Chất trữ tình chính luận trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bao gồm 2 gợi ý cách viết kèm theo 3 bài văn mẫu cực hay. Phân tích phong cách triết luận trữ tình là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.
Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ sự kết hợp hai yếu tố chính luận và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc nhìn mới mẻ về bài thơ này. Đoạn thơ là sáng tạo nghệ thuật nổi bật của tác giả trong đoạn trích Đất Nước nói riêng và thiên trường và Mặt đường khát vọng nói chung. Bên cạnh đó các em xem thêm: phân tích Đất nước, phân tích 9 câu đầu Đất nước, mở bài Đất nước.
Dàn ý chất trữ tình chính luận trong Đất nước
Dàn ý thứ nhất
1. Diễn giải:
- Tính chất lý luận - trữ tình:
+ Lý luận: thảo luận về các vấn đề chính trị, có ý nghĩa hiện thời quan trọng.
+ Trữ tình: tình cảm, cảm xúc chân thành của con người. Trong văn học, yếu tố trữ tình là biểu đạt tâm trạng của người sáng tác trong tác phẩm. Trong thể thơ, trữ tình thường được coi là một đặc điểm quan trọng của thể loại.
- Trong tác phẩm “Đất nước”, yếu tố lý luận - trữ tình hài hòa, phản ánh triết lý “Đất nước của dân tộc”.
2. Phân tích, minh chứng yếu tố lý luận - trữ tình:
a. “Đất nước” là một bài thơ lý luận:
- Bối cảnh sáng tác: nằm trong phần đầu của chương V trong bài thơ Mặt đường khát vọng. Tác phẩm được sáng tác bởi Nguyễn Khoa Điềm tại chiến khu Trị Thiên vào năm 1971, trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, khi Nguyễn Khoa Điềm tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.
- Mục đích sáng tác: kêu gọi thanh niên cả nước nhận thức rõ sự xâm lược của Đế quốc Mỹ, tham gia vào cuộc kháng chiến toàn dân.
b. Yếu tố lý luận - trữ tình hiện hữu khắp bài thơ:
- Nội dung:
+ Thông qua hình ảnh của Đất Nước đơn giản, gần gũi được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau.
- Thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”
- Mỹ thuật:
*Đánh giá:
- Ý nghĩa của yếu tố lý luận - trữ tình:
- Thức tỉnh tình yêu quê hương, đất nước trong lòng độc giả một cách gần gũi, tự nhiên.
- Thúc đẩy nhà thơ thể hiện những suy tư, trải nghiệm một cách sâu sắc.
- Khích lệ tinh thần đấu tranh chống giặc của thanh niên Việt Nam.
- Giải thích:
- Tình huống ra đời và môi trường sống của nhà thơ
- Nguyễn Khoa Điềm trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến trong thời gian đó, mang theo những suy nghĩ, lo lắng về tình hình của đất nước.
- Yêu cầu và mong muốn của nghệ thuật đối với người nghệ sĩ là phản ánh chân thực cuộc sống.
Dàn tổ chức thứ hai
I. Khai mạc:
- Tổng quan về chủ đề đất nước trong thơ ca.
- Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một ví dụ rõ ràng cho phong cách triết lý trữ tình, trong đó sự kết hợp giữa tâm trạng trữ tình và lập luận được thể hiện một cách kỳ diệu và liên tục, chảy trôi từ kiến thức sâu rộng về lịch sử và văn hoá dân tộc của nhà thơ.
II. Phần thân:
* Phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm:
- Phong cách viết thơ triết luận của Nguyễn Khoa Điềm rất sâu sắc, luôn kết hợp chặt chẽ giữa triết lý tinh tế và giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
- Ông có khả năng tưởng tượng mạnh mẽ, sử dụng chính bản chất trữ tình để thể hiện sự triết lý sâu sắc với tài liệu văn hóa dân gian.
* Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù văn hóa truyền thống.
- Tự hào về nguồn gốc dân tộc:
- Sử dụng truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, cùng với hình tượng Chim thường hiện phương Nam và Rồng biểu tượng phương Đông, tạo ra một lý luận kết nối giữa hai thể thống trị quan trọng: Nước - Chim và Đất - Rồng. Thêm vào đó, truyền thuyết về Lạc Long Quân - Âu Cơ giải thích về dòng dõi Tiên và Rồng của người Việt.
=> Suy luận kỹ lưỡng này làm nền tảng cho việc phát triển khái niệm toàn diện về Đất Nước, một quốc gia phương Nam thuộc phương Đông.
- Suy luận về cơ sở Đất Nước dựa trên nền nông nghiệp lúa nước lâu đời tại Việt Nam.
- Văn hóa lúa nước đã tạo ra và định hình Đất Nước, ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống và văn hoá của người Việt.
- Từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm dẫn dắt độc giả đến với văn hóa của làng xóm, làn xã - một phần đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Theo triết lý của ông, chính những người bình dân, bình thường kia đã tạo nên Đất Nước.
- Từ văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm kết nối Đất Nước với nền văn hóa sông nước, một biểu tượng của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
=> Thông qua sự liên kết tinh tế này, cuộc sống của người dân trồng lúa được thể hiện qua môi trường sông nước, làm cho khái niệm 'Nước' trở nên ý nghĩa đậm đà cho Tổ quốc hoặc quốc gia.
- Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm nằm ở việc sử dụng các yếu tố văn hóa dân gian trong thơ của mình.
- Trong câu 'Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn', ông nhắc nhở về tính cách kiên định, tình yêu thương của người Việt.
- Đất Nước được hình thành từ những câu chuyện cổ tích, những câu 'ngày xửa ngày xưa mẹ thường kể'.
- Bản tính của Đất Nước phát sinh từ những phong tục truyền thống sâu sắc của người Việt, đó là yếu tố không thể thiếu trong việc hình thành một quốc gia và là đặc điểm để phân biệt với các dân tộc khác, cũng là niềm tự hào của dân tộc.
- Từ câu 'Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn', Nguyễn Khoa Điềm kết nối với phong tục ăn trầu nhuộm răng đã tồn tại từ thời các vua Hùng.
- Ông mở rộng ý niệm về phong tục búi tóc thấp của phụ nữ Việt qua câu 'Tóc mẹ thì thì búi sau đầu', liên kết với quan niệm về vẻ đẹp và phẩm chất của con người.
- Trong câu 'Cái kèo, cái cột thành tên', Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh vào ý thức tâm linh và truyền thống trong việc đặt tên cho con cái của người Việt.
=> Những phong tục truyền thống đặc sắc này mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ đã làm cho bản sắc của Đất Nước trở nên càng vững chắc, sâu sắc hơn, thêm phần linh thiêng, xứng đáng với một đất nước có hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp tự nhiên và tâm hồn.
* Triết lý về Đất Nước trong phạm vi lịch sử dân tộc:
- Đất Nước của một dân tộc luôn tự hào với truyền thống chống giặc, biểu hiện sức mạnh và lòng kiêu hãnh của toàn dân: 'Đất nước phồn thịnh nhờ dân biết trồng tre và đánh giặc'.
- Đất Nước của những con người kiên cường, gan dạ, không ngừng chiến đấu, cam kết loại trừ kẻ thù:
'Đối với kẻ xâm lược, chúng ta sẽ đấu tranh'
'Đối với kẻ thù nội, chúng ta sẽ đứng lên và đánh bại'
* Triết lý về Đất Nước của nhân dân:
- Đất Nước được hình thành nhờ vào sự đóng góp của nhân dân, xây dựng bằng những giá trị văn hóa truyền thống đẹp, sử dụng tài liệu văn học dân gian và tôn trọng phong tục tập quán lâu đời.
- Từ hình tượng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật hình ảnh của nhân dân một cách cụ thể và tổng quát, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước.
* Yếu tố trữ tình:
- Hiện diện trong ngôn từ thơ mộng, phản ánh sâu sắc bản sắc của nền văn hóa truyền thống dân tộc.
- Tình yêu nước cháy bỏng đã trở thành nguồn cảm hứng chính để thống trị toàn bộ tâm trí thơ, là nền tảng để Nguyễn Khoa Điềm thâm nhập vào cội nguồn, tạo ra một hình ảnh đặc trưng về Đất Nước từ góc độ văn hóa, lịch sử và nhân dân.
- Trái tim biết ơn sâu sắc, luôn hướng về nguồn gốc dân tộc, trân trọng và bảo tồn của Nguyễn Khoa Điềm hiện diện trong mỗi câu thơ.
III. Tổng kết:
- Tổng kết và đánh giá về phong cách triết lý trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong bài thơ Đất Nước.
Chất trữ tình chính luận trong Đất nước - Mẫu 1
Thời kỳ từ năm 1945 đến 1975 chứng kiến sự ra đời của nhiều tác phẩm nổi bật về đề tài Đất Nước, trong đó Nguyễn Đình Thi với bài thơ 'Đất Nước' mang tính dũng cảm, Tạ Hữu Yên với hình ảnh một Đất Nước đau thương, và Chế Lan Viên với hình tượng Đất Nước trầm lặng, thấm đầy tinh thần dân tộc trong 'Thời Sự Hè 72 - Bình Luận'. Và lại có Nguyễn Khoa Điềm với hình ảnh Đất Nước mang dáng vẻ của sử thi, phát xuất từ những huyền thoại, một Đất Nước với quá trình hình thành, phát triển và tồn tại, một Đất Nước thuộc về nhân dân và sinh ra từ nhân dân. Có thể nói bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm đậm chất triết lý trữ tình, nơi mà yếu tố trữ tình và triết lý hòa quyện với nhau một cách chặt chẽ và liên tục, xuất phát từ kiến thức sâu rộng về văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Khi nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, ta nghĩ ngay đến một nhà thơ sắc sảo với phong cách viết thơ triết luận đậm nét, ông luôn kết nối chặt chẽ giữa triết lý sắc sảo với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam. Trong những bài thơ của ông, ta dễ dàng phát hiện ra sự liên kết mạnh mẽ, ông đưa người đọc từ quá khứ đến hiện tại, từ nỗi đau đến hạnh phúc, từ thực tế đến trí tuệ, từ cảm xúc thân quen đến tình cảm hùng vĩ. Đặc biệt trong 'Đất Nước', Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chính chất trữ tình để thể hiện tính triết lý sâu sắc với văn hóa dân gian, như một số nhận xét nói rằng: 'Thơ của Nguyễn Khoa Điềm mang đậm chất văn học và văn hoá dân gian. Dù là thể thơ truyền thống hay tự do, mỗi câu thơ đều phản ánh hương vị của ca dao, tục ngữ. Sự hiền minh của trí tuệ dân gian hiện hữu trong từng từ'.
Tính triết lý trữ tình trong 'Đất Nước' đầu tiên thể hiện ở sự tự hào về nguồn gốc dân tộc.
'Đất là nơi Chim bay về
Nước là nơi Rồng cư ngụ
Lạc Long Quân và u Cơ
Sanh ra con cháu dưới vòm trời'
Xuất phát từ triết lý hòa âm, dương, vạn vật đôi đôi của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta đến với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với hình ảnh của bốn trăm trứng sanh ra bốn trăm con cháu. Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở lại truyền thuyết mà còn đi sâu hơn. Trong văn hóa cổ xưa, hình ảnh của Chim luôn đại diện cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, và hình ảnh của Rồng lại là thần thú đại diện cho các quốc gia phương Đông. Sự tương đương giữa hai thực thể Nước - Chim và Đất - Rồng cùng với sự câu chuyện về Lạc Long Quân - u Cơ giải thích về dòng họ Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một suy luận hợp lý, làm tiền đề cho khái niệm hoàn chỉnh về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thực là một triết lý sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa trên nền nông nghiệp lúa nước từ lâu ở nước ta, như câu thơ 'Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó'. Chính nền văn hóa lúa nước đã xây dựng và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Từ những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé đó đã tạo nên Đất Nước, đã xây dựng nên một quốc gia với nền nông nghiệp phát triển, và ngày nay nó đã mạnh mẽ trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu lúa gạo.
Ngoài ra, từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt người đọc khám phá văn hóa làng xã truyền thống đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
'Mặc dù không ai ghi nhận danh tính
Nhưng họ là những người đã tạo ra Đất Nước
Họ giữ và truyền lại hạt lúa ta gieo trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ lửa than qua đèn cầy
Họ truyền giọng điệu cho con em học nói
Họ ghi nhớ tên xóm, tên làng qua mỗi cuộc di dân
Họ xây dựng đập bờ cho những người trẻ trông cây hái trái'
Theo quan điểm của Nguyễn Khoa Điềm, những con người giản dị, bình thường, không ai nhớ mặt cũng đã đóng góp vào sự hình thành của Đất Nước, họ đã sống bình yên, an lành, miệt mài lao động, xây dựng xóm làng trên khắp mọi vùng đất và nhiều xóm làng như thế đã tạo ra một Việt Nam với nền văn hóa nông thôn chất phác.
Từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng nhớ lại mối liên kết giữa Đất Nước và văn hóa sông nước, một đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
'Ôi những dòng sông nhận nước từ đâu
Khi về Đất Nước của mình thì trở thành âm nhạc
Người dân hát khi chèo thuyền, kéo ghe vượt qua những con thác
Truyền bá nghìn màu sắc trên hàng trăm dòng sông'
Một lần nữa ta phân chia Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố cực kỳ quan trọng trong nền nông nghiệp và trở nên rất gần gũi với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong lòng mỗi người nông dân đã không còn xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm diễn giải một cách tinh tế, sâu sắc. Cuộc sống của người trồng lúa liên quan mật thiết đến nền nông nghiệp lúa nước, và sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cách ông kết hợp các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, trong đó Đất Nước hiện lên với tất cả vẻ đẹp đậm đà bản sắc và có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận dụng vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.
'Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Giáo dục con biết 'yêu em từ thuở trong nôi'
Biết trân trọng công việc mỗi ngày
Biết kiên nhẫn chờ đợi thành công
Đi trả thù mà không sợ mất thời gian'
Cũng trong 'Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn' để nhắc nhở về tính cách kiên trì, sự kiên định của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách tốt ấy đã đóng góp vào truyền thống của dân tộc để tạo ra Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái 'ngày xửa ngày xưa mẹ thường kể' rất thân quen và gần gũi với mỗi con người từ thuở còn nằm trong nôi, nghe mẹ ru hời.
Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, là một yếu tố quan trọng để tạo ra một quốc gia, là đặc điểm để phân biệt với các dân tộc khác, là niềm tự hào của dân tộc. Trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thảo luận bằng những câu thơ tinh tế, liên kết, gắn bó với nhau thành một tác phẩm về phong tục tập quán của dân ta. Từ miếng trầu trong 'Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn', khiến người ta nhớ đến việc ăn trầu nhuộm răng đã có từ thời các vua Hùng cai trị và giữ nước, đồng thời cũng liên quan đến câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy Đất Nước liên kết với miếng trầu đủ cả hai yếu tố cổ tích và hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc. Sau đó, từ việc ăn trầu nhuộm răng với quan niệm 'Răng và tóc là góc con người' Nguyễn Khoa Điềm mở rộng suy nghĩ của mình đến việc buộc tóc thấp của phụ nữ, con gái Việt trong 'Tóc mẹ thì buộc sau đầu'. Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục kết nối đến cách đặt tên cho con trong câu 'Cái cột, cái kèo quyết định tên', trong suy tư tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không bị ma quỷ quấy rối, để có một cuộc sống yên bình, tình cảm gia đình cũng được thể hiện một cách rõ ràng như vậy. Có thể nói rằng những phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho Đất Nước trở nên vững mạnh hơn, sâu sắc hơn, linh thiêng hơn, xứng đáng với một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp đa dạng của nó.
Bên cạnh triết lý Đất Nước hình thành từ văn hóa truyền thống, Nguyễn Khoa Điềm mở ra hình tượng Đất Nước gắn với những truyền thống lịch sử từ xưa đến nay, được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đầu tiên, Đất Nước của một dân tộc có truyền thống chống giặc, nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của dân tộc: 'Đất nước lớn lên khi dân biết trồng tre và đánh giặc'.
'Khi giặc đến, nam chiến, nữ nuôi con
Ngày đối địch đến nhà, phụ nữ cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng, anh em đều nhớ nhau'
Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, ghét cay ghét đắng giặc, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
'Có giặc ngoại xâm thì đấu tranh chống giặc
Có thù nội thì nổi dậy đánh bại thù hận'
Không phân biệt nam nữ, mọi người đều sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không do dự. Truyền thống này đã tồn tại từ thời Phù Đổng Thiên Vương, thời vua Hùng thứ 6, khi chiến thắng giặc ngoại xâm, rồi cưỡi ngựa sắt về trời để lại dấu tích oanh liệt, huy hoàng.
Cuối cùng, tất cả quan điểm triết lý của Nguyễn Khoa Điềm đều nhấn mạnh vào quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân xây dựng. Ông tập trung vào Trường ca Mặt đường để diễn giải triết lý, với lời nói rõ ràng: 'Tôi muốn thể hiện một Đất nước của nhân dân, vì thế, từ ngôn từ, hình ảnh, văn chương dân gian được sử dụng để làm rõ ý tưởng này'. Trong đó, hình ảnh của nhân dân nổi bật mạnh mẽ, kiêu hùng và chân thực 'Khi có kẻ thù, chúng ta chống lại kẻ thù/Có mối thù nộ, chúng ta cùng nhau đánh bại/Mục tiêu của Đất nước này là để cho nhân dân'. Nhân dân làm nên Đất Nước, xây dựng bằng giá trị văn hóa truyền thống, văn chương dân gian và phong tục lịch sử. Nguyễn Khoa Điềm tôn vinh hình ảnh nhân dân một cách cụ thể và tổng quát, đặt họ vào trung tâm của Đất Nước, như được thể hiện trong một đoạn thơ dài:
'Những người vợ nhớ chồng đóng góp cho Đất Nước những ngọn núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn đảo Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng qua, chúng lại còn nhiều ao đầm
Chín mươi chín con voi góp sức xây dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im giúp hình thành dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình có ngọn núi Bút, núi Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng đóng góp cho Hạ Long thành phố thơ mộng
Những người dân đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở khắp mọi nơi, trên ruộng đồng và dưới dòng sông
Chẳng mang một dáng hình, một ước mơ, một lối sống của ông cha
Đất Nước sau bốn ngàn năm, ở khắp mọi nơi ta đều thấy
Những cuộc sống đã trở thành núi sông của chúng ta...'
Tính trữ tình được thể hiện qua giọng điệu thơ mộng, đậm chất văn hóa dân tộc. Tình yêu nước sâu sắc, nồng nàn là nguồn cảm hứng chính để Nguyễn Khoa Điềm tìm về cội nguồn, dùng tất cả sức mạnh trí tưởng tượng và triết lý để tạo ra một Đất Nước thống nhất từ văn hóa, lịch sử và nhân dân. Tình yêu nước đã mở ra các cảm xúc khác như lòng yêu thương và tôn trọng những giá trị văn hóa lịch sử, lòng tự hào trước những phẩm chất cao quý của người Việt, trước thiên nhiên và những thành tựu của nhân dân từ việc trồng lúa cho đến việc xây dựng Đất Nước. Cuối cùng, lòng biết ơn sâu sắc, luôn quay về cội nguồn dân tộc, là biểu hiện của Nguyễn Khoa Điềm qua từng câu thơ.
Với phong cách triết lý sâu sắc, trữ tình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một hình ảnh mới mẻ về Đất Nước, khác biệt hoàn toàn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước đậm chất văn hóa dân tộc, của lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và thực tế, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước - hai từ đầy ý nghĩa.
Sự trữ tình chân thành trong Đất nước - Mẫu 2
Nếu như thơ có thể ghi nhớ được mọi chi tiết trong hình thức hoàn chỉnh, thì trường ca thì gặp nhiều khó khăn. Dân ta với quy mô lớn nhưng lại đối mặt với nhiều khó khăn. Đọc một trường ca, thường chỉ nhớ được một số phần quan trọng nhất, còn lại thì khó ghi nhớ. Trường ca thường tồn tại bằng cách chia nhỏ bản thân. Việc đọc thường dễ quên phần lớn của 'Mặt đường khát vọng' để chỉ nhớ 'Đất nước', liệu đó có phải là quy luật không? Một trường ca thành công phải làm sao cho người đọc nhớ được cả một chương lớn, đó mới là thành công thực sự! Có thể nói rằng viết về cùng một chủ đề, nhưng 'Đất nước' của Nguyễn Khoa Điềm được hình thành từ một phạm trù lớn hơn. Với điều đó, liệu họ có đi vào ký ức của người yêu thơ không? Không nhất thiết. Có một điểm khác biệt đáng chú ý hơn: Nguyễn Đình Thi như đã hoà nhập suy tư của mình vào cảm xúc trong khi Nguyễn Khoa Điềm muốn kết hợp cảm xúc với suy tư. Hai tác phẩm của họ có thể phản ánh hai trạng thái đó? Sự biến đổi trong tư duy thơ của Nguyễn Khoa Điềm có thể được gọi là trữ tình triết lý.
Ai đã đọc “Đất nước' của Nguyễn Khoa Điềm đều ấn tượng với chất liệu đặc biệt của nó: văn hoá dân gian.
Nhiều cây bút đã chọn hướng đi này. Trước đó, chất liệu này xuất hiện ở mức độ khác nhau trong 'Bài thơ quê hương' của Nguyễn Bính hoặc 'Tiếng Việt' của Lưu Quang Vũ. Sự độc đáo thực sự nằm ở cách xử lí chất liệu này. Nguyễn Khoa Điềm đã xử lí bằng cách kết hợp suy cảm triết lý trữ tình.
Trước hết, toàn bộ chương thơ được tổ chức như một câu chuyện tình yêu. Họ trò chuyện, chia sẻ cảm xúc của mình. Khi đề cập đến những điều sâu sắc, họ lại nói về Đất nước. Đất nước trở thành vấn đề quan trọng nhất đối với dân tộc, mỗi người và mỗi cặp đôi. Nhờ đó, Nguyễn Khoa Điềm đã biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tình yêu, chuyển hóa ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, tạo ra một chủ đề sử thi. Đó là một cuộc tình yêu, nên lời thơ thường chứa đựng nhiều suy tư, mỗi câu thơ đều phản ánh suy nghĩ sâu sắc của thi sĩ. Những lời tâm sự của đôi trai gái đó thường mang tính thánh thiện và trang trọng, như là một lời nguyện của thế hệ. Đọc chương thơ, giọng điệu luôn đậm chất trầm lắng và trang trọng. Tuy nhiên, điều này chưa liên quan trực tiếp đến văn hoá dân gian.
Điểm quan trọng khiến tác giả mài sắc lối suy tư triết học và tận dụng văn hoá dân gian của mình đó chính là cảm hứng riêng về chủ đề chung ấy. 'Đất nước là gì? Đất nước của ai?' là những câu hỏi sâu xa vào niềm lo lắng của Nguyễn Khoa Điềm. Để tìm câu trả lời, thi sĩ đã sử dụng trí tuệ để biến cảm xúc thành suy ngẫm, kết quả là những suy tư sâu xa, giàu triết lý, nhưng vẫn đẹp đẽ và thơ mộng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của văn hoá dân gian như chưa bao giờ nghe thấy: Đất nước ở trong chúng ta. Đất nước là của nhân dân - 'trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất nước/ Khi hai đứa cầm tay Đất nước hài hoà nồng thắm/ Khi chúng ta cầm tay mọi người/Đất nước vẹn tròn to lớn', 'Đất nước của nhân dân/Đất nước của ca dao thần thoại'... Điều này chỉ ra rằng lối suy tư triết học của Nguyễn Khoa Điềm đã đạt đến độ hoàn hảo như thế nào.
Trong lối suy tư triết học, việc phân tích bản chất của các sự vật dưới dạng biểu tượng sống động là quan trọng. Tư duy này dựa trên logic biện chứng với những liên kết bất ngờ và thú vị. Câu thơ định nghĩa ở đây không chỉ là triết học mà còn là hình ảnh thơ ca sâu sắc. Hình dung về sự sinh ra của Đất nước được hiểu như sự phát triển của Đất và Nước, cũng như sự sống động của các địa danh. Trong việc khám phá văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm tìm thấy những giá trị ẩn trong những vật dụng hàng ngày... Mỗi nơi đều có những phát hiện, những khám phá đáng kinh ngạc. Có lẽ với bất kỳ quốc gia nào, Đất và Nước là hai yếu tố quan trọng nhất cho sự sống. Hai yếu tố này kết hợp với nhau để tạo ra môi trường sống. Nguyễn Khoa Điềm đã suy ngẫm về lãnh thổ từ hai yếu tố này.
Đất là nơi tôi học
Nước là nơi tôi tắm
Đất nước là nơi chúng ta gặp gỡ
Đất nước là nơi tôi để lạc quan mất mát trong nỗi nhớ
Có thể thấy đoạn thơ trên là một loạt những định nghĩa thông qua thơ, đó là sản phẩm của một tư duy giàu trữ tình và triết học. Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em, một thuộc Âm, một thuộc Dương. Khi nói về từng người, Đất và Nước đứng riêng lẻ, nhưng khi hò hẹn, chúng lại kết hợp với nhau thành Đất Nước. Tình yêu của hai người cũng là tình yêu của Đất Nước. Câu thơ 'Đất nước là nơi tôi để lạc quan mất mát trong nỗi nhớ' thể hiện tình yêu sâu sắc của con người và Đất Nước.
Đất là nơi chim Phượng hoàng bay về núi bạc
Nước là nơi cá Ngư Ông cư ngụ dưới biển khơi
Thời gian trôi dần
Không gian bao la
Đất nước là nơi tất cả chúng ta tập trung
Đất là nơi chim hạc về
Nước là nơi rồng sinh sống
Là nơi của Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đã đẻ ra dân tộc Việt Nam trong lòng mảnh đất kia
Song hành với quá trình hình thành Đất và Nước để tạo nên địa bàn sinh sống của người Việt trong hàng ngàn năm qua là sự phát triển của các địa danh. Mỗi địa danh không chỉ là một cái tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên gọi, tên làng, tên núi, tên sông là những câu chuyện đời; mỗi câu chuyện là một kỳ tích, một truyền thuyết. Một miếng đất chưa có tên cũng là một vùng đất hoang vắng chưa có lịch sử, chưa có sự sống của con người. Vì vậy, khi các địa danh lan tỏa đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Đó là dấu ấn về sự sống còn của dân tộc này. Theo dõi những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã tái hiện lại diện mạo của non sông đất nước. Mỗi địa danh đều làm động đậy tâm linh của con người: Núi Bút non Nghiên. Hòn Vọng Phu Hòn Trống Mái, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen. Bà Điểm... Mỗi địa danh là một câu chuyện, mỗi câu chuyện biến thành sông núi:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã biến đổi núi sông ta
Điều đó cũng nghĩa là: chính nhân dân đã xây dựng, mở rộng, duy trì đất nước này.
Lối suy cảm triết luận trước khi chi phối trái tim người đọc, thường phải đi qua trí tuệ của họ. Hay như Chế Lan Viên đã nói: Tư duy phải tiên phong một bước. Phương pháp phổ biến nhất (có lẽ là hiệu quả nhất?) của nó có thể là tạo ra các nghịch lý? Các sự thật thi ca thường đi vào ý thức của người đọc thông qua việc mặc cảm lý luận trong y phục nghịch lý. Người ta không thể không ngạc nhiên. Nghĩa là câu thơ đó có một khoảnh khắc do dự. Nhưng sau khoảnh khắc do dự ở ngưỡng cửa của việc chấp nhận, nó đi vào ký ức của người đọc rồi bám rễ vào lòng hâm. Do đó, nghịch lý (hoặc hình thức không hợp lý) là phổ biến trong những suy tư trong tác phẩm này. Tôi muốn nói về những câu thơ khi Nguyễn Khoa Điềm suy tư triết luận về Văn hoá.
Thống nhất với cách viết về các khía cạnh rộng lớn không gian, chiều dài thời gian - công nhận công lao của những người vô danh, suy ngẫm về sự sâu sắc của văn hoá, nhà thơ này cũng không nhắc đến các công trình nổi tiếng thuộc nền văn hoá truyền thống. Không đề cập đến các công trình kiến trúc như Chùa Một Cột, Chùa Bút Tháp..., không đề cập đến các tác phẩm điêu khắc như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Mười tám vị La Hán Chùa Tây Phương... cũng không nhắc đến các tác phẩm văn chương kinh điển như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên v.v.„ Đó cũng là những công trình tiêu biểu của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đó là những thứ Văn hoá dễ nhìn thấy, chúng cũng giống như những anh hùng nổi tiếng trong sách vở, ở đây, Nguyễn Khoa Điềm quan tâm hơn đến những thứ văn hoá khác: những sản phẩm văn hóa nhỏ bé bình thường đến tầm thường, quen thuộc đến mức quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, thường bị lãng quên. Đất nước đã được khám phá từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở làng quê, từ một cột trụ nơi cánh đồng. từ hạt gạo dãi dầu dẻo, từ cách bà mẹ Việt làm tóc cho con. Tất cả khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng: hóa ra Đất nước không xa xôi. Ngược lại, Đất nước ở quanh ta. Đất nước ở trong ta, và ở ngay những điều giản dị nhất gần gũi nhất.
Tuy nhiên, có lẽ điều gây ngạc nhiên hơn cả vẫn là khám phá này:
Đất nước khởi đầu từ miếng trầu, mà bây giờ bà ăn
Câu thơ là một nghịch lý, một sự phi lý. Đất nước là một khái niệm to lớn, thần thánh, nặng nề, vì sao nó lại bắt đầu từ một miếng nhỏ bé, tầm thường, không quan trọng? Tìm kiếm nguồn gốc của một đất nước, là việc phải lùi ngược thời gian về nguồn gốc xa xưa, vì sao lại bắt đầu từ miếng trầu của 'bây giờ'? Câu thơ dường như vô lý nhưng suy nghĩ sâu hơn ta sẽ nhận ra rằng điều phi lý kia chỉ là hình thức của câu thơ. Tác giả đã sử dụng một hình thức phi lý để chứa đựng một sự thật. Đó là: một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những điều nhỏ bé, vô số những điều nhỏ bé mới tạo nên sự lớn lao. Nói cách khác, nếu không có những điều nhỏ bé như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Vậy thì mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đã tồn tại từ cả bốn nghìn năm trước! Mỗi cái hiện diện trong hiện tại, của bây giờ, lại mang theo một quá khứ dài lâu. Vì thế quá khứ luôn hiện diện trong hiện tại, lịch sử vẫn sống đến ngày hôm nay.
Những câu thơ như vậy thật sự là một khám phá đáng kinh ngạc, làm cho người đọc phải sửng sốt. Chúng không chỉ là sản phẩm của một tư duy tinh tế. Nhưng trước hết, chúng là sản phẩm của một tình yêu, một trái tim. Nếu không có sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên đã chăm sóc, giữ gìn trong hàng ngàn năm qua, thì mọi triết lý dù có tinh vi đến đâu cũng không thể tạo ra những câu thơ có khả năng động chạm vào tầng sâu của tâm linh người đọc như vậy được. Mối liên kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết lý trong mọi suy tư thi ca đích thực chẳng phải là tuân theo nguyên tắc đó sao?
Chất lượng trữ tình trong lối diễn đạt của Đất nước - Mẫu 3
Nguyễn Khoa Điềm đứng như một biểu tượng rực rỡ trong dòng thơ chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông mở ra từng trang văn học Việt Nam, từng hơi thở của quê hương, con người, và tinh thần chiến đấu của người lính Việt Nam yêu nước... Tác phẩm của ông thu hút bởi sự kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt và suy tư sâu sắc của những người trí thức về đất nước và con người Việt Nam. Trong cuộc chiến chống Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện rõ nét nhân văn của người Việt Nam và bản tính anh hùng bất khuất của người lính Việt Nam.
Trích đoạn “Mặt đường khát vọng” trong Chương V của tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là một phần thơ xuất sắc về chủ đề đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Trích đoạn thể hiện một góc nhìn mới về đất nước: Đất nước là kết quả của bao nhiêu công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là tác giả của đất nước. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút sâu sắc, xúc cảm đậm đà, mang nét chính luận và trữ tình đặc trưng.
Chính luận: Đoạn thơ có hướng chính luận khi nhà thơ thể hiện quan điểm, tư tưởng chính trị xã hội của mình và muốn chia sẻ nhận thức, thuyết phục người đọc tin vào tính đúng đắn và khách quan của những quan điểm đó. Tính chiến luận cao và tính cá nhân sâu sắc. Trữ tình: Là tâm trạng, cảm xúc, tình cảm của nhà thơ trước cuộc sống mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình. Đoạn thơ Đất Nước là sự kết hợp tuyệt vời giữa hai yếu tố Chính luận và Trữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Đoạn thơ này đậm chất triết lý và suy tư.
Thức tỉnh ý thức dân tộc của mỗi người, đặc biệt là giới trẻ, học sinh ở các thành phố miền Nam để chống lại âm mưu của Mỹ – Ngụy. Từ đó, khẳng định ý niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Đất Nước được cảm nhận một cách tổng thể, sâu sắc, đầy đủ từ nhiều góc độ: Văn hóa, lịch sử, con người, địa lí,... Giúp mỗi người thấu hiểu lòng yêu nước, nhận thức trách nhiệm của mình đối với đất nước. Tấm lòng yêu nước toả sáng khắp nơi, làm cho mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả trở nên phong phú. Yêu nước là yêu văn hóa, thiên nhiên, con người lao động – chủ nhân của lịch sử đất nước. Niềm tự hào về vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp do nhân dân tạo nên, sâu sắc đến tận cùng.
Đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng… đã trở thành núi sông ta”. Đoạn thơ tràn đầy tình cảm trữ tình. Tại đó, nhà thơ thể hiện sự trân trọng sâu sắc đối với những cuộc sống, những con người đã hiến dâng mình vào hình dạng của Đất Nước. Cảm xúc trỗi dậy với sự chân thành và nồng nàn. Lời thơ là biểu đạt của trái tim giữa bạn bè, giữa ta và người. Nhưng đoạn thơ cũng là một bản luận nhằm thuyết phục và chia sẻ nhận thức: Thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,... của Đất Nước. Tất cả đều là sản phẩm của nhân dân, tất cả thuộc về nhân dân. Nhìn vào vẻ đẹp của thiên nhiên sông núi (Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, những ao đầm làng Gióng, núi Bút, non Nghiên,...) liệu có nơi nào không hiện diện hình bóng của nhân dân?
Chính luận và trữ tình hòa quyện, làm cho nội dung tư tưởng của đoạn thơ sâu sắc hơn. Sự trữ tình tạo ra sức mạnh cảm xúc, biến tư duy, quan niệm, nhận thức thành cảm hứng nghệ thuật. Việc kết hợp hai yếu tố này một cách mượt mà, hiệu quả không dễ dàng, nhưng NKĐ đã thành công. Điều đó là minh chứng cho thành công của đoạn trích Đất Nước.
Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm qua việc kết hợp chính luận và trữ tình mang lại cho người đọc một cái nhìn mới về bài thơ này. Đoạn thơ là một biểu hiện nghệ thuật đặc sắc của tác giả trong phần trích Đất Nước cũng như trong toàn bộ tác phẩm.
Với thể thơ tự do, phong cách suy tưởng: đặt vấn đề và tự trả lời, sử dụng các yếu tố văn hoá dân gian kết hợp với phong cách thơ chính luận và trữ tình đặc biệt, đoạn thơ thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước thông qua những vẻ đẹp được khám phá ở nhiều phương diện: lịch sử, địa lý, văn hoá... Tư tưởng chính của toàn bộ bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.