá trị đặc biệt về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, là biểu hiện tiêu biểu của phong cách chính luận của Người.
Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người 'không ai có thể xâm phạm được'. Nhân quyền là một cao cả thiêng liêng, vì 'Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi'.
Nội dung tư tưởng trong phần mở đầu của 'Tuyên ngôn Độc lập' trở nên sâu sắc hơn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng quyền của các dân tộc lên từ quyền thiêng liêng của con người: 'tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Tư tưởng vĩ đại đó không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhỏ bé, phản ánh xu hướng giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là 'đóng góp nổi bật của Cụ Hồ Chí Minh' (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).
Nghệ thuật lập luận trong phần mở đầu cũng rất đặc sắc. 'Tuyên ngôn Độc lập' có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.
Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất về: nhân quyền và dân quyền trong bản 'Tuyên ngôn Độc lập' năm 1776 của nước Mỹ và bản 'Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp' năm 1791. Mỹ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mỹ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mỹ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh 'mở rộng ra' để nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: 'Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được'. Cách lập luận đó rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.
Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa thu hút sự đồng lòng, ủng hộ từ các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.
Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đề mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt tám mươi năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.
Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.
Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 5
“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.
Câu 'Hỡi đồng bào cả nước' là câu khai mạc trong bản tuyên ngôn. Câu này có sức mạnh lôi cuốn, động viên hàng triệu trái tim đồng bào, là mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm cả dân tộc, nhân loại tiến bộ trên thế giới, bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang âm mưu quay lại xâm lược nước ta.
Do đó, Người đã trích dẫn hai đoạn từ 'Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ' năm 1776: 'Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được Tạo hóa ban cho những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc' và 'Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền' của Pháp (1791): 'Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi' làm minh chứng.
Hành động đó đã tạo ra tiền đề, cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã sử dụng chiêu thức 'gậy ông đập lưng ông', thông qua hành động của thực dân Pháp, Mỹ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, nhân ái để xâm lược Việt Nam.
Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc biệt. Hồ Chí Minh đã sử dụng những lý lẽ sắc bén, đanh thép, hùng hồn. Phong cách của Người thể hiện sự thông minh và hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đã tiên phong về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lập luận đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lập luận sắc bén: 'Đó là những lẽ không thể phủ nhận được'.
Qua phần mở đầu 'Tuyên ngôn Độc lập', ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc biệt, ngắn gọn và súc tích. Phần mở đầu đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.
Phân tích phần mở đầu của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 6
'Ánh nắng mùa thu ở Ba Đình
Thắm vàng trên Lăng Bác
Trải dài trên bầu trời
Ngày Tuyên ngôn Độc lập.'
Mỗi khi đọc bài thơ 'Ánh nắng Ba Đình', tôi lại cảm thấy xúc động và nhớ lại những hình ảnh về ngày Quốc khánh ngày 2 tháng 9 năm 1945 - một sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc. Tôi thấy một bức tranh rộng lớn, ánh mắt ấm áp của Bác Hồ khi bước lên nền lễ đài, cùng với tiếng nói ấm áp và thân thiện: 'Hỡi đồng bào cả nước!'.
“Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những từ văn đơn giản, mộc mạc nhưng vẫn chứa đựng tình yêu thương, và mang lại không khí thiêng liêng. Hai từ “đồng bào” gần gũi, thân mật, không chỉ chứa đựng tình yêu thương mà còn khơi dậy niềm tự hào, cảm giác cao quý của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ dân tộc ta là được sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.
Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” là việc xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập là những quyền không ai có thể phủ nhận. Những lời này được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Bác đã trích dẫn từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn đã được thế giới công nhận, để làm cơ sở pháp lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn ngoan vừa kiên quyết. Bác đã sử dụng lời của hai bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo rằng nếu Pháp xâm lược Việt Nam, họ sẽ phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu họ tiến hành xâm lược Việt Nam.
Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã mở rộng ra để khẳng định quyền của dân tộc. Người tuyên bố mạnh mẽ: 'Tất cả mọi người sinh ra đều bằng nhau. Tạo hóa ban cho họ những quyền không thể xâm phạm được; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc'. Sự phát triển từ quyền của con người, quyền của dân tộc là một quy luật suy luận thông minh và chặt chẽ. Điều này không chỉ là một đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam mà còn là một đóng góp lớn lao cho nhân loại. Quá trình này không chỉ là sự khởi đầu cho cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa, mà còn là dấu hiệu của sự sụp đổ của chế độ thực dân trên toàn cầu vào nửa sau của thế kỷ XX. Nó cũng là một lời kêu gọi để những dân tộc bị áp bức trên thế giới nổi dậy và chiến đấu cho độc lập tự do.
Kết thúc phần mở đầu là một câu văn mạnh mẽ và đanh thép. Người khẳng định mọi lý lẽ công bằng của con người, của dân tộc là những 'lẽ không thể chối bỏ được'. Đây là một bức tường pháp lý vững chắc, là cơ sở cho toàn bộ nội dung của Tuyên ngôn Độc lập trong phần tiếp theo. Câu này cũng thể hiện tính quyết liệt của lập luận của Hồ Chí Minh. Người đã ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược rằng họ không thể phủ nhận những lý lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.
Chỉ qua một đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra lập luận có căn cứ, có lý lẽ. Quá trình này rất chính xác và chặt chẽ. Vì vậy, từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một chuyên gia lập luận tài ba, có tư duy sâu sắc, lý lẽ sắc bén, ngôn từ mạnh mẽ tạo ra một sức mạnh lập luận bất ngờ và một sức hấp dẫn kỳ lạ của đoạn văn.
Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 7
Trong sự nghiệp văn học của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ sau những tác phẩm văn chương tuyệt vời. Phần lớn thơ của Người là những bài thơ ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân cùng đoàn kết chiến đấu. Đặc biệt, Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, chính thức khai mạc cho việc lập nên nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được coi là một bản nghị luận chuẩn mực, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã viết một cách thông minh và quyết đoán, vừa khéo léo, vừa kiên quyết, mang trong đó nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nghị luận là một thể loại văn chương có tính thuyết phục cao, thường mang tính triết học hàn lâm, dùng để diễn đạt một tư tưởng nào đó về các sự kiện, hiện tượng trong đời sống thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận thường chứa ý kiến, tư tưởng của tác giả, thường là ý kiến chính xác, tích cực, ảnh hưởng đến hướng đi của xã hội. Bản Tuyên ngôn Độc lập được viết trong bối cảnh lịch sử, đáp ứng mọi yêu cầu và tuân thủ các quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam đã chính thức giành được độc lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn bản Tuyên ngôn Độc lập để trình bày trước toàn dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã xây dựng một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chắc cho toàn bộ nội dung, đồng thời trình bày lập luận sâu sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa.
'Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không thể xâm phạm được; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc'.
Câu nói này xuất phát từ Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ. Suy rộng ra, câu nói này mang ý nghĩa rằng: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, mọi người đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lý do không thể phủ nhận được.'
Bằng cách nhấn mạnh quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không chỉ đơn giản kêu gọi mà còn sử dụng trích dẫn trực tiếp từ bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1778. Sau đó, Người sử dụng các chứng cứ từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định “quyền bình đẳng”, “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Phương pháp nghệ thuật tinh tế ở đây chính là “gậy ông đập lưng ông”, lấy những gì mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp đã khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của họ. Chính họ là những người tuyên truyền sự tự do, nhấn mạnh con người “luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” lại đi xâm lược nước khác. Sử dụng những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất tinh tế, mang hàm ý sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỷ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là “chặn họng” những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.
Một điều sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng nhận ra đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.
“Nếu nhìn rộng hơn, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Không chỉ giới hạn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự kiện ngày 2 tháng 9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.
Đoạn mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, “Tuyên ngôn Độc lập” là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.
Phân tích đoạn đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 8
Trong tác phẩm Theo dấu chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại khoảnh khắc lịch sử của dân tộc một cách cảm động:
“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu trái tim đợi...chim cũng im lặng
Bất ngờ vọng lên bài hát của lòng biết ơn”
Vào buổi sáng mùa thu năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được một tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận chiến. Điều đó được thể hiện chi tiết qua đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn.
Trước hết, đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, chúng ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh rất bất ngờ, độc đáo. Bởi Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe.
Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc như Nguyễn Trãi đã từng viết Bình Ngô đại cáo:
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; hàng đời xây dựng nền tự do;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi phía hùng cứ một hướng;
(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)
Một phần tài năng khác của Hồ Chí Minh là việc sử dụng 'suy rộng ra' để mở ra phạm vi lớn hơn, tổng quan hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền của dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” có nghĩa là không chỉ cá nhân mà cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Ý kiến 'suy rộng ra' của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới như một nhà văn hóa nước ngoài đã phân tích trong cuốn “Hồ Chí Minh đã phát triển quyền con người thành quyền của dân tộc. Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu rất ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Một câu khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” để làm nổi bật lên luân lý chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.
Như vậy, đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn đã thể hiện được tài năng lập luận tài tình của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra một cơ sở pháp lý mà không bất kỳ quốc gia nào có thể chối cãi được.
Phân tích đoạn đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 9
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là “mẫu văn chính luận xuất sắc nhất mọi thời đại”. Điều đó thể hiện tài năng lập luận của Người, đặc biệt là ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn.
Phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập rất độc đáo. Người không nhắc lại lịch sử hào hùng của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776 và tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Điều đó chứng tỏ sự sắc sảo và trí tuệ của Hồ Chí Minh trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bằng cách trích dẫn hai tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ, Người không chỉ thể hiện sự hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn khẳng định sự khôn ngoan và kiên quyết của mình.
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn trích xuất một cách sáng tạo. Điều đó thể hiện qua ba từ: “suy rộng ra”. Bằng cách này, Người đã nâng cao phạm vi và ý nghĩa của tuyên ngôn, từ quyền con người nói chung trong tuyên ngôn của Pháp và Mỹ lên thành quyền của dân tộc. Ý kiến này có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Phân tích trên cho thấy đoạn mở đầu rất ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau, tạo thành một lập luận sáng tạo và thông suốt. Lời khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật lên luân lý chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do của dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, phần mở đầu của bản tuyên ngôn đã cung cấp một cơ sở pháp lý vững chắc cho độc lập của dân tộc Việt Nam.
Phân tích phần mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 10
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là một tiêu chuẩn của loại văn nghị luận. Điều này rõ ràng trong phần mở đầu được viết một cách khéo léo và kiên quyết, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nhiệm vụ của phần mở đầu của một bản Tuyên ngôn là đặt ra nguyên lý tư tưởng cơ bản cho toàn bộ tài liệu. Nguyên lý của Tuyên ngôn Độc lập là sự khẳng định về quyền tự do và độc lập của dân tộc. Thay vì nêu trực tiếp nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã sử dụng hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của mọi dân tộc trên thế giới. Điều này thể hiện nghệ thuật 'lấy gậy ông đập lưng ông'.
Bằng cách này, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam bằng những lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn đã tạo nên vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của họ. Cách viết này không chỉ khéo léo mà còn kiên quyết:
Khéo léo vì thể hiện sự trọng trách đối với những danh ngôn bất hủ của người Pháp, Mỹ để “đốt lưng” bọn đế quốc Pháp, Mỹ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào quốc gia của chúng ta (sự thật lịch sử đã chứng minh điều này).
Kiên quyết nhắc nhở họ không được phản bội tổ tiên, không làm bẩn lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của Pháp và Mỹ, nếu muốn tiến quân xâm lược Việt Nam.
Phần mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn như thế, cũng là cách đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng (và thực tế, Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã hoàn thành đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776) và Pháp (1791)).
Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” này là một đóng góp ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc thế giới, như một lời thúc đẩy cho cách mạng ở các thuộc địa, làm đổ bộ chế độ thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau của thế kỷ XX (sự kiện lịch sử đã chứng minh điều này).
Phần mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang lại sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó chính là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.
Phân tích phần mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 11
“Tuyên ngôn Độc lập” đóng vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử, là tuyên bố quyết định xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là biểu tượng của sự chuyển mình, bước vào thời kỳ mới của nước ta, thời kỳ độc lập, tự do. Phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị về tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.
“Hỡi đồng bào cả nước” là câu mở đầu có sức mạnh lớn, gợi lại hàng triệu trái tim của đồng bào, là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến. Đối tượng tiếp nhận bản tuyên ngôn này bao gồm cả đồng bào cả nước, những người tiên tiến trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang âm mưu xâm lược nước ta.
Người đã trích dẫn hai đoạn từ “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” năm 1776: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được ban cho những quyền không ai được xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc” và từ “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hành động đó đã đặt nền móng, cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã xem cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ đoạn “gậy ông đập lưng ông”, đưa ra hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái trong việc xâm lược Việt Nam.
Nghệ thuật lập luận trong phần mở đầu cũng rất tinh tế. Hồ Chí Minh đã sử dụng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đã đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lý lẽ cụ thể, đầy đủ, Người đã đặt ra một lập luận đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.
Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 12
Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là tượng trưng cho loại văn nghị luận. Điều này rõ ràng trong phần mở đầu được viết rất khéo léo và kiên quyết, đầy ý nghĩa sâu sắc. Nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai quốc gia lớn như vậy cũng như đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã hoàn thành nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776) và Pháp (1791). Sau khi trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” đó thực sự là một đóng góp ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, giống như một lời phát súng khởi đầu cho cuộc cách mạng ở các thuộc địa, dẫn đến sự sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên toàn cầu trong nửa sau thế kỷ XX (lịch sử đã chứng minh điều này). Tóm lại, đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang lại sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là một đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn vĩ đại.
Phân tích đoạn mở đầu Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 13
Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chúng ta đã chứng kiến ba bản Tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, mọi người đều đồng ý rằng “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện lịch sử quý báu, mà còn là một tượng trưng cho văn chính luận. Phần nêu cơ sở pháp lý và thực tế cho bản tuyên ngôn là minh chứng cho mẫu mực của nghệ thuật lập luận đó.
Trong phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trình bày cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Cụ thể, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau đó, bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Cả hai tuyên ngôn này đều khẳng định quyền con người là một lẽ phải. Đây là hai tuyên ngôn nổi tiếng thế giới trong thế kỷ XVIII - di sản tư tưởng của nhân loại. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền của dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Tác giả đã làm cho thế giới hiểu rằng dù da đen, da trắng, da đỏ hay da vàng, tất cả đều bình đẳng như nhau vì họ đều là con người. Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng lập luận bằng cách dùng lời của Pháp và Mỹ để nói với chính họ. Trong tranh luận, không gì thú vị hơn là dùng lời của đối phương để bác bỏ họ khiến họ rơi vào tình trạng “há miệng mắc quai”. Bác đã sử dụng văn chương độc lập để chỉ trích những kẻ chuyên đi xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng loại.
Dẫn lời của Mỹ và Pháp lên đầu tuyên ngôn, người viết đã thể hiện sự trân trọng, đề cao những tuyên ngôn về quyền lợi… để đạt được sự đồng ý, ủng hộ từ dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh cũng đã gián tiếp đề xuất ba tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang tầm nhau để thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Việc nêu cơ sở pháp lý cho tuyên ngôn độc lập là một công việc khó khăn nhất, nhưng Hồ Chí Minh đã xử lý một cách khéo léo bằng lập luận sắc sảo, thuyết phục. Cơ sở pháp lý của tuyên ngôn đã chứng minh rằng “Tuyên ngôn độc lập” là một mẫu mực về văn chính luận, thể hiện tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.