Văn mẫu lớp 12: Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh là quan điểm tiên tiến, là những bài học vô cùng sâu sắc đối với các văn nghệ sĩ trong hành trình trở thành nhà văn chiến sĩ, mang ngòi bút và tài năng phục vụ cách mạng và kháng chiến.

Phân tích quan điểm sáng tạo văn học của Hồ Chí Minh không chỉ mang lại cho các em nhiều điều bổ ích trong các bài kiểm tra mà còn là một hành trang quý giá giúp các em hiểu được quan điểm sáng tạo của Người để biết cách áp dụng vào viết văn. Với 6 bài phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh dưới đây, các bạn học sinh hãy tham khảo, lựa chọn ý hay, ý đẹp để tạo ra phần văn của mình. Ngoài ra, các bạn có thể xem thêm phân tích Tuyên ngôn độc lập và nhiều tài liệu khác tại chuyên mục Văn 12.
Dàn ý quan điểm sáng tạo văn học của Hồ Chí Minh
Gợi ý số 1
I. Khởi đầu:
Trong cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ tự xưng là nhà văn, nhà thơ. Ông chỉ tự nhận mình là người yêu thích văn chương. Tuy nhiên, với hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng, cùng với tài năng nghệ thuật bẩm sinh, ông đã sáng tác ra nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị. Các tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm sáng tác cũng như triết lý nghệ thuật của ông.
II. Nội dung chính:
* Quan điểm sáng tạo văn học nghệ thuật của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh coi văn học là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của mọi người. Trong bối cảnh đất nước gặp khó khăn, dân tộc đang chìm đắm trong biết bao khó khăn, văn chương trở thành một mặt trận quan trọng, giúp cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của nhân dân.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn học là vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Ông coi nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, sử dụng ngòi bút của mình để đấu tranh với cái ác, cái phi nghĩa, đòi lại lẽ phải và sự công bằng.
- Trong văn chương, cần nhấn mạnh tính chân thật và tính dân tộc. Nhà văn không cần phải miêu tả hoa mỹ, mà cần phản ánh chân thực đời sống hiện thực. Ông lên án những tác phẩm mang “chất mơ mộng quá nhiều”, yêu cầu văn nghệ sĩ biết “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn” những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, đồng thời nêu gương những “người tốt, việc tốt”.
- Ông cao trọng sự sáng tạo của nghệ sĩ, chú trọng vào việc phát huy cốt cách dân tộc và có ý thức bảo tồn sự trong sáng của tiếng Việt. Ông khuyến khích tránh lối viết cầu kỳ, xa lạ và nặng nề, đồng thời nâng cao hình thức tác phẩm để thu hút độc giả.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn, nhà thơ cần xác định rõ mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm của mình. Trước khi viết, cần trả lời 4 câu hỏi: Viết cho ai? Viết làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?
* Quan điểm sáng tạo văn học thể hiện qua các tác phẩm như thế nào?
- Tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là minh chứng hùng hồn cho quan điểm sáng tạo văn học của Người.
- Tác phẩm của Bác, dù là văn chính luận, truyện ngắn hay thơ, đều mang tính chiến đấu cao. Ví dụ như trong Tuyên ngôn Độc Lập, Bác đã lên án mạnh mẽ tội ác của Thực dân Pháp, phát xít Nhật, thể hiện ý chí, quyết tâm giữ vững độc lập tự do cho dân tộc. Hay như trong thơ Nhật Ký Trong Tù, Bác viết:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn lên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”.
- Trong tác phẩm “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Bác cũng viết:
Nay ở trong thơ cần có thép.
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
- Trong tác phẩm “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa” (1951), Bác cũng nhấn mạnh về vai trò của người viết văn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận đó”.
– Trong các tác phẩm của Bác, Bác cũng tôn trọng tính chân thật và tính dân tộc khi sáng tác dựa trên những sự kiện có thật trong đời sống hiện thực. Ví dụ như tác phẩm “Vi Hành” có nội dung viết về chuyến viếng thăm của nhà vua Khải Định sang Pháp.
- Trong tác phẩm “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Bác đã nhấn mạnh đến bối cảnh lịch sử và chỉ ra dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa của Pháp. Từ đó kêu gọi người dân hãy đứng lên đấu tranh giữ vững nền độc lập, tự do cho dân tộc.
- Trong bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” ta thấy Bác đã miêu tả khoảng thời gian thiếu thốn, vất vả của Bác khi làm việc tại chiến khu Việt Bắc. Nhưng nhắc đến hiện thực đó Bác không hề bi quan với ngôn từ dí dỏm Bác đã khiến cho cuộc sống nơi chiến khu trở nên rất thú vị.
Sáng ra bờ suối tối vào hang.
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Hiện thực trong những tác phẩm của Bác không chỉ đơn giản là việc tái hiện mà còn thể hiện sự sáng tạo trong ngôn từ, cách tạo hình ảnh rất đặc sắc.
– Trong quá trình sáng tác, Bác luôn quan tâm đến đối tượng người đọc để xác định nội dung và hình thức phù hợp. Đối với các tác phẩm văn chính luận, Bác sử dụng lối viết sắc sảo, logic, có luận điểm, luận cứ chặt chẽ. Giọng điệu kiên quyết không chỉ phơi bày tội ác của thực dân mà còn khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân…
- Trong những tác phẩm thơ tuyên truyền hướng tới đại đa số dân lao động, Bác thường sử dụng ngôn từ đơn giản, gần gũi. Dễ tiếp cận, dễ ghi nhớ và truyền bá bằng miệng. Trong bài thơ chúc tết Xuân Kỷ Dậu – 1969, Bác đã viết:
“Năm qua đã thắng lợi rực rỡ
Năm nay tiền tuyến sẽ chiến thắng mạnh mẽ hơn
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ đứng dậy, đánh cho kẻ thù chạy trốn
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào
Bắc – Nam sum họp Xuân ấm áp hơn nào.”
Những dòng thơ giản dị, súc tích, dễ tiếp cận và dễ hiểu. Nhưng chúng lại lan tỏa và gợi cảm xúc trong hàng triệu trái tim.
III. Tổng kết:
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã hình thành một quan điểm sáng tạo về văn học nghệ thuật vô cùng sâu sắc và tiến bộ. Quan điểm này được thể hiện rõ trong các tác phẩm của ông. Đối với các nghệ sĩ văn học, ông là tấm gương sáng để họ theo đuổi. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều nỗ lực sử dụng bút và tài năng của mình để phục vụ sự nghiệp cách mạng và cuộc chiến, góp phần vào sự xây dựng đất nước.
Gợi ý số 2
- Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
- Coi văn học là vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.
- Chú trọng tính chân thật và tính dân tộc trong văn học: nhà văn phải miêu tả chân thực, hùng hồn hiện thực và giữ cho tình cảm chân thật; đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ, chú ý phát huy bản sắc dân tộc và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Luôn xác định mục đích, đối tượng người đọc để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm (viết cho ai? viết làm gì? viết gì? viết như thế nào?)
- Quan điểm và sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh có một sự liên kết chặt chẽ với nhau
- Các tác phẩm của Người dù là thể loại nào cũng toát lên tính chiến đấu. Từ truyện ngắn, văn chính luận cho đến thơ. Ví dụ, trong văn bản chính luận Tuyên ngôn độc lập, sự quyết tâm chiến đấu của người dân Việt Nam được thể hiện qua lời kêu gọi giữ vững quyền tự do, độc lập. Hoặc trong các tác phẩm thơ, văn học, Người sử dụng như một loại vũ khí sắc bén để chống lại ách tù đày, sống tự do, phóng khoáng với tâm hồn mạnh mẽ: “Thân thể ở trong lao/Tinh thần ở ngoài lao/Muốn lên sự nghiệp lớn/Tinh thần phải càng cao”
- Tính chân thực và tính dân tộc trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh chính là việc tái hiện các sự kiện trong đời sống thực tế. Tác phẩm Vi hành kể về chuyến thăm của vua Khải Định tại Pháp, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến viết về sự muốn cướp nước của thực dân Pháp, Tức cảnh Pác Bó là thời gian khó khăn, vất vả khi Bác sống và làm việc tại chiến khu Việt Bắc. Hiện thực trong sáng tác của Bác không chỉ là việc tái hiện một cách đơn thuần, mà còn là sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và tinh thần của một chiến sĩ.
- Luôn lấy mục đích và đối tượng người đọc để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm là yếu tố cuối cùng trong sự nhất quán giữa quan điểm và sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh. Với văn chính luận, mục đích của Người là vạch trần tội ác, kêu gọi sức mạnh của tập thể, đối tượng là nhân dân, kẻ thù và những người ủng hộ hòa bình trên thế giới nên Người viết bằng một lối văn chính luận sắc sảo, chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, giọng điệu mạnh mẽ và giàu tính luận chiến (Tuyên ngôn độc lập, Bản án chế độ thực dân Pháp, ...). Với thơ tuyên truyền hướng tới người lao động với mục đích tuyên truyền, khích lệ tinh thần, Bác viết về những thứ rất đơn giản, gần gũi bằng ngôn ngữ dễ hiểu (Ca sợi chỉ, ca binh lính,...)
Quan điểm sáng tạo văn học của Hồ Chí Minh - Mẫu 1
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người còn để lại di sản văn học to lớn về tầm vóc và tư tưởng, đa dạng về thể loại và phong cách nghệ thuật.
Dù biết rằng văn chương không phải là công việc chính trong cuộc đời Người, nhưng đó lại là mục đích để tấn công kẻ thù. Người để lại một di sản văn học phong phú về tư tưởng và tài năng, đa dạng về thể loại và phong cách nghệ thuật.
Bác xem văn học nghệ thuật như một loại vũ khí sắc bén, là vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chẳng hạn, trong Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”, Bác đã viết:
“Nay ở trong thơ phải có thép
Người thơ cũng phải biết xung phong”
Người đã biến văn học nghệ thuật thành một mặt trận để chống lại kẻ thù. Người đã viết nhiều tác phẩm chính luận đăng trên các báo Nhân dân, Đời sống thuyền trưởng, đáng chú ý là Bản án chế độ thực dân Pháp… những tác phẩm này mang tính chiến đấu mạnh mẽ, lên án sự tàn bạo của chính quyền thực dân với các nước thuộc địa. Qua đó, Hồ Chí Minh kêu gọi người nô lệ đoàn kết, đấu tranh.
Các tác phẩm Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Không có gì quý hơn độc lập tự do của Bác là những văn kiện trọng đại được viết vào thời khắc cam go của dân tộc. Đây là những áng văn chính luận đanh thép, hào sảng làm rung động triệu triệu trái tim yêu nước của Việt Nam. Những tác phẩm trí tuệ ấy có tác dụng động viên to lớn tinh thần yêu nước của dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính chân thật và tính dân tộc trong văn học nghệ thuật. Phải làm sao miêu tả cho chân thật hiện thực đời sống cách mạng và phải phát huy được cốt cách dân tộc. Về phương diện nghệ thuật, các tác phẩm của Bác luôn có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, viết giản dị, không cầu kỳ xa lạ nhưng luôn đề cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Như các tác phẩm thơ của Bác, mỗi tác phẩm mang đậm phong cách riêng, sâu sắc và tinh tế, thể hiện vẻ đẹp tinh thần của con người Việt Nam. Có loại thơ mang phong cách giản dị, mộc mạc, gắn liền với tinh thần dân gian để tuyên truyền cách mạng như: Dân cày, Binh lính, Ca sợi chỉ… Có loại thơ viết theo cảm hứng thẩm mỹ như những bài thơ tứ tuyệt cổ viết bằng chữ Hán như tập Nhật ký trong tù.
Nhật ký trong tù là tập thơ tái hiện chân thực, chi tiết về những góc khuất của chế độ tù Tưởng Giới Thạch và xã hội Trung Quốc thời điểm đó, mang ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cuốn Nhật ký bằng thơ này tập trung vào việc ghi lại cảm xúc, tâm trạng và suy nghĩ của Bác, giúp ta cảm nhận được phần nào tâm hồn và nhân cách cao đẹp của Người. Đó là tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và con người, một con người có nghị lực phi thường, luôn hướng về quê hương đất nước.
Khi sáng tác, Bác luôn đặt ra các câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Bằng cách này, Bác luôn xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp cận để xây dựng nội dung cũng như hình thức của tác phẩm và biến chúng theo nhiều cách khác nhau. Do đó, các tác phẩm của Bác luôn chứa đựng tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực và hình thức nghệ thuật sinh động.
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh - Mẫu 2
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ cách mạng, là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ là một người chiến sĩ trên mặt trận quân sự mà còn là một chiến sĩ trên mặt trận văn học. Điều này được thể hiện qua việc Người để lại một kho tàng văn học lớn với số lượng tác phẩm khổng lồ. Người viết văn, làm thơ trước hết và chủ yếu bởi vì Nhà lãnh đạo nhận thấy văn chương là một loại vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù và là một công cụ thuận lợi để tuyên truyền cách mạng. Nhưng cũng có những lúc, trước cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của con người, những dòng thơ được viết ra với mục đích giãi bày và thỏa mãn lòng yêu thiên nhiên và yêu con người.
Đầu tiên, nhiệm vụ và lý tưởng cách mạng là một trong những mục đích sáng tác quan trọng nhất trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh. Trước khi viết, Bác thường đặt ra những câu hỏi: Viết để làm gì? Viết cho ai? Viết như thế nào? Mỗi bài viết của Bác đều phục vụ cho một mục đích cụ thể, một đối tượng cụ thể, từ đó, phong cách viết của Bác trở nên vô cùng linh hoạt và đa dạng. Các tác phẩm của Người mang lại ý nghĩa to lớn, có nội dung và mục đích rõ ràng.
Sau nhiều biến cố và thay đổi trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác, tùy thuộc vào hoàn cảnh, các tác phẩm viết ra cũng có những thay đổi để phản ánh tư tưởng, hình thức và phong cách. Bác luôn linh hoạt thay đổi để phù hợp. Điều này tạo ra sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Người.
Bác sống và làm việc ngay giữa hang ổ kẻ thù (Pari) trong những năm đầu của thế kỉ XX. Người đã viết một số tác phẩm bằng tiếng Pháp (Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Lời than vãn của bà Trưng Trắc…). Những tác phẩm này được viết theo phong cách văn xuôi hiện đại châu Âu, nhằm mục đích chỉ trích những âm mưu thâm độc, xảo quyệt của thực dân Pháp và bản chất xấu xa, hèn hạ của triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Đối tượng mà Bác nhắm đến là nhân dân Pháp và những người nước ngoài biết tiếng Pháp. Các tác phẩm này đã gây ra tiếng vang lớn trong dư luận và ảnh hưởng đến quần chúng.
Văn chính luận là phong cách chính của Hồ Chí Minh. Người tạo ra các tác phẩm với các vấn đề không ngoài nội dung tuyên truyền cách mạng, giáo dục tiêu biểu như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến… với lối lập luận sắc bén, dẫn chứng cụ thể, các tác phẩm này thuyết phục sâu sắc.
Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn phải nhắc đến thơ, một phần quan trọng của sự sáng tạo của Bác. Bác sáng tác thơ bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ và nhiều thể loại khác nhau (tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát..). Trong đó, “Nhật ký trong tù” là cuốn nhật ký viết bằng chữ Hán, dưới dạng thơ, ghi lại chi tiết diễn biến trong 14 tháng Bác sống trong ngục tù của chính quyền quân phiệt Tưởng Giới Thạch từ năm 1942 đến 1943. Đây không chỉ là một tài liệu lịch sử quý giá mà còn là một tác phẩm văn chương lớn, thể hiện vẻ đẹp lạ thường của một tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng. Vì vậy, mỗi khi nhắc đến “Nhật Kí trong tù” người ta luôn có cái nhìn đa chiều về chế độ, đời sống và tư tưởng của Người.
Hơn nữa, trong quá trình hoạt động cách mạng, Người cũng sáng tác nhiều bài hát dưới hình thức văn vần để giao tiếp với quần chúng: Bài ca binh lính, Bài ca sợi chỉ, Bài ca đoàn kết… Bác viết dễ hiểu, dễ nhớ để quần chúng có thể hiểu. Người đã phê phán việc viết cầu kì, sử dụng chữ hoặc dài dòng không phù hợp với quần chúng. Bằng hiểu biết của mình, Người đã làm thay đổi cái nhìn về văn chương.
Vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù cuộc sống gian khổ, ác liệt, Nhưng Người không quên sáng tác văn chương. Người viết những bài thơ về cảnh kháng chiến, niềm tin vào thắng lợi tất yếu, nghĩa tình thủy chung, và vẻ đẹp của thiên nhiên:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
(Rằm tháng Giêng)
Qua các tác phẩm và câu thơ, Người muốn khẳng định rằng thơ là một phần của cuộc sống của toàn dân tộc, và kháng chiến là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ:
Trăng ló dần qua cửa sổ, yêu cầu một bài thơ,
Quân đang bận rộn, hãy đợi đến ngày mai.
Chuông nhà cao giật mình từ giấc ngủ,
Đó là dấu hiệu chiến thắng ở Liên khu được báo cáo trở lại.
(Tin thắng trận)
Hoặc cùng với đó, có những câu thơ miêu tả cuộc sống kháng chiến:
Chúng ta nhìn chim rừng bay vào nhà,
Hương vị văn hóa núi rợp ghé qua cửa sổ,
Tin vui chiến thắng làm ngựa lao về,
Nhớ về cụ, một bài thơ mùa xuân được tặng.
(Tặng cụ Bùi)
Mặc dù văn chương là một phần không thể thiếu khi nhắc đến Hồ Chí Minh và những sáng tác của Người, nhưng Người đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm và ý nghĩa sâu sắc. Người viết văn chương trước hết để phục vụ cách mạng, nhưng trong quá trình sáng tác, Bác rất say mê và nghiêm túc. Do đó, Người vô tình để lại trong kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị lớn về cả nội dung và nghệ thuật lẫn hình thức thể hiện.
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh - Mẫu 3
Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Người được đề cao trong toàn bộ tác phẩm thơ của Người. Trong bối cảnh đất nước mất nhà tan hoang, cả dân tộc đang chịu đựng sự áp bức của kẻ thù, phải đứng lên chiến đấu để giành lại tự do, Người cho rằng thơ văn phải mang tính chiến đấu, phải có chất 'thép', là vũ khí cách mạng sắc bén; nghệ sĩ văn nghệ phải là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật. Nếu cổ nhân nói: 'Văn dĩ tải đạo', 'Thi dĩ ngôn chí', thì Hồ Chí Minh bổ sung:
Nay trong thơ cũng phải có sắc thép,
Người làm thơ cũng phải biết đứng ra xung phong.
(Cảm tưởng khi đọc 'Thiên gia thi')
Vai trò của nhà văn phải là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật: 'Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, chúng ta là chiến sĩ trên chiến trường ấy' (Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ 1951).
Bác tin rằng văn thơ cần phản ánh thực tế và bản sắc dân tộc, nhà văn phải 'miêu tả chân thật cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân; phải gợi mẫu tốt, công việc tốt', phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ giữa tác giả và độc giả. Trong thời kỳ cách mạng, người lao động là đối tượng mà văn nghệ sĩ phục vụ. Do đó, tác giả cần nhận thức trách nhiệm của mình. Bác chia sẻ kinh nghiệm cho hoạt động báo chí và văn chương: 'Viết cho ai?' (đối tượng đọc), 'Viết với mục đích gì?' (mục đích sáng tác), 'Viết về cái gì?' (nội dung), và 'Viết như thế nào?' (hình thức).
Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Hồ Chí Minh là tiến bộ, là nguồn bài học sâu sắc cho các nhà văn trong hành trình trở thành những chiến sĩ văn học, dùng bút và tài năng phục vụ cách mạng và kháng chiến, phục vụ việc xây dựng đất nước, góp phần làm phong phú văn hóa Việt Nam.
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh - Mẫu 4
Sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Trong cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự xưng là nhà văn, nhà thơ, mà chỉ là một người bạn của văn nghệ, một người yêu thích văn nghệ. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu cộng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nhạy cảm, ông đã viết rất nhiều thơ và văn. Qua sự nghiệp văn chương của mình, ông đã hình thành những quan điểm sáng tạo văn học khá độc đáo.
Hồ Chí Minh chưa bao giờ coi văn chương là sự nghiệp chính trong đời mình. Đối với ông, công việc cách mạng cứu nước, cứu dân mới là sứ mệnh lớn lao mà ông theo đuổi suốt đời. Ông từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn cao cả là nhà nước hoàn toàn độc lập, dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tuy nhiên, trên hành trình hoạt động cách mạng của mình, ông nhận ra vai trò và sức mạnh to lớn của văn chương. Chính vì vậy, ông đã sử dụng văn chương như một công cụ, một vũ khí chiến đấu.
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống gia đình, môi trường văn hóa, hoàn cảnh sống, hoạt động cách mạng, tính cách và quan điểm sáng tạo của ông. Là một nhà văn cách mạng chính trị, dù rất yêu thích văn chương, Hồ Chí Minh chưa bao giờ đặt văn chương lên hàng đầu, không để lãng mạn át chính trị cách mạng. Trong tình huống cần thiết, ông không coi thường vũ khí văn chương. Với Hồ Chí Minh, văn chương là một hành động chính trị, một hành động cách mạng. Ông đã từng khẳng định “Nay trong thơ cần có sắt” và “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó”.
Trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi”, Bác viết:
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ
Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia dã yếu hội xung phong.
Dịch:
“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông
Nay trong thơ phải có sắt mạnh mẽ
Nhà thơ cũng phải biết chiến đấu”.
Bài thơ này rõ ràng thể hiện quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh. Đối với ông, thơ ca không chỉ nên tập trung vào cái đẹp của thiên nhiên mà còn phải có chất thép, tính mạnh mẽ. Ông không chỉ coi nhà thơ là người thể hiện cảnh đẹp mà còn là một chiến sĩ.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đối tượng tiếp nhận để chọn hình thức viết phù hợp nhất. Ông luôn nhấn mạnh rằng viết văn phải diễn đạt dễ hiểu và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Ông luôn căn dặn các nhà văn, nhà thơ phải viết sao cho phù hợp với đối tượng của họ. Ông nhấn mạnh rằng viết văn phải hướng đến tất cả mọi người.
Hồ Chí Minh cho rằng tác phẩm văn chương cần phải thật chân thực, hấp dẫn. Người khuyên các nghệ sĩ cần phải giảm bớt chất thơ mộng, tăng thêm yếu tố hiện thực. Phải mô tả đời sống một cách đầy đủ, chân thật để tạo ra những tác phẩm độc đáo.
Văn thơ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có phong cách đa dạng nhưng vẫn kết hợp sâu sắc giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Mỗi thể loại văn học, Người đều có phong cách riêng biệt nhưng vẫn thống nhất. Quan điểm sáng tạo của Người đã trở thành hướng dẫn cho các nghệ sĩ và đóng góp vào sứ mệnh của thời đại, của dân tộc.
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh - Mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người được mọi người dân Việt Nam tôn kính, không chỉ là anh hùng cách mạng, nhà văn vĩ đại mà còn là một nhà thơ, một nhà văn lớn. Ông không chỉ coi bản thân mình là người bạn của văn nghệ mà còn nhận ra sức mạnh của văn chương trong cuộc chiến tranh giành độc lập cho dân tộc. Hồ Chí Minh đã sử dụng văn chương như một vũ khí trong cuộc chiến tranh đó.
Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một phần quan trọng trong sự phát triển của cách mạng. Ông tin rằng nhà văn phải sống đúng với cuộc sống, phải tham gia vào cuộc đời, không được tránh khỏi nó. Văn học phải là vũ khí phục vụ cách mạng và nhà văn phải là chiến sĩ trong cuộc đấu tranh. Đó là quan điểm mà ông luôn theo đuổi.
'Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
Nay trong thơ cần có chất thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
Thực ra quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự phát triển của truyền thống từ cha ông trong thời đại cách mạng. Mặc dù có thay đổi, vẫn giữ được tinh thần quyết liệt trong việc sử dụng văn chương như một vũ khí cần thiết cho cuộc đấu tranh.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đặt rất nhiều tầm quan trọng vào việc xác định đối tượng độc giả. Ông đề xuất bốn câu hỏi quan trọng: Viết cho ai? Viết với mục đích gì? Viết về điều gì? và Viết như thế nào? để đảm bảo rằng nội dung và hình thức của tác phẩm phù hợp với độc giả mục tiêu.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng văn chương phải là chân thực và mang tính dân tộc. Ông tin rằng tính chân thực là cơ sở của văn chương và tính dân tộc là phẩm chất cần có. Văn học và nghệ thuật phải phản ánh cuộc sống của dân tộc và được yêu thích bởi nhân dân.
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh rất phù hợp với yêu cầu cách mạng. Điều này không chỉ thể hiện trong sáng tác của Người mà còn là nguồn cảm hứng cho văn nghệ cách mạng.
Đoạn văn phân tích quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một phần của cuộc sống tinh thần và phải phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định rằng văn hóa và nghệ thuật cũng là một mặt trận, và nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận đó. Văn chương cách mạng phải đáp ứng nhu cầu của quần chúng và phản ánh tinh thần dân tộc. Hồ Chí Minh cũng chú trọng đến việc xác định đối tượng độc giả và thực hiện viết văn một cách chân thực và hấp dẫn.