Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân bao gồm 28 bài văn mẫu xuất sắc kèm theo hướng dẫn chi tiết về cách viết. Qua việc phân tích nhân vật bà cụ Tứ, các học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận, giọng văn phù hợp để nắm bắt kiến thức cho riêng mình.
TOP 28 bài phân tích biến cố tâm lý bà cụ Tứ cực chất dưới đây được viết rất tốt với phong cách rõ ràng, dễ hiểu để tự học và nâng cao kiến thức, giúp học sinh học môn Ngữ văn hiệu quả hơn và chuẩn bị tốt hơn cho học tập. Để cải thiện kỹ năng viết văn, học sinh có thể tham khảo thêm: thuyết minh Vợ nhặt, phân tích nhân vật A Phủ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ tuyệt vời nhất
- Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ
- Biểu đồ tư duy phân tích nhân vật bà cụ Tứ
- Phân tích biến cố tâm lý bà cụ Tứ - Mẫu 1
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ đạt điểm cao - Mẫu 2
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi - Mẫu 3
- Phân tích bà cụ Tứ siêu hay - Mẫu 4
- Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 5
- Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 6
- Phân tích nhân vật cụ Tứ - Mẫu 7
Cấu trúc phân tích nhân vật bà cụ Tứ
I. Giới thiệu
- Kim Lân là một nhà văn tài ba, tác phẩm của ông tập trung vào đề tài chính là đời sống của người nông dân và cuộc sống ở vùng quê Việt Nam.
- Tác phẩm Vợ nhặt thuộc bộ truyện Con chó xấu xí, là một bức tranh chân thực về cảnh nghèo đói năm 1945, là sự ca ngợi tình thương con người, tình mẹ hiền, và khát khao sống.
- Bà cụ Tứ được xem là biểu tượng của vẻ đẹp của người nông dân, người mẹ Việt Nam.
II. Nội dung chính
1. Giới thiệu nhân vật
- Là một người mẹ già nua, nghèo khổ (tính cách lỗi thời của người cao tuổi), sống vật vờ.
- Ngoại hình: dáng đi chậm chạp, run run, với thói quen tính toán theo cách của người lớn tuổi.
2. Tâm trạng của bà cụ Tứ
- Bà cảm thấy đau đớn trước sự thất vọng của con trai ngốc nghếch “bà lão phấp phỏng”.
- Bà không biết gì về việc con trai đã đưa vợ mới về, khi thấy một người phụ nữ lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “Ồ, tại sao lại có một người phụ nữ đứng ở trong đó nhỉ?” “Tại sao người phụ nữ lại đứng bên giường con trai tôi như vậy?” “Tại sao lại chào mình bằng kiểu đó?”
- Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà hiểu được nhiều điều, “đôi mắt bà ướt ẩm”:
- Bà thương, buồn cho con trai phải lấy vợ mà chỉ có trong hoàn cảnh đói khát mới có thể làm được điều đó, nhưng người khác đưa con gái cho con chỉ trong những lúc hạnh phúc... con của bà lại ...”.
- Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, cảm thấy có lỗi với con trai vì không thể sắp xếp hôn sự của con chu đáo.
- Bà cảm thông với người phụ nữ khốn khổ phải làm con dâu của bà, cảm thông với sự ngu ngốc của con trai: “Chỉ khi gặp khó khăn, đói khát như thế này, người ta mới lấy con mình. Mà con mình mới có vợ được ...”
- Bà mừng vì con trai đã thành gia đình: “Các con đã gặp phận ... và mừng lòng”, “gương mặt bầu bĩnh của bà tỏa sáng” chấp nhận con dâu mới của mình.
- Bà lo lắng cho cuộc sống của các con trong tương lai: “Chúng nó có thể sống qua được cơn khó khăn này không”, “Vợ chồng chúng nó đã kết hôn, liệu cuộc đời của chúng nó có tốt hơn bố mẹ trước không”
- Bà đối đãi con dâu mới với lòng từ bi, tôn trọng:
- Quan tâm chu đáo đến con dâu: “Con ngồi lại đây ... đỡ mỏi chân”,
- Tươi sáng về tương lai với niềm tin “Biết đâu nhỉ, ai giàu ai nghèo, ai may mắn ai khổ cả đời”
- Khuyên dạy các con cách làm ăn: “Khi nào có tiền ta mua được đôi gà, vặn vẹo chắc cũng có đàn gà xem rồi”.
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chân thành, rộng lượng, nhân từ, luôn dành tình yêu thương và hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Bà là một hình tượng tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
III. Tổng kết
- Cảm nhận cá nhân về bà cụ Tứ.
- Tổng quan giá trị nghệ thuật: xây dựng bối cảnh truyện độc đáo, tường thuật tâm lý nhân vật tỉ mỉ, sử dụng ngôn ngữ đơn giản, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, phản ánh chân thật hoàn cảnh của người nông dân trong thời kỳ đói khổ, đồng thời khám phá bản chất đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
..................
Tải file để xem thêm 4 bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ
Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật cụ Tứ
Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 1
Pautopxki - một nhà văn người Nga từng nhận xét rằng “An-đéc-xen đã thu thập những hạt trơ trên cánh đồng của những người nông dân, ấp ủ chúng trong trái tim và gieo vào những hạt giống, từ đó nảy nở những đóa hoa thơm. Ở Việt Nam, tôi đã gặp một An-đéc-xen như thế mang tên Kim Lân. Một người với trái tim chân thành với đất, với con người, với tinh thần thuần khiết của cuộc sống nông thôn. Trên những trang văn tươi sáng nơi bếp lửa hương đồng ruộng, là những bông hoa đang nở rộ. Bà cụ Tứ với những biến đổi tâm trạng phức tạp càng chứng tỏ bà là một bông hoa tràn đầy tình yêu thương, lòng bao dung và sự đồng cảm lan tỏa khắp cả tác phẩm. Và cũng từ đóa hoa ấy, Kim Lân đã gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Kim Lân là một trong những tài năng văn chương của Việt Nam hiện đại. Một người viết về cuộc sống nông thôn và những người nông dân với tâm hồn hồn hậu, chất phác và đầy yêu thương. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là quả ngọt của sự trăn trở về mảnh đất đồi núi ấy. Đây cũng là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân được đăng trong tập “Con chó xấu xí”. Trước đó, Kim Lân viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng không hoàn thành và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình được thiết lập (năm 1954), ông đã dựa trên một phần của tiểu thuyết cũ để viết truyện ngắn này. Do đó, tác phẩm không chỉ là kết quả của quá trình suy ngẫm sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng lạc quan của thời đại mới.
Kim Lân đã thành công trong việc tái hiện cảnh đói khát kinh hoàng năm 1945 khi “Trên thân mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã bốc mùi tử khí”. Dù bị đói, bị nghèo nhưng không làm mất đi vẻ đẹp của con người và tình người. Trên nền của cảnh đói đó, bà cụ Tứ - một người mẹ nông dân chịu nhiều khó khăn trong cuộc sống hiện lên như một ngọn lửa ấm áp - biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với lòng nhân ái, lòng bao dung. Bà xuất hiện trong truyện với sự miêu tả chân thực của Kim Lân về một người mẹ già nua, yếu đuối, luôn chịu đựng những lo toan về cuộc sống.
Trong hoàn cảnh đói khát, một người sắp “gần đất xa trời” và có vẻ như đã mất đi sự sống, chỉ chờ ngày được gặp chồng và con gái ở bên kia. Nhưng điều kỳ diệu là từ khi người con dâu mới xuất hiện, đã làm thay đổi mọi thứ trong bà, mang đến hy vọng sống, sống cuối đời hạnh phúc hơn.
Lúc đầu khi về nhà, bà cảm thấy bất ngờ khi thấy một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Sự hiện diện của người phụ nữ đã khiến bà rối bời với nhiều cảm xúc: ngạc nhiên, tủi thân, mừng và lo. Ban đầu là sự ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên vì sự lạ của Tràng và sự hiện diện của người phụ nữ lạ. Bà băn khoăn về việc tại sao con lại đón mình ở ngoài như vậy, cảm thấy bất an và lo lắng về tương lai. Sau những khoảnh khắc ngạc nhiên, an ủi, bà cảm thấy rối bời hơn, tâm trạng phức tạp. Căn nhà rách nát của bà chỉ có bà và con trai, việc có người phụ nữ lạ xuất hiện là một sự kiện đáng chú ý. Nhiều câu hỏi đầy nghi ngờ về việc người phụ nữ đứng trong nhà bà là ai và tại sao người đó đứng ở đầu giường con bà như vậy?
Không phải là con Đục của bà mà ai khác nhỉ? Sự bất ngờ của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của nhiều người khác, từ xóm làng đến Tràng đều không thể tin được. Nhưng thực tế, một người như bà, đã sống nhiều năm trên đời này, là người có kinh nghiệm. Việc con cái lớn lên, muốn thành gia đình là điều mà không có mẹ nào là không nhạy cảm. Nhưng với bà, nạn đói đã làm mất đi sự nhạy cảm ấy. Sự ngạc nhiên kéo dài đến khi bà không thể tin được điều đó là sự thật, bà khẽ nhắm mắt lại nhưng vẫn cảm thấy mơ hồ. Tuy nhiên, thái độ của Tràng và không khí trong gia đình cùng câu nói của Tràng “Nhà tôi mới về đã làm bạn với tôi đấy u ạ” khiến bà cảm thấy thật rối bời. Bà vừa tức giận, xót xa cho chính mình lại vừa thương con đắm chìm trong lo âu.
Khi hiểu được sự việc, bà cụ Tứ “cúi đầu im lặng”. Trong lòng bà tràn ngập nhiều cảm xúc, từ tủi hờn, xót xa, vui mừng đến lo lắng. Kim Lân sử dụng hai từ “Cúi đầu” để cho người đọc cảm nhận được sự xót xa: sau cái cúi đầu ấy là nỗi uất hận, xót xa và chút cay đắng. Trái tim của người mẹ đa cảm ấy bỗng cảm thấy xót xa, thương tâm về bản thân. Bà buồn vì cảm thấy mình chưa hoàn thành vai trò của một người mẹ, buồn vì không lo được cho con trai. Bởi cuộc đời của người mẹ không chỉ đơn giản là sinh con ra, nuôi dưỡng con lớn lên mà còn có trách nhiệm xây dựng gia đình cho con, chăm sóc con cháu. Bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, mong con sau này có cuộc sống tốt. Còn mình thì …”. Nhà văn đã thể hiện suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những khoảnh khắc yên lặng trong tâm hồn người mẹ, nơi mà sự tủi thân, xót xa dâng trào hơn bao giờ hết. Ở đây, Kim Lân để nhân vật của mình khóc: “Trong khe mắt của bà đã rơi xuống hai dòng nước mắt”, đó là những giọt nước mắt của tủi hờn, cay đắng của cuộc đời. Từ “rơi” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn. Dường như bà cụ Tứ đang kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi thân, cay đắng, xót xa như dâng trào trong lòng khiến bà không thể nổi giận.
Tâm trạng của bà cụ Tứ dần chuyển từ sự tủi thân thành lòng thương yêu. Bà thương người phụ nữ đã theo con trai về nhà “Nếu không có hoàn cảnh khó khăn như thế, thì người ta không lấy con tôi. Mà con tôi mới có thể cưới vợ được”. Bà hiểu rằng con của mình cũng khó có thể lấy vợ nếu không gặp khó khăn. Bà không có ý xúc phạm người con dâu, mà trái tim bà bao dung hơn bao giờ hết. Bà cảm thấy gần gũi và chân thành khi nhìn người phụ nữ đứng với chiếc áo rách, lòng tràn đầy thương yêu. Tình cảm này giúp người phụ nữ “mang tội theo trai” (Kim Lân) lấy lại danh dự. Bao nhiêu suy nghĩ, đã tự an ủi và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ già vẫn cứ rỉ rả. Những nỗi lo âu ấy xuất phát từ tình yêu của người mẹ dành cho con: “Liệu chúng nó có sống qua cơn khó khăn này không?”
Trái tim nhân ái của người mẹ đã chỉ dẫn bà phải đồng ý với cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì các con đã có duyên với nhau rồi, bà cũng vui lòng mừng lòng”. Câu ca dao Việt Nam có câu:
“Trồng cây muốn cây xanh
Nuôi con muốn con thành thất gia”
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Có lẽ nỗi ám ảnh về nạn đói đã làm mất đi niềm vui của mẹ? Làm sao một người làm mẹ có thể vui được khi hạnh phúc, tương lai của các con đang bị nỗi đói bủa vây. Đó cũng là lời nói chân thành chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình thiêng liêng hơn nữa. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành cho con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Dù có ra sao thì chúng mày cũng hòa thuận với nhau là vui rồi. Năm nay thì đói nên chúng mày lấy nhau u cũng đáng thương quá…nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Tiếng khóc lúc này không chỉ là sự kìm nén nữa mà còn là sự giải bày. Bà khóc để chia sẻ lòng mình, để tìm sự thông cảm từ các con. Thế nhưng đặc biệt hơn, lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này cho thấy bà Tứ không chỉ yêu thương con trai mình mà còn yêu thương người đàn bà xa lạ. Lời nói giản dị, chân chất của một người mẹ hiền cũng là minh chứng cho sự bằng lòng của bà dành cho hôn sự của con. Bà nhìn cô con dâu, bằng tất cả sự xót thương chứ không hề coi thường. Tấm lòng nhân ái bao la và cao thượng của mẹ thật đáng quý biết bao!
Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và niềm vui cũng đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao không lo lắng khi nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà đã già, có chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng còn các con thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng có vượt qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của mình, ông lão, cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà, bà nghĩ liệu cuộc sống của các con có tốt hơn cha mẹ nó hay không. Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không để nhân vật tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì cho đôi vợ chồng về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã nung nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cuộc sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải của một người mẹ đã trải qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hy vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng. Đó cũng là lời động viên chân tình, chân nghĩa mà bà muốn truyền đến trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.
Tâm trạng của bà cụ Tứ dần thay đổi tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Sáng hôm sau, khi mới dậy, hạnh phúc của con làm bà vui hơn, hi vọng hơn. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để chào đón một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có khởi sắc hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Tràng nhận ra sự biến chuyển đáng kể đó “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bụng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu không có sự sang trọng, không có đồ ăn ngon lành mà chỉ có những gì khốn cùng nhất: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo… Nhưng sự thiếu thốn về vật chất lại được bù đắp bởi sự giàu có về tinh thần khi cả gia đình đang có thêm một thành viên mới, một hạnh phúc mới. Vì thế “cả nhà đều ăn rất ngon lành”
Trong một không khí gia đình hạnh phúc và ấm áp, bà cụ Tứ đã truyền động lực sống mới cho các con. Bữa ăn vẫn mang đậm tình cảm nhân văn. Bà cụ Tứ chăm chút từng khoảnh khắc vui vẻ, cố gắng tạo ra không khí hài hòa, vui tươi. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền cảm hứng. Bằng cách thắp sáng niềm vui, lòng lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái niềm tin ấy để các con hướng tới tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện về kinh doanh, gia đình với con dâu. Bà lão chỉ nói về những điều vui vẻ, hạnh phúc về tương lai sau này”. Điều này cho thấy người mẹ này rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể làm ngã gục được người mẹ nông dân mạnh mẽ với niềm tin vững chắc vào câu “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện về đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một nguồn sinh khí mới làm bữa ăn trở nên ấm áp hơn: “Khi nào có tiền ta mua đôi gà… Rồi ngoảnh đi ngoảnh lại thì chẳng mấy mà có ngay đàn gà cho mình xem…”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là biểu hiện của niềm tin và lòng lạc quan mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Chính bà lão gần đất xa trời đang cố gắng nhen nhóm niềm tin, hi vọng cho các con. Bà tin rằng sự sinh sôi sẽ đánh bại sự hủy diệt, và sự sống sẽ chiếm thế thượng phong. Cũng giống như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng này, rồi họ sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con cháu cho giống nòi Việt Nam mãi mãi xanh tươi. Đây chính là cách bà cụ thể hiện niềm tin vào tương lai, tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng. Và câu chuyện này cũng đã mang đến sự sống mới cho cuộc đời của Tràng và người vợ, giúp họ vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc sống mới trên nền đen tối của nạn đói.
Nhưng niềm vui của bà cụ lại bị gián đoạn khi miếng cháo cám trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này, sự tối tăm của hiện tại và tương lai trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui đều tan biến chỉ trong chốc lát. Bà tự hào vì nồi “chè khoán” thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào về việc “xóm ta không còn cám để ăn đâu”. Vậy là nhà bà “sang” nhất xóm, “giàu” hơn nhà người. Niềm tự hào đó sao nghe chân thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tỉnh táo kể chuyện về kinh doanh, cố gắng hết sức để thắp sáng cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lòng lạc quan yêu cuộc sống. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói, người ta không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống”. Tinh thần nhân văn của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Nhân vật bà cụ Tứ cho ta càng thấy rõ giá trị nhân đạo mà Kim Lân gửi gắm. Chính giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và “Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho lớp bụi thời gian có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân thể hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé nhỏ. Đó là là bà cụ Tứ - người mẹ dịu hiền, yêu thương lo lắng cho con hết mực. Chẳng những thế, ở phía sau con người già yếu sắp gần đất xa trời như bà là niềm tin, tinh thần lạc quan vào cuộc sống. Chính điều đó đã nhen lại sự sống cho đôi vợ chồng trẻ, giúp họ vững tin vượt qua khó khăn. Ngòi bút của Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật đã khiến đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng trước thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất vưởng như những bóng ma. Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân không để cho nhân vật của mình phải chết trong đau đớn, quằn quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã hé mờ cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về tương lai, hướng về sự sống khi để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng - bắt nguồn từ sự thay đổi nhận thức đã sẵn sàng trong tâm trí người vợ nhặt.
Với cách viết tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ, Kim Lân đã làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân vật. Không những thế, ngôn ngữ văn học của ông rất gần gũi, giản dị với lời nói hàng ngày của người lao động. Tất cả tạo nên danh tiếng của tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện một xã hội nghèo khó, cùng cực nhưng vẫn tỏa sáng tình người và tia hy vọng trong tư tưởng của người nông dân.
Một nhà văn “dâng cả lòng cho đất, cho người, với sự thuần hậu của cuộc sống nông thôn” như Kim Lân đã thực sự thành công khi miêu tả những diễn biến phức tạp của bà cụ Tứ. Giống như thị, bà cụ Tứ cũng được vẽ bởi những nét vẽ rất đơn giản nhưng ẩn sâu trong tâm hồn bà luôn hướng về ánh sáng, lòng lạc quan và niềm tin vào hạnh phúc sẽ đến. Một người mẹ hy sinh cho con, một con người biết che chở, sống nhân ái và tình nghĩa đó là đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam. Nhân vật bà cụ Tứ là một trong những hình ảnh điển hình, tiêu biểu cho người mẹ Việt Nam:
“Cả cuộc đời Mẹ như một nắng hai sương, Lặng lẽ bước trên con đường dù mưa gió. Bởi yêu con… Mẹ vượt qua mọi khó khăn, Dù cuộc đời có gian nan thế nào đi chăng nữa.”
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu số 2
Văn học là một phạm trù không giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều sâu của giác quan và trí tưởng tượng, và tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân cũng không ngoại lệ. Đó không chỉ là câu chuyện về anh Tràng thô lỗ, cục mịch đến ngượng nghịu, ngơ ngác như một đứa trẻ lớn hiền lành, mà còn là về một người phụ nữ mang trên mình sự thiêng liêng của tình mẫu tử, của tình người đẹp đẽ, đem đến hy vọng và hạnh phúc giản đơn nhưng sâu sắc vào cuộc sống, vào tình người giữa thời kỳ đói kém. Đó là bà cụ Tứ. Khi đọc sâu hơn, ta cảm nhận được tấm lòng sâu thẳm của người mẹ nông dân trong cơn khốn cùng này. Hãy cùng đi theo những bước chân của người viết, khám phá hành trình và tâm hồn của nhân vật này trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân.
Khi nhắc đến văn học làng quê Việt Nam, không thể không nghĩ đến Kim Lân. Bút phú của Kim Lân quay về cuộc đời thôn quê nghèo khó. Dù trong bóng tối của cảnh cực đoan bao quanh những mảnh đời của những người nông dân, ánh sáng từ tình người, lòng nhân ái vẫn là điểm sáng chủ đạo xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm. Vợ Nhặt không phải là ngoại lệ. Tác phẩm bắt đầu từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bản thảo bị dang dở, thất lạc. Sau khi hòa bình được thiết lập (1954), KL viết lại dưới dạng một truyện ngắn và đặt tên là “Vợ Nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Bối cảnh của câu chuyện “nhặt vợ” là nạn đói kinh hoàng năm 1945. Bóng tối của đói đã lan rộng, phủ xuống khắp các làng xóm, và nạn đói năm ấy trở thành bóng ma đe dọa của dân tộc ta vào thời điểm đó. Trong cảnh tối tăm đó, nhân vật của Kim Lân hiện ra mang thông điệp ý nghĩa: “trong hoàn cảnh đói khát, dù bất cứ khốn khổ nào người nông dân vẫn khát khao vươn lên trên cái chết, cái u tối để tìm lại niềm vui, để tìm lại hy vọng”. Bà cụ Tứ, mặc dù là nhân vật phụ, xuất hiện cuối cùng trong tác phẩm nhưng lại đem đến giọng nói sâu sắc, đầy đủ nhất, để lại ấn tượng mãnh liệt trong lòng người đọc.
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ được giới thiệu ở giữa câu chuyện “Vợ Nhặt”. Nhưng nếu thiếu bà, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ có hấp dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã làm cho câu chuyện “Vợ Nhặt” thêm sâu sắc, mang đến cho tác phẩm một sự đầy đủ, đặc sắc. Kim Lân viết “Vợ Nhặt” để thể hiện số phận thê thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và ước muốn hạnh phúc của họ. Bằng cách xây dựng nhân vật bà lão, nhà văn có lẽ muốn khơi gợi người đọc nhìn lại việc Tràng cưới vợ từ một góc nhìn khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng khi đọc tác phẩm, ta cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cảnh đói. Điều này có thể là ngoài ý muốn ban đầu của tác giả. Sự kỳ diệu của nghệ thuật chính là ở đó. Kính trọng người mẹ, kính trọng người lão và nỗi khổ suốt đời làm nên tầm nhìn và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ là người mẹ già yếu, sống trong hoàn cảnh nghèo khó. Cô ấy nhấp nháy hai con mắt, chậm chạp hỏi, lặng lẽ bước đi, toát lên hình ảnh của một người đã già, không còn khỏe mạnh.
Tâm hồn của nhân vật bà cụ Tứ được tạo hình rất chân thật. Đọc truyện, ta có cảm giác như bà đang bước từ ngôi nhà nghèo của mình vào trang sách, không phải do sự tạo dựng của tác giả. Bà là một nhân vật tự nhiên, không tô son đánh phấn.
Tâm trạng của bà cụ Tứ được miêu tả rất phức tạp và đa dạng. Cô ấy đối diện với sự thay đổi lớn trong cuộc sống khi con trai cô kết hôn đột ngột. Điều này gây cho bà nhiều cảm xúc khác nhau.
Người đọc dễ dàng nhận thấy hai mặt của tâm trạng bà cụ Tứ: Bề ngoài, cô luôn tỏ ra vui vẻ, hy vọng về tương lai sáng sủa cho con cái. Nhưng bên trong, cô ẩn chứa nỗi lo lắng và nước mắt dành riêng cho mình. Sự bao dung và hy sinh của bà giống như nhiều người mẹ Việt Nam khác.
Bà cụ Tứ được tạo hình rất chân thật và chi tiết. Cô ấy là một người mẹ nghèo khổ, vất vả với cuộc sống. Điều này gây ra cho cô nhiều nỗi buồn, lo lắng, nhưng cũng đầy lòng hi vọng.
Băn khoăn mãi, khi đã hiểu, bà cụ Tứ cúi đầu nín lặng, biểu hiện của nỗi khổ đeo bám suốt cuộc đời. Cô không thể lo được cho con một mái ấm. Sự xót thương, tủi hờn với số phận của mình, con trai và con dâu. Cô vừa đau lòng vì con vừa thương xót số phận con.
Tuổi già của mẹ như hạt lệ như sương, mà nước mắt người già chảy ngược vào tim. Mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm.
Thời gian đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ và vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ biết rằng những điều lẽ ra cô có thể làm được nhưng gia đình quá nghèo khó.
Mối quan hệ giữa mẹ chồng và con dâu thường gặp mâu thuẫn. Nhưng bà cụ Tứ lại có cử chỉ ân cần và thân thiện với con dâu, dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Bà cụ Tứ thương con và tủi phận rồi lại thương con dâu. Bà hiểu rằng căn nguyên của mọi vấn đề là cái đói, là một sợi dây gắn kết mọi người lại với nhau để sống và hi vọng cho tương lai.
Lo lắng cho cuộc sống và tương lai của các con, bà cụ Tứ cảm thấy vừa mừng vừa lo lắng. Cô lo lắng rằng liệu con có thể vượt qua cơn đói khát này không. Cô cũng suy nghĩ đến trường hợp xấu nhất nếu con phải chịu bất hạnh thì mình sẽ phải chịu. Cái đói, cái chết luôn hiện hữu trong suy nghĩ của con người.
Bà cụ Tứ động viên con tin vào tương lai, nhưng cũng thể hiện sự lo lắng của mình. Cô lo lắng về những khó khăn mà con sẽ phải đối mặt. Tuy nhiên, cô cũng tràn đầy hy vọng khi nghĩ về tương lai tươi sáng, bao trùm bởi những lo lắng về hiện thực khắc nghiệt.
Bà cụ Tứ thể hiện sự lo lắng và tình thương của mình đối với con dâu. Cô hiểu rằng nỗi lo của con dâu trong tình trạng đói khát. Tình yêu thương và lo lắng cho tương lai được diễn tả một cách chân thật qua từng lời nói của bà.
Trong câu chuyện, ai cũng không thể quên cách bà lão giấu diếm những dòng nước mắt xót thương của mình khi nói về con dâu: “Có đèn không? Thắp lên cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt quá…”. Bà đã cố gắng kiềm chế cảm xúc, nuốt những giọt nước mắt đắng vào trong trái tim đầy đau thương của mình. Trước ánh nhìn nhòa của độc giả, những giọt nước mắt của bà lại hiện lên rõ ràng hơn. Những giọt nước mắt từ đôi mắt nhòa. Những giọt nước mắt của tình mẹ. Những giọt nước mắt mặn mà như muối của trái tim yêu thương. Bà cố gắng nuốt nước mắt, kiềm chế nỗi đau để tình thương của mình an ủi các con.
Niềm tin của bà đã trở thành niềm vui. Bà thích thú khi làm việc sửa sang nhà cửa vườn tược. Điều này khiến bà cảm thấy nhẹ nhõm, tươi vui hơn. Bà đã tự tạo ra niềm vui đó trong ngày đón chào nàng dâu mới: dậy sớm, dọn dẹp, quét dọn nhà cửa, giãy cỏ trong vườn. Bà hiểu rằng đây là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời các con, và bà muốn vun vén cho hạnh phúc của các con.
Buổi sáng nay, bà đã vất vả lo chuẩn bị bữa cơm đón dâu, dù “bữa cơm ngày đói thật thảm hại” chỉ là cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát. Tuy nhiên, bà vẫn cố gắng tạo không khí ấm áp, vui vẻ để động viên, giảm bớt nỗi thất vọng cho các con. Dù cuộc sống khắc nghiệt, đầy đọa đầy đau khổ, bà vẫn tươi vui kể chuyện về những điều sung sướng sau này, những kế hoạch nuôi gà cho các con. Người mẹ già vẫn đặt niềm tin vào ngày mai dù bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà nhen nhóm trong bữa cơm ngày khốn khó đã thể hiện sức sống kỳ diệu của người lao động. Nhưng điều cảm động nhất là nồi cháo cám mà bà giấu kín, vui vẻ “bưng lên nhà” để che giấu thực tại khó khăn. Lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn các con được no đủ, hạnh phúc dù biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tế sẽ trở về bình thường, chua chát. Bà có ý xua tan không khí ảm đạm, che đậy thực cảnh khó khăn. Kim Lân để lộ chi tiết tương phản để thể hiện tấm lòng sâu kín của người mẹ. Nồi cháo cám là điểm nổi bật trong tác phẩm. Mỗi nhân vật đều nhìn nhận nó theo cách khác nhau, từ đó làm nổi bật tư tưởng chủ đạo. Nhiều người nhìn nó như đen tối, còn Tràng thì khó chịu, nghẹn trong cổ. Nhưng bà mẹ già vẫn tươi cười, khen ngon đáo để. Có lẽ đó là một việc làm vượt trội của tình mẹ, nghị lực sống của bà, cố gắng nhen lên niềm tin cho con vượt qua khó khăn.
Kim Lân sử dụng điểm nhìn trần thuật, nương theo suy nghĩ của nhân vật để kể chuyện, làm cho người đọc có cái nhìn chân thực, khách quan hơn. Sử dụng lời kể nửa trực tiếp, nhà văn lồng vào cảm xúc riêng của nhân vật, đặc biệt là bà cụ Tứ, thể hiện sự thấu hiểu, niềm tin và tình yêu thương con người. Câu văn chậm rãi, lắng đọng, gần gũi với đời sống nông thôn. Cốt truyện của Kim Lân mang lại bất ngờ, hấp dẫn với sự nối tiếp chặt chẽ. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh người mẹ điển hình của người phụ nữ Việt Nam - thương con, vị tha, nhân hậu. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm thiết tha, trân trọng những tấm lòng của người mẹ, tạo nên trang văn chân thật và cảm động.
Kim Lân đã vẽ nên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Một người mẹ yêu thương con hết mình, hy sinh tất cả vì con. Nhà văn không cố ý tạo dựng bà cụ Tứ thành một nhân vật điển hình nhưng bằng tài năng, bằng tấm lòng, bằng sự trìu mến đối với tấm lòng người mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thực và cảm động hơn bao giờ hết. Chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cái bóng tối bi thảm của những cuộc đời nghèo khổ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi - Mẫu 3
Kim Lân không sáng tác nhiều, nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc sống của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những thời kỳ khó khăn nhất của đất nước. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người nông dân.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn nhà rách nát trong xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ.
Cuộc đời bà cụ Tứ luôn phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu khi anh Tràng đưa về một người vợ nhặt, lấy vợ ngay giữa cơn đói nghèo khủng khiếp, một đám cưới đơn sơ, không có hoa, đèn, không có tiệc tùng. Thị lặng nhìn con trai giới thiệu người con dâu mới, biểu hiện của sự từng trải và tấm lòng yêu thương của một người mẹ.
Sau khi nghe Tràng giải thích câu chuyện cưới, bà cụ Tứ hiểu ra nhiều điều, thương con trai mình và chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng với tâm thế lạc quan, thể hiện sự thấu hiểu và bao dung.
Hình ảnh bà cụ Tứ là một người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu sâu sắc với số phận con người bất hạnh. Bà thương cảm cho thị, một người phụ nữ đang phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.
Nhờ sự thấu đáo và hiểu lý lẽ đó, bà cụ nhanh chóng trở nên thân thiết với người con dâu mới, âu yếm chăm sóc thị, để giúp thị bớt ngại ngùng với tổ ấm mới. Bà thương xót cho thị, một người phụ nữ đã gánh chịu nhiều khổ cực, lại phải đối mặt với đói nghèo khủng khiếp.
Cụ Tứ không chỉ ấn tượng với tình mẫu tử sâu sắc mà còn bật mí niềm tin và hy vọng vào cuộc sống tươi đẹp phía trước, dù đang trong cảnh khốn khổ của nạn đói năm 1945. Bà là người truyền cảm hứng, gieo vào con cháu niềm tin và khát vọng vượt qua khó khăn.
Trong 'Vợ nhặt' của Kim Lân, bà cụ Tứ hiện lên như một biểu tượng của lòng nhân ái và sức sống mãnh liệt giữa cảnh nghèo khó, tương thân tương ái với người con dâu mới.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 4
Truyện 'Vợ nhặt' của Kim Lân khắc họa cuộc sống khốn khổ trong nạn đói năm 1945 nhưng cũng thể hiện vẻ đẹp tinh thần của con người trong hoàn cảnh khó khăn. Bà cụ Tứ - mẹ của Tràng là biểu tượng của lòng nhân ái và sự hy sinh, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện giữa tác phẩm, nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của câu chuyện. Kim Lân đã miêu tả bà cụ Tứ một cách chân thực từng hình ảnh và chi tiết. Bà là một người mẹ đáng thương vì số phận bất hạnh, chỉ còn lại một đứa con trai nghèo khổ. Hai mẹ con sống trong căn nhà tồi tàn, đói nghèo. Sự khổ đau và nghèo khó đã tạo nên tính cách của bà.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ bất ngờ khi bước vào nhà thấy Tràng có thái độ lạ. Bà lão lo lắng khi không biết sẽ gặp gì trong nhà. Khi nhìn thấy người phụ nữ đứng bên giường con mình, bà ngạc nhiên và càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn không thể nhận ra người đó là ai. Bà chưa tìm thấy câu trả lời và đổ lỗi vào cặp mắt của mình. Bà ngồi xuống băn khoăn. Sau khi Tràng giải thích, bà mới hiểu và im lặng. Cái tư thế cúi đầu của bà chứa đầy nhiều suy nghĩ và tâm sự.
Cảm xúc trong bà rõ ràng hơn bao giờ hết. Bà so sánh hoàn cảnh của mình với người khác trong việc cưới gả con. Bà thể hiện sự ai oán và day dứt trong lòng. Tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái và thương con rất tha thiết.
Cảm xúc xót thương được thể hiện qua lo lắng của bà dành cho các con: 'Có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không nhỉ?'. Bà cố kìm nén xúc động, nhưng những giọt nước mắt vẫn rỉ ra từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già. Đoạn văn đầy cảm xúc của tác giả.
Diễn biến câu chuyện đã đạt đến cao trào. Cả ba nhân vật căng thẳng. Bà cụ Tứ hiểu ra sự việc và cảm thấy đau buồn. Bà kìm nén cảm xúc và nhẹ nhàng nói với 'nàng dâu mới': 'Ừ, thôi thì các con phải duyên phận với nhau, u cũng mừng lòng...'.
Người mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu tâm trạng người phụ nữ trở thành 'con dâu' của mình. Cảm xúc phức tạp của bà cụ Tứ khiến người đọc xót xa. Bà lo lắng và tâm sự về cuộc sống khó khăn của gia đình.
Bà cụ Tứ tâm sự cùng các con: 'Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày cố gắng làm ăn cho khá... Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?'. Bà lão khuyên các con vượt qua khó khăn với niềm tin vào tương lai.
Tâm trạng của bà cụ Tứ xen lẫn buồn vui, lo lắng về cuộc sống của các con. Bà cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: 'Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân'. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Bà chia sẻ với người vợ nhặt về cuộc sống khó khăn của gia đình.
Tâm trạng của bà cụ Tứ từ đan xen lo lắng, buồn vui vào chiều hôm trước, chuyển sang niềm vui rạng rỡ vào buổi sáng hôm sau. Bà cố gắng tạo không khí vui vẻ bằng những lời nói thân mật và những món ăn đặc biệt. Bà lão đầy tình thương và lo lắng cho các con trong cuộc sống khó khăn.
Kim Lân có tài nhẹ nhàng khai thác tâm hồn sâu thẳm. Ông đã sắc sảo diễn tả tâm lý của bà cụ Tứ - người mẹ nghèo nhưng đầy yêu thương, nhân ái. Bà đã cố gắng xua tan nỗi ám ảnh của đói khát, nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con.
Tình mẫu tử trong văn học Việt Nam được biểu hiện rất đáng quý. Bà cụ Tứ là một người mẹ giàu đức hi sinh, yêu thương con hết lòng, tương tự như những nhân vật nổi tiếng khác như Lão Hạc, người hàng chài không tên.
Truyện 'Vợ nhặt' của Kim Lân tạo nên hình ảnh chân thực của người mẹ nghèo khổ. Tác giả đã đi sâu vào tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ, thể hiện sự lo lắng và tình yêu thương của người mẹ với tương lai các con.
Truyện 'Vợ nhặt' không chỉ là văn chương mà là một cảm xúc thấm đẫm nước mắt, lo lắng cho hiện tại và niềm tin vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ làm lòng người rung động sâu sắc về tình mẫu tử tha thiết.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 5
Kim Lân là một nhà văn nổi tiếng viết về đề tài nông thôn. Những câu chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như bản thân ông. 'Vợ nhặt' là một tác phẩm đầy cảm xúc về cuộc sống khốc liệt của người nghèo trong những năm đói kém 1945, tình người ấm áp giữa những hoàn cảnh khó khăn. Bà cụ Tứ - người mẹ già nghèo với tâm trạng phức tạp khi nhìn con trai độc nhất lấy vợ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
Nhân vật chính trong 'Vợ Nhặt' là Tràng, sống trong xóm trọ trong những năm đói khó. Anh làm thuê kéo xe thồ kiếm sống và gặp gỡ người phụ nữ nghèo đang ngồi vệ đường chờ 'nhặt hạt rơi vãi', cô đẩy xe sau vài câu đùa vu vơ. Lần gặp lại, cô đói đến mức 'gầy quá', anh mời cô ăn bánh và rồi cả hai trở thành vợ chồng.
Tác phẩm của Kim Lân làm nổi bật tình huống độc đáo và đầy cảm xúc trong văn học Việt Nam. Qua đó, người đọc cảm nhận được sự mong manh, nghèo khó của con người trong đói khát, cùng tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau. Bà cụ Tứ - người mẹ già nghèo nhưng tràn đầy tình thương, là hình ảnh ấm áp trong bức tranh đời thường.
Bà cụ Tứ - mẹ của Tràng chỉ được giới thiệu qua vài dòng ngắn gọn. Bà là một người phụ nữ già nghèo trong xóm. Dáng đi của bà luôn 'luộm thuộm', chậm chạp và thường lẩm bẩm điều gì đó trong miệng. Bà đã trải qua nhiều gian khổ và đau khổ. Khi con trai mang vợ về, bà cảm thấy bất ngờ và bối rối.
Khi thấy con trai 'dũng cảm' đón vợ về, bà cảm thấy bất ngờ và ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên càng tăng lên khi bà nhìn vào nhà, thấy một người phụ nữ khác đang 'đứng đầu giường con bà' và 'chào bà bằng u'. Bà lão 'ngừng lại', vẻ lo lắng hiện lên trong ánh mắt già. Sự bối rối và ngạc nhiên bao trùm lấy bà, bà cảm thấy rất nản lòng.
Khi con trai giải thích, bà cúi đầu im lặng. Trong lòng mẹ, Kim Lân đã tài tình dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già, để người đọc cảm nhận những thay đổi đang diễn ra trong tâm hồn người phụ nữ ấy. Bà cúi đầu im lặng, nhưng trong lòng đã hiểu, 'bà hiểu rồi'. Bà hiểu rằng con trai bây giờ đã có gia đình, có người khác để bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa hoàn cảnh khốn khó như thế thì sao?
Có lẽ, người phụ nữ đáng thương đã khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt nước mắt lần này lại khác biệt. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ 'giọt nước mắt lưng tròng'. Giọt nước mắt ấy 'vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của mẹ'. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nuối nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bấy nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà thương tiếc cho số phận đáng thương của mình cả đời. 'Ôi chao, người ta cưới gả con cái là khi trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự im lặng trong suy nghĩ của bà là sự tủi thân. Cả đời bà vất vả mà không làm được gì cho con, thấy thương con vì không lo được lấy chồng. Đến nay, khi các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại 'ngậm ngùi nhìn người phụ nữ ấy', bà chợt thấy thương người phụ nữ này. Người đàn bà tội nghiệp đã phải đi qua 'bước khó khăn, đói khổ này mới bám vào con mình'. Bà thông cảm cho cô ấy, thông cảm cho sự bất đắc dĩ của cô ấy, trái tim bà đầy thương hại cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ vậy thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ thương con và thương những người cùng cảnh ngộ như mình. Bà cụ Tứ không chỉ thông cảm mà còn thấu hiểu nỗi lòng của người phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu. Cuối cùng, bà cảm thấy sung sướng vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà mở lòng với nàng dâu mới 'thôi thì hai đứa có duyên mà sống với nhau thì cũng vui'. Và bà chỉ mong 'làm được mấy mâm cơm cũng được' để mừng con dâu mới vào nhà, nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong 'con dâu hạnh phúc'. Đó là tấm lòng của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với niềm vui của việc có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn cùng chạm tới tận cùng. Bởi Tràng và Thị đến với nhau trong hoàn cảnh 'người chết như ngả rạ', những đứa con còn sống 'xám xanh như ngả rạ'.
Họ đến với nhau là niềm hạnh phúc, nhưng cũng là 'nhận nợ đời'. Từ khi biết họ lấy nhau, bà cụ đã rơi nước mắt và tự hỏi: 'Liệu họ có nuôi được nhau qua cơn khốn khó này không?', những năm tháng ấy tưởng chừng như là một niềm vui tuyệt vời, nhưng cũng xen lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu: 'bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước không?'.
Tâm trạng của bà cụ Tứ thay đổi khi biết Tràng 'nhặt Thị' về làm vợ. Nó chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên đến thương cảm, từ hạnh phúc đến lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng yêu thương con của một người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng với con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà cụ vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà không chỉ thay đổi trong buổi tối hôm đó mà còn vào sáng hôm sau khi cô trở thành con dâu của bà. Nếu trước đây, gương mặt bà 'đìu hiu, ảm đạm' thì hôm nay, gương mặt bà 'nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường', 'sáng rỡ hơn hẳn'. Có lẽ một tia hy vọng mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có 'mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo' nhưng cả gia đình ba người 'ăn rất ngon'. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng trong lòng mỗi người lại tràn ngập niềm vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà Tứ trước kia uể oải như vậy, bây giờ sắc mặt rất khác. Bà nói 'hết chuyện vui, tính chuyện vui tính sau'. Đó là trái tim lạc quan, yêu đời, ham sống của người mẹ già muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đầy đủ hơn.
Bà cụ Tứ là một nhân vật dù ít xuất hiện trong tác phẩm nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người đọc. Qua những biến động tâm trạng của bà, ta nhận thấy tấm lòng của người mẹ già trong hoàn cảnh khó khăn vẫn yêu thương con, luôn truyền niềm sống lạc quan và niềm tin vào cuộc sống cho con. Đồng thời, ta cũng nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái, sẵn sàng chia sẻ nguồn sống của mình trong những thời điểm khó khăn nhất.
Kim Lân đã thành công vô cùng khi miêu tả các biến động tâm lí của bà cụ Tứ. Cách nhà văn diễn tả các giai đoạn tâm lý phức tạp của bà là rất chân thực và hợp lý. Dường như tác giả đã đặt mình vào vai người mẹ ấy để cảm nhận những xúc cảm sâu sắc nhất trong lòng bà!
Vợ Nhặt là một tác phẩm hiện thực xuất sắc, phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Dù đối diện với nạn đói khủng khiếp, nhưng trong những con người như cụ Tứ, Tràng và người vợ nhặt vẫn tồn tại một vẻ đẹp tiềm ẩn đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình yêu và sức sống mãnh liệt.
Phân tích về bà cụ Tứ - Mẫu 6
Vợ Nhặt là một tác phẩm hoàn hảo của Kim Lân, mô tả cuộc sống ngột ngạt của dân chúng trong nạn đói năm 1945. Đây là một truyện ngắn được viết dựa trên tiểu thuyết 'xóm ngụ cư' sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị dang dở. Sau khi hòa bình được thiết lập (năm 1954), Kim Lân sử dụng một phần cốt truyện cũ để viết lại tác phẩm này. Với 'Vợ Nhặt', Kim Lân đã thành công trong việc sâu sắc phân tích các biến động tâm lý của nhân vật, đặc biệt là bà cụ Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ được giới thiệu là một người mẹ nghèo khổ, sống cùng với đứa con trai chịu nhiều thiệt thòi, tình cảnh của mẹ con bà đặc biệt đáng thương trong năm đói năm 1945. Nạn đói đã đến với khu ổ chuột này và thâm nhập vào nhà của bà. Tác giả thể hiện rõ sự tàn khốc của nạn đói, với những đàn quạ đen bay trên trời, tiếng kêu của chúng, những bóng người đói dạt dào dưới gốc đa và gốc gạo, không khí đầy mùi ẩm mốc và mùi xác người, tạo nên một bầu không khí u ám và thê lương. Loại nạn đói này như chạm tới mọi nhà, đem cảnh chết chóc vào từng góc nhỏ, mang bóng tối của cái chết vào cuộc sống. Trong bối cảnh đói khát ấy, Tràng lại quyết định cưới vợ.
Con trai của bà, anh cu Tràng được biết đến là một người xấu xí, nghèo khó, sống trong một khu ổ chuột và chưa bao giờ nghĩ sẽ có vợ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khốc liệt của nạn đói, những lời tỏ tình của anh lại mang đến một niềm vui, một cảm giác hạnh phúc. Thị, người phụ nữ sẵn sàng trở thành vợ của Tràng, khiến cho cả làng ngạc nhiên, đặc biệt là bà cụ Tứ. Bà không thể tin rằng con mình, trong hoàn cảnh nghèo khó như vậy, lại có vợ.
Bà cụ Tứ bất ngờ và sửng sốt khi về nhà muộn và thấy một người phụ nữ ngồi ở giường con trai mình. Bà càng bất ngờ hơn khi nghe Tràng giới thiệu: “Đây là vợ tôi”. Bà không tin vào điều mình thấy và nghe, nhưng sau đó bà lại xót xa cho số phận của con trai mình, nhớ đến chồng đã mất và con gái đã qua đời, cảm thấy nặng trĩu trong lòng.
Bà cụ Tứ vui mừng nhưng đồng thời lo lắng cho con trong thời điểm gia đình yên bề, mẹ không lo vợ cho con. Giờ đây, giữa cảnh đói khát, Tràng lại mang vợ về. Bà cảm thấy xót xa vì số phận của con trai, đau lòng cho con dâu, đồng thời cảm thấy buồn bã vì bản thân không thể giúp gì được.
Trong bối cảnh khốc liệt, bà cụ Tứ cố gắng giữ vui vẻ và tươi sáng, truyền cảm hứng cho con và con dâu. Bà kể chuyện vui, nhắc nhở về tương lai, về tình yêu gia đình và hy vọng vào cuộc sống mới. Bà tin rằng sẽ có những điều tốt đẹp hơn trong tương lai dù hiện tại đang rất khó khăn.
Nhà văn đã khéo léo miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ, nhận ra sự thân thuộc của tâm lý người cao tuổi. Trong những lúc khó khăn, bà luôn nghĩ về tương lai tươi đẹp, và khi ánh đèn sáng lên trong nhà, bà đã rơi nước mắt, tin rằng cuộc sống sẽ đẹp hơn với con trai và gia đình.
Bà cụ Tứ là nguồn cảm hứng mới của tác phẩm, một người mẹ luôn tưởng tượng về những điều tốt đẹp cho con mình, hướng tới một cuộc sống hạnh phúc và tươi đẹp hơn trong tương lai.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 7
Vợ Nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, đặc biệt là với hình ảnh bà cụ Tứ, người mẹ nông dân Việt Nam trước năm 1945. Tác phẩm này tập trung vào tâm trạng nhân vật để thể hiện tài năng của tác giả trong miêu tả tâm lý.
Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được phác họa bằng vài chi tiết nhưng đã đủ để người đọc hình dung về một người mẹ lao động nông dân, vất vả với cuộc sống nghèo khó.
Tác giả tập trung sâu vào miêu tả tâm lý của bà cụ Tứ, đặc biệt là vào hai thời điểm: khi cô con dâu về nhà vào buổi tối và vào buổi sáng hôm sau. Qua những khoảnh khắc đó, Kim Lân đã thể hiện tài năng xuất sắc trong miêu tả tâm lý nhân vật.
Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà mong con trai bà đợi chờ bà như vậy. Sự ngạc nhiên này gợi lên những cảm xúc rối bời khi bà theo anh con Tràng vào nhà và thấy một người phụ nữ lạ ngồi trong nhà. Khi đó, sự ngạc nhiên của bà đạt đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Tại sao lại có người phụ nữ ngồi trong nhà thế này nhỉ? Người phụ nữ nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình? Sao lại chào mình bằng u?”. Sự ngạc nhiên và sự ngỡ ngàng đến mức bà không thể tin vào mắt mình, phải dụi mắt để không rơi nước mắt.
Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng của bà trở nên ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, bà dành tình yêu sâu sắc cho con. Bà hiểu rằng người ta chỉ nên lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống ổn định, nhưng con bà lại lấy vợ trong thời điểm nạn đói diễn ra ác liệt nhất. Bà đau xót cho phận người mẹ nghèo không thể hoàn thành trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn vào trong sự im lặng. Sau tình yêu thương, bà chuyển sang xót xa, lo lắng: “Liệu họ có thể nuôi sống nhau qua cơn khốn khó này không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lý. Từ tình yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ đã chuyển sang người vợ mới. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu biết về đám cưới vội vàng của người con dâu, bà nhìn cô con dâu với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Chỉ khi gặp khó khăn, nghèo khổ như thế này, người ta mới lấy vợ cho con. Và chỉ khi có con mới có được vợ”. Bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp phải số phận bất hạnh, khó khăn.
Dù trong lòng chất chứa nỗi xót xa, nhưng bà luôn nói những điều vui vẻ, hạnh phúc với cô con dâu mới: “Ừ, thôi thì các con đã được duyên phận, kiếp nối nhau, cũng mừng lòng”. Câu nói không chỉ xóa bỏ sự ngượng ngùng của con dâu mà còn là sự chào đón ấm áp, nhân từ của bà đối với thành viên mới trong gia đình. Dù nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về nạn đói, cái chết vẫn quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới riêng của mình, bà vẫn không ngừng lo lắng, xót xa và không thể kìm nén nước mắt chảy ròng ròng.
Vào buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục khai thác sâu sắc tâm lí của bà cụ Tứ, đặc biệt là niềm tin và khát vọng vào tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô con dâu, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng cảm nhận thấy người mẹ của mình đã thay đổi hoàn toàn, không còn là sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhàng, tươi vui. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng mang ý nghĩa lớn, thể hiện sự vun đắp, chăm sóc của người mẹ dành cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Để tạo niềm tin và hy vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói, bà cụ luôn kể những câu chuyện vui vẻ và hạnh phúc về những ngày sắp tới. Bằng cách tính toán và ngoảnh đi ngoảnh lại, bà đã có đàn gà, giúp đôi vợ chồng có niềm tin vào cuộc sống. Tuy nhiên, hiện thực là chỉ có nồi cháo vàng cốm đủ cho mỗi người ăn hai lưng. Để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới bổ sung thêm nồi cháo cám. Khi bưng nồi cháo cám ra, bà vô cùng đáng thương, cố gắng giấu bớt nỗi khó khăn bằng cách lấy những lời vui vẻ, phấn khởi.
Không phải tình cờ mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại chọn một bà cụ gần như đã gần gũi với đất trời để nói về tương lai và những điều tốt đẹp. Đây cũng là lời nhắn nhủ của tác giả: Hãy giữ niềm tin và hy vọng dù cho hoàn cảnh có khó khăn ra sao. Đồng thời, đó cũng là sự ca ngợi của tác giả về sức mạnh, lòng bao dung và nhân từ của người phụ nữ Việt Nam. Bà cụ Tứ được xem như điểm nhấn của tác phẩm, thể hiện sự quan trọng của giá trị nhân đạo.
Với nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, Kim Lân đã khai thác sâu về vẻ đẹp tâm hồn, lòng nhân hậu của bà cụ Tứ đối với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ là hình ảnh đại diện của hàng triệu bà mẹ Việt Nam, với sự nhân văn sâu sắc của Kim Lân.
..............
Tải file về để xem thêm bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ