Phân tích thực tiễn cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh bao gồm 5 bài văn mẫu kèm theo gợi ý cách viết ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Giúp học sinh lớp 12 tự học, mở rộng kiến thức và rèn luyện kĩ năng văn ngày càng tốt hơn.
TOP 5 mẫu Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn Độc lập siêu chất dưới đây. Mong rằng tài liệu này sẽ đồng hành cùng bạn trong học tập và ôn thi THPT Quốc gia.
Dàn ý phân tích thực tiễn cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu nội dung của 'Tuyên ngôn độc lập' của Hồ Chí Minh.
II. Nội dung chính:
- Hồ Chí Minh đã chỉ trích các tội ác của thực dân Pháp:
- Tội ác diệt chủng, giết chết hơn hai triệu đồng bào ta vì nạn đói.
- Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật.
- Phản bội quân đồng minh, giao Đông Dương cho Nhật hai lần.
- Khi bỏ trốn, chúng tiếp tục giết hại các chiến sĩ cách mạng của ta trong tù.
- Hồ Chí Minh xác nhận truyền thống chiến đấu của dân tộc:
- Tuyên bố hoàn toàn giải phóng quốc gia khỏi sự chi phối của Pháp.
- Hủy bỏ mọi hiệp định Pháp đã ký liên quan đến Việt Nam.
- Loại bỏ sự ảnh hưởng đặc quyền của Pháp tại quê hương chúng ta.
- Ông nhấn mạnh tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc chiến chống lại kẻ thù.
- Ông đề xuất lập luận và yêu cầu các quốc gia trên thế giới phải công nhận độc lập của Việt Nam.
- Nghệ thuật: Tư duy mạnh mẽ, luận điệu sắc bén, thuyết phục.
III. Kết luận:
- Xác nhận quyền tự do, độc lập của quốc gia chúng ta.
Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn Độc lập - Mẫu 1
Bác Hồ, người lãnh đạo vĩ đại của Việt Nam, là biểu tượng văn hóa quốc tế, để lại một di sản văn học quý báu cho quê hương. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một trong những tác phẩm đó. Soạn vào ngày 26/8/1945 tại địa chỉ 48 Hàng Ngang, bản Tuyên ngôn được đọc tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn gồm ba phần: cơ sở pháp lý - cơ sở thực tiễn - khẳng định.
Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của thực dân và lập trường chính nghĩa của chúng ta. Để tố cáo bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Bác Hồ đã dùng lời nói sắc sảo. Bác đã lật ngược lại vấn đề: 'thế mà hơn 80 năm nay'. Bác đã vạch trần luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, giáng đòn mạnh mẽ về phía chúng. Tội ác của thực dân được vạch trần trên các khía cạnh: chính trị-văn hóa, kinh tế. 'Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của chúng ta.
Chúng tắm dòng máu của cuộc khởi nghĩa của chúng ta; thực hiện chính sách đàn áp; sử dụng rượu cồn và ma túy để làm cho dân ta suy nhược. Thực dân Pháp nói về việc khai hóa, văn minh, tự do, bình đẳng, nhưng lại thực hiện ngược lại. Tất cả những tội ác trên đã cho thấy sự bất lương, dối trá của chúng. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, làm cho dân ta nghèo khó, nước ta suy thoái. Chúng chiếm đất ruộng, mỏ, nguyên liệu. Chúng kiểm soát độc quyền việc in tiền, xuất nhập khẩu.
Chúng đặt ra hàng trăm loại thuế vô lý, làm cho dân ta, đặc biệt là dân nông dân và dân buôn trở nên nghèo khó. Chúng không cho các doanh nhân Việt Nam phát triển. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Để làm rõ tội ác chồng chất của chúng, Người đã sử dụng phương pháp lặp lại cấu trúc câu kết hợp liệt kê. Lời văn đanh thép của Người thể hiện sự căm ghét khiến người đọc, người nghe nổi điên lên với sự tức giận. Đặc biệt là hình ảnh 'tắm trong dòng máu của cuộc khởi nghĩa của chúng ta'. Hình ảnh này có sức mạnh kinh khủng gợi lên sự tàn bạo.
Tuy vậy, tội ác của chúng vẫn chưa kết thúc. Trong năm năm đó, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Mùa thu năm 1940, khi Nhật xâm nhập Đông Dương, Pháp đã đầu hàng. Từ đó, dân ta lại chịu hai lần áp bức từ cả Pháp và Nhật, khiến hơn hai triệu người chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Chúng còn đàn áp, khủng bố Việt Minh ta. Tội ác của chúng đã khiến dân ta phải chịu đựng đau khổ. Ta luôn giữ lập trường chính nghĩa của mình, với lòng nhân đạo và khoan dung. Thực tế là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, dân ta đã nổi dậy giành lại quyền lực. Pháp bỏ chạy, Nhật rút lui, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ những xiềng xích của thực dân suốt hơn 100 năm để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Với lối diễn đạt sắc bén, sử dụng nhiều từ khẳng định như 'sự thật là...', Người đã thành công trong việc làm rõ lập trường chính nghĩa của ta, sự bất công của Pháp, và quyền tự do độc lập của ta như một điều tất yếu.
Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên và quan trọng nhất là một tài liệu lịch sử. Đó là tài liệu quan trọng nhất của dân tộc ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, hàng triệu người dân và đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chiến đấu chống lại Pháp. Tuyên ngôn Độc lập đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử, kết thúc thời kỳ mất nước, thời kỳ dân ta sống trong cảnh nô lệ, và mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ của độc lập và tự do.
Phân tích cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn Độc lập - Mẫu 2
Ngày 2.9.1945 là một sự kiện quan trọng không thể phai nhạt trong lịch sử dân tộc, vẫn đọng mãi trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hơn tám mươi năm đã trôi qua, nhưng mỗi khi nhìn lại những hình ảnh tư liệu, chúng ta vẫn cảm thấy như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình trong ngày ấy, cảm giác xúc động, vui mừng, tự hào khi nghe giọng Bác trầm ấm: 'Tôi nói đồng bào nghe rõ không?' khi đọc Tuyên ngôn Độc lập - một tài liệu lịch sử đặc biệt, một bài diễn thuyết bất hủ. Toàn bộ Tuyên ngôn Độc lập không dài, chỉ khoảng một ngàn từ, nhưng rất súc tích và chặt chẽ. Bản tuyên ngôn chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần truyền đạt một ý nghĩa, liên kết mạch lạc.
Sau phần mở đầu, phần thứ hai đưa ra một liệt kê ngắn gọn và đầy đủ về những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong hơn một thế kỷ đô hộ. Đầu tiên, chúng tước đoạt tự do chính trị, 'tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào'. Tiếp theo là 'chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết...' Tất cả những câu này đã nêu bật bản chất xâm lược. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách ngu dân, tiêu diệt văn hoá, chính là muốn diệt trừ bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc bằng cách 'lập ra nhà tù nhiều hơn trường học'.
Chúng bạo ngược và tàn bạo đối xử với những người yêu nước, 'đắm mình trong những cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những dòng máu', cướp đoạt một cách trắng trợn và bất công quyền lợi quý báu nhất của con người: quyền sống. Đó là bản chất thực sự của việc mở rộng văn minh, gọi là sự giáo dục cho những người dân bản địa mông muội. Chúng còn 'bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ... cướp đoạt ruộng đất, mỏ, và nguyên liệu... đặt ra hàng trăm loại thuế không lý do, khiến cho dân ta trở nên đói cùng... chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn'. Hành động của chúng thật vô nhân đạo và phi chính nghĩa. Thêm vào đó, khi bị Nhật chiếm lãnh thì chúng đã bỏ chạy, đầu hàng, bán nước hai lần cho Nhật. Đó là bản chất của việc bảo hộ của chúng, sự thật lịch sử đã lên án bản chất đáng ghét, nhút nhát của bọn xâm lược.
Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả đã phá hủy chiêu bài 'mở rộng, bảo hộ' giả dối bịp bợm mà chúng dùng để che giấu những hành động xấu xa độc ác. Tác giả liên tục sử dụng những từ như cao quý: chúng, tuyệt đối không cho, tàn bạo, trực tiếp giết hại, đắm... trong những dòng máu, bóc lột đến tận xương tuỷ.... ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, kích thích, thể hiện sự căm phẫn sâu sắc trước những tội ác đáng sợ ấy. Từ ngữ của chúng xuất hiện nhiều, lồng trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những cú đánh thẳng vào bản chất lấp lánh của bọn thực dân vẫn trổ ra từ lâu, tạo ra những động lực mạnh mẽ, nhấn mạnh và lặp đi lặp lại, như một hình phạt ghi nhớ, như một phán quyết tội ác đồng thời thể hiện sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Ngược lại với những hành động phi nhân đạo đó của thực dân Pháp, cuộc đấu tranh đầy nhân đạo và chính nghĩa của nhân dân ta.
Từ những hành động tàn bạo của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết nhân chính trị, tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, khoan hồng của quân và dân ta: giúp nhiều người Pháp vượt qua biên giới, giải cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà tù Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Thông điệp Sự thật là... đã khẳng định chiến thắng của chúng ta: chúng ta đã giành lại đất nước từ tay Nhật, đất nước mà thực dân Pháp đã chiếm và sau đó bán cho phát xít Nhật. Chúng ta đã chiến đấu chống lại phát xít, đứng về phe phái dân chủ chống lại phát xít, đồng thời có vị thế và tầm quan trọng xứng đáng trước thế giới do sức mạnh tự lập tự chủ của dân tộc.
Do đó, các quốc gia tiên tiến trên thế giới phải ủng hộ quyền tự do và độc lập của dân tộc ta một cách công bằng. Tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một tiếng reo hân hoan. Câu này cũng là một minh chứng cho phong cách văn phong của Hồ Chí Minh, ngắn gọn nhưng mạnh mẽ, giàu ý nghĩa. Tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia mới mẻ nhưng đã phải trải qua nhiều đau thương, tác giả đã rất mạnh mẽ và rõ ràng khi sử dụng những cụm từ gọn gàng, bỏ đi tất cả, Xóa hết để nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi quan hệ phụ thuộc với Pháp, để đất nước này đứng dậy trong sự tự do hoàn toàn, xây dựng một chế độ mới.
Tự do mà chúng ta vừa giành được có giá trị vô cùng quý báu. Để đạt được nó, nhân dân ta đã phải trả giá bằng bao nhiêu nỗ lực, bao nhiêu nước mắt và tấm lòng hiến dâng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều mối thù ngoài lưng mà lúc này đang cố gắng làm chết chúng ta, quê hương Việt Nam mới nở. Nhận thức được điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự đại diện cho nhân dân bằng cách tuyên bố quan trọng và quyết liệt: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam cam kết sẽ dùng tất cả tinh thần, sức mạnh, cả tính mạng và của cải để bảo vệ sự tự do và độc lập ấy”. Đó là tinh thần của một dân tộc anh hùng quyết tâm hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp lại ba lần, như một cách để khắc sâu vào tâm trí của hàng triệu dân Việt, phát ra mạnh mẽ và xao động như tiếng kèn chiến trường hùng vĩ. Tuyên bố nghe như một lời thề kiên cường và thiêng liêng, không chỉ truyền động lực cho nhân dân mà còn cảnh báo kẻ thù.
Đây là bản Tuyên bố độc lập lần đầu tiên công bố với thế giới về việc thành lập một quốc gia mới, mở ra một thời kỳ mới, một thời kỳ độc lập và tự do cho một dân tộc kiên cường không khuất phục. Nó là dấu mốc quan trọng đánh dấu chiến thắng đầu tiên của một quốc gia ở châu Á. Bản Tuyên bố cũng là một ví dụ xuất sắc về văn chương luận, với những lập luận logic và những lập luận chặt chẽ, với từ ngữ và hình ảnh sâu sắc, chính xác và mạnh mẽ. Với câu văn ngắn gọn nhưng lên án mạnh mẽ, cũng như động viên và kêu gọi lòng dũng cảm của nhân dân và sự ủng hộ quốc tế. Có thể khẳng định rằng, Tuyên bố độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những giá trị lịch sử của dân tộc mà còn phản ánh đúng với thời đại. Bản tuyên bố cũng mang tính lịch sử và văn học. Do đó, nó sẽ mãi là một tác phẩm văn học bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người con Việt Nam yêu nước.
Phân tích cơ sở thực tế của Tuyên bố Độc lập - Mẫu 3
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được hình thành khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên bố Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình trước hàng triệu đồng bào. Trong phần đầu của tác phẩm, Hồ Chí Minh sử dụng bản 'Tuyên bố Độc lập' của Mỹ và bản 'Tuyên bố Nhân quyền và Dân quyền' của Pháp như là cơ sở pháp lý, và ở phần hai, ông đã bày tỏ cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn.
Cơ sở đó xuất phát từ việc Hồ Chí Minh chỉ trích những tội ác của thực dân Pháp. Ông đã liệt kê những hành động mà họ đã thực hiện đối với dân tộc chúng ta. Những hành động này luôn đi ngược lại với công lý và lòng nhân đạo. Thực dân Pháp đã lợi dụng 'cờ tự do, bình đẳng, và nhân ái' để áp đặt dân tộc ta, chiếm đóng lãnh thổ của chúng ta trong suốt hơn tám mươi năm qua. Chính sách cai trị của họ cực kỳ tàn ác và dã man.
Về mặt chính trị, họ 'tuyệt đối không cho phép dân tộc ta có bất kỳ tự do dân chủ nào', số lượng nhà tù hơn cả trường học'. Họ 'trực tiếp giết hại' những người con yêu nước của chúng ta. Họ 'thực hiện chính sách ngu dân', làm cho dân tộc ta suy nhược bằng thuốc phiện và rượu cồn. Thực dân Pháp độc ác khi thiết lập ba chế độ chính trị khác nhau ở ba miền để ngăn cản việc thống nhất của quốc gia và phá vỡ sự đoàn kết của dân tộc ta.
Về mặt kinh tế, chúng đã 'bóc lột dân ta đến tận xương tủy', 'cướp không chỉ ruộng đất, mỏ và nguyên liệu', áp đặt vô số loại thuế vô lý, khiến dân ta rơi vào cảnh khốn khổ, nghèo đói. Điều độc ác nhất là họ gây ra nạn đói năm 1945, giết chết hơn hai triệu đồng bào ta. Những thủ đoạn của họ vô cùng tàn ác, bộc lộ bản chất không nhân đạo. Đó là tội ác diệt chủng. Họ muốn xóa sổ nước ta khỏi bản đồ thế giới, muốn tiêu diệt toàn bộ chúng ta để dễ dàng xâm chiếm và thống trị. Chỉ trong vòng năm năm mà 'họ bán nước ta hai lần cho Nhật' nhưng lại công nhận 'bảo hộ', 'khai hóa'. Hơn nữa, họ còn tuyên bố rằng Đông Dương là thuộc địa của mình, trong khi sự thực là họ đã đầu hàng Nhật, biến Đông Dương thành thuộc địa của Nhật và dân ta đã giành lại tự do và độc lập từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ phát xít Pháp. Họ không chỉ khủng bố Việt Minh mà còn 'thậm chí khi thua cuộc, họ còn tàn bạo giết hại toàn bộ tù nhân chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng'. Thủ đoạn của họ không chỉ tàn ác mà còn đê tiện và tội lỗi. Tuy vậy, bằng lòng nhân đạo của mình, 'sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp nhiều người Pháp chạy qua biên giới, cứu nhiều người Pháp khỏi nhà tù Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ'. Dân ta luôn cao quý lá cờ công bằng và 'vẫn duy trì thái độ khoan dung' với kẻ thù của mình. Trái lại, thực dân Pháp tàn bạo, không nhân đạo, cuộc chiến mà họ gây ra cho dân tộc ta là một cuộc chiến phi nhân đạo. Họ phản bội Đồng minh, cộng tác với phát xít để mở rộng chương trình xâm lược thuộc địa. Các từ ngữ 'tuyệt đối không cho phép', 'dã man', 'thẳng tay chém giết', 'tắm', 'bể máu', 'bóc lột đến tận xương tủy'... đã thể hiện sự phẫn nộ của tác giả trước những tội ác của họ.
Qua việc phơi bày bản chất của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định tinh thần chiến đấu và truyền thống đoàn kết của dân tộc. Ông tuyên bố 'thoát ly hoàn toàn khỏi quan hệ thực dân với Pháp, hủy bỏ toàn bộ các hiệp ước mà Pháp đã ký với nước Việt Nam, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam'. Chúng ta đã 'lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ Pháp'. Vì vậy, quốc gia của chúng ta không còn có bất kỳ liên kết nào với thực dân Pháp nữa. Chúng ta 'quyết tâm chống lại mưu đồ của họ' và chúng ta cũng quyết tâm chiến thắng để giành lại độc lập và tự do cho dân tộc. Với những bằng chứng và lập luận thuyết phục đó, các quốc gia Đồng minh không thể không công nhận độc lập của quốc gia chúng ta. Hồ Chí Minh đã khẳng định: 'Một dân tộc đã dũng cảm chống lại sự áp bức của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh chống lại phát xít trong nhiều năm, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập'! Từ cơ sở thực tế là những tội ác của thực dân Pháp, ông đã tuyên bố với toàn thế giới rằng: 'Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một quốc gia tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết định sẽ đưa tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và tài sản của mình để giữ lấy quyền tự do và độc lập đó'.
Với tinh thần hùng hồn, kiên định cùng với những bằng chứng thuyết phục và lập luận chặt chẽ, cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn cũng như toàn bộ tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đã xác định rõ ràng rằng nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và tự do. Tác phẩm này cũng thể hiện rõ phong cách chính trị của ông.
Phân tích cơ sở thực tế của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 4
Trong lịch sử văn học và lịch sử dựng nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, mọi người đều đồng lòng rằng “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện lịch sử quý giá mà còn là một mẫu mực của văn chính trị. Phần phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế cho bản tuyên ngôn là minh chứng tiêu biểu cho mẫu mực của nghệ thuật lập luận đó.
Trong phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trình bày những cơ sở pháp lý cho tuyên ngôn. Ông đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ nói: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” năm 1791 cũng nói: “Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Cả hai bản tuyên ngôn này đều khẳng định lẽ phải về quyền con người. Đây là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới thế kỉ XVIII - di sản tư tưởng của nhân loại. Từ lẽ phải về quyền con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc: “Nếu suy rộng, điều đó có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Tác giả đã giúp thế giới nhận thức rằng dù da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng, mọi người đều bình đẳng vì họ đều là con người. Cách lập luận của Hồ Chí Minh rất khôn ngoan khi ông sử dụng lời của Pháp và Mỹ để nói với họ. Trong tranh luận không gì thú vị hơn là sử dụng chính lời của đối phương để bác bỏ họ, khiến họ trở nên ngượng ngùng. Ông đã sử dụng cây gậy của độc lập để đánh vào lưng những kẻ xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng loại mà vẫn rêu rao về quyền tự do, bình đẳng.
Dẫn lời của Mỹ và Pháp ở đầu bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự trân trọng, đánh giá cao những tuyên ngôn về lẽ phải… từ đó thu hút được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới, đặc biệt là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Hơn nữa, ông đã một cách gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn lên một tầm cao, ba nền độc lập ngang bằng nhau để thể hiện niềm tự hào dân tộc. Cách lập luận này còn rất quả quyết khi mượn lời của Pháp và Mỹ, ông đã ngầm cảnh báo với các thực dân rằng: Nếu họ tiếp tục xâm lược Việt Nam, họ đang phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vấy bẩn lên lá cờ tự do bình đẳng mà cha ông đã từng giương cao. Hành động phi nghĩa này sẽ dẫn đến kết cục bi thảm. Phần mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập thật chặt chẽ, thuyết phục và sáng tạo. Đoạn văn mở đầu vô cùng ngắn gọn, súc tích: chỉ có hai câu trích dẫn, một bình luận suy rộng, một khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật cơ sở pháp lý vững chắc về quyền sống, quyền tự do dân tộc, tiêu biểu cho vẻ đẹp mẫu mực của văn chính luận Hồ Chí Minh. Nó như một phát súng thổi bùng lên phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa trên thế giới.
Phần hai của bản tuyên ngôn làm nổi bật những cơ sở thực tiễn cho lời tuyên bố độc lập. Trước hết, Hồ Chí Minh đã tạo ra một bản cáo trạng về những tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của họ. Pháp sử dụng chiêu bài của họ về công lao “khai hóa” ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng để hợp pháp hóa việc quay trở lại Đông Dương và Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác về cả chính trị lẫn kinh tế để phá hủy những lời nói dối, những thủ đoạn lừa bịp ấy: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không ban cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng áp đặt những luật pháp tàn ác… khiến cho dân ta suy nhược”. Còn về mặt kinh tế, chúng đã “vặt sạch máu mủ của dân ta… tàn nhẫn nhằn nhục công nhân”.
Pháp nói về công lao “bảo hộ” Việt Nam, nhưng Hồ Chí Minh đã lên án những tội ác về mặt quân sự để phủ nhận “công lao” đó của chúng: khi bọn xâm lược Nhật tấn công Đông Dương, thực dân Pháp đã “đầu hàng mở cửa nước ta để Nhật xâm lăng” và chỉ trong hai năm, Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Khi bị đánh bại, bị tước quân trang bởi Nhật, chúng đã tàn nhẫn giết hết số lượng lớn tù chính trị tại Cao Bằng. Với những lập luận vững chắc, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thực tế, ta cảm nhận được Hồ Chí Minh đang đảo ngược lịch sử để trở lại những sự kiện chân thực mà đối phương không thể phủ nhận suốt 80 năm nô dịch Việt Nam. Những tội ác đó đã khiến hai triệu đồng bào ta chết đói, 95% dân số mù chữ,…
Ngôn ngữ và hình ảnh nghệ thuật được ông sử dụng vừa đúng vừa sâu sắc: “chúng ngâm ngợi cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những dòng máu”. Câu này thể hiện sự tàn ác của kẻ thù, hành động áp bức được mô tả bằng từ “ngâm ngợi” đã cho thấy mặt đen tối của bọn thực dân tàn bạo, hung ác, đồng thời mô tả được nỗi đau đớn của dân chúng mất nước đang chịu đựng trong những “dòng máu” đau khổ. Phong cách nghệ thuật và kiểu câu điệp từ cũng được sử dụng một cách sắc bén. Những câu mở đầu với từ “chúng” nặng như gong đập vào đầu kẻ thù và gợi nhớ trong lòng ta nỗi đau xót xa. Sự kết hợp giữa việc liệt kê và những động từ mạnh mẽ đã trình bày một cách rõ ràng hàng loạt những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ nông dân đến thương gia, công nhân đến tư sản. Đó là những tội ác mà “Trúc Lam Sơn không kể hết tội/ Nước Đông Hải không giặt sạch mùi” (Nguyễn Trãi).
Không chỉ thế, bản tuyên ngôn còn phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định vị thế chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không chỉ có quyền hưởng tự do độc lập mà còn thực sự đã giành được quyền tự do độc lập. Đầu tiên, nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Trong suốt thời gian qua, Việt Nam đã là nạn nhân của sự xâm lược, trong khi Pháp là kẻ thù xâm lược. Nếu thực dân Pháp đã tảo tần, phản bội liên minh, giao nước Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã dũng cảm ủng hộ liên minh chống phát xít. Nếu thực dân Pháp tàn nhẫn, phản bội, vô nhân đạo thì chúng ta luôn tỏ ra nhân từ, nhân đạo: “giúp nhiều người Pháp vượt biên, lại cứu nhiều người Pháp khỏi nhà tù Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó là những hành động cao quý, những hành động nhân đạo xứng đáng với truyền thống cao quý của dân tộc:
“Mang đạo nghĩa để chinh phạt hung tàn
Dùng lòng nhân để thay thế bạo lực”
(Bình Ngô đại cáo).
Ngoài ra, Việt Nam đã thực sự đoạt được quyền tự do, độc lập. Chúng ta không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán chúng ta cho Nhật. Sau đó, trong Cách mạng tháng tám, nhân dân ta đã giành lại chính quyền từ tay Nhật, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều đó là hậu quả tự nhiên của cuộc đấu tranh kiên trì với những hy sinh đầy xương máu. Câu “Pháp bỏ chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị…” tổng hợp gần một nghìn năm lịch sử trong chín chữ ngắn gọn, vạm vỡ. Ngôn từ và cấu trúc câu “sự thật là…” thể hiện một cách rõ ràng sự thật và chân lý. Các dẫn chứng xác thực tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi thảm, vĩ đại của dân tộc.
Nêu ra cơ sở pháp lý và thực tiễn để lập luận cho bản tuyên ngôn độc lập là một công việc không dễ dàng, nhưng Hồ Chí Minh đã làm điều đó một cách thông minh, thuyết phục bằng cách sử dụng lập luận trí tuệ và sắc sảo. Bản tuyên ngôn đã chứng minh rằng đó là một tác phẩm văn chính luận mẫu mực, thể hiện tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Phân tích cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc. Bản Tuyên ngôn độc lập, công bố vào ngày 02/9/1945, là một tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản tuyên ngôn ngắn gọn nhưng chứa đựng những ý tưởng vĩ đại, có cơ sở thực tế.
Cơ sở thực tế: Xác định thời điểm lịch sử, nêu rõ sự phi nghĩa của thực dân Pháp (chính trị: thâm độc; kinh tế: dã man; bản chất: đè tiện); cao cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam (chiến đấu dũng cảm, nhân đạo). Sự thật lịch sử: Kết quả của Cách mạng tháng Tám -1945 là thực tế độc lập của nước Việt Nam khẳng định sự thật độc lập.
(...) Vào thời điểm lịch sử khi bản Tuyên ngôn được công bố, chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đang bị đe dọa bởi nguy cơ xâm lược của Mỹ và thực dân Pháp. Để chống lại nguy cơ đó, cần một cuộc chiến đấu vũ trang của toàn dân tộc, nhưng đồng thời cũng cần thời gian để chuẩn bị, cần sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Do đó, việc xây dựng cơ sở pháp lý chỉ là một phần, cần phải dựa vào sự thực tế để chứng minh sự phi nghĩa của thực dân và cao cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Dựa vào chứng cứ cụ thể và xác thực, bản Tuyên ngôn đã phơi bày những hành vi không nhân đạo và không công bằng của thực dân Pháp. Chúng đã lợi dụng danh nghĩa 'bảo hộ' và núp dưới lá cờ của 'Tự do - bình đẳng - bác ái' để cướp đoạt đất nước và áp bức nhân dân. Về chính trị, thực dân Pháp đã sử dụng những biện pháp thâm độc để đàn áp ý chí chiến đấu của người Việt Nam: họ không cho phép dân ta được tự do dân chủ, họ chia cắt ba miền để phá vỡ tinh thần đoàn kết của nhân dân, họ sử dụng rượu và ma túy để đầu độc dân ta. Về kinh tế, họ đã sử dụng nhiều biện pháp dã man để đánh bại sức mạnh của dân Việt Nam, cướp đoạt đất đai và tài nguyên, thiết lập quyền lực kiểm soát xuất nhập khẩu và tiền tệ, đặt ra hàng trăm loại thuế để lấy tiền của dân. Tất cả đã gây ra thảm họa với 2 triệu người Việt chết đói. Về bản chất, thực dân Pháp là những kẻ đê tiện, không nhân đạo vì trong vòng 5 năm (1940 - 1945), họ đã hai lần đầu hàng cho Nhật, và họ đã không hưởng ứng với lời kêu gọi hợp tác của Việt Minh chống Nhật mà ngược lại, họ đã tiếp tục khủng bố Việt Minh, giết người và kẻ yêu nước của dân tộc ta.
Thực hiện sự so sánh tương phản mạnh mẽ, bản Tuyên ngôn đã chỉ ra lý do và chính nghĩa thuộc về dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp đã phản bội Đồng minh và hai lần giao nước cho Nhật, hỗ trợ bọn phát xít mở rộng chiến tranh, thì dân tộc Việt Nam, đặc biệt là Việt Minh, đã dũng cảm chiến đấu chống lại phát xít Nhật và giành lại độc lập cho dân tộc. Nếu thực dân Pháp được biết đến với bản chất đê tiện và thiếu nhân đạo, thì dân tộc Việt Nam đã thể hiện lòng khoan hồng và nhân đạo ngay cả với kẻ thù bị thua cuộc: 'Sau Biến cố ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp người Pháp thoát khỏi tù Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ'.
Từ tất cả những điều này, bản Tuyên ngôn đã phản ánh những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; khi Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta đã lấy lại chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Điều này đã bác bỏ chủ quyền của Pháp đối với Việt Nam và đã khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta không chỉ bằng cơ sở pháp lí vững chắc mà còn bằng hành động cụ thể trong Cách mạng tháng Tám. Một sự thật khác là thực dân, phát xít, phong kiến đã không còn tồn tại, độc lập đã trở thành hiện thực ở Việt Nam, dân tộc ta đã có một chính thể mới để bảo vệ độc lập của mình: 'Pháp bỏ chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích gần 100 năm nay để xây dựng nước Việt Nam độc lập. Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ trong mấy chục thế kỉ để thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa'. (...)
Tuyên bố độc lập đã thức tỉnh, kích động và động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, tinh thần đoàn kết của dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, quyền tự do của nhân dân.