Để hướng dẫn cách sáng tạo sản phẩm nghệ thuật, Mytour cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 6: Sáng tạo sản phẩm nghệ thuật, từ cuốn sách Kết nối tri thức với cuộc sống, tập 2.
Tài liệu này bao gồm 7 mẫu tham khảo, giúp các bạn học sinh lớp 6 có thêm ý tưởng hoàn thiện bài viết của mình. Hãy cùng theo dõi ngay sau đây.
Sáng tạo tác phẩm nghệ thuật - Mẫu 1
Trong ngày xa xưa
Đất nước Văn Lang
Hùng Vương thứ sáu
Đối diện kẻ thù
Vua sai sứ đến
Tìm khắp mọi miền
Người tài cứu nước
Khi tới nơi Phù Đổng
Lời đồn lan tỏa
Sức gió bắt đầu
Được mời vào
Bắt đầu từng tiếng
Một con ngựa sắt
Một cái roi sắt
Một con ngựa sắt
Ta sẽ đánh đuổi
Bọn cướp này
Sứ giả hân hoan
Vội vàng trở về báo vua
Sai người làm ra vũ khí
Ngày đêm không ngừng
Từ đó trở đi
Gióng vang rộn ràng
Ăn không no
Mặc không vừa
Dân làng đóng góp gạo
Nuôi dưỡng tráng sĩ
Áo, roi, ngựa xuất hiện
Dần dần trưởng thành
Tráng sĩ mạnh mẽ
Đánh đuổi quân thù
Khi cái roi sắt gãy
Làm sạch bụi tre
Bọn giặc sợ hãi
Chạy không kịp
Quật ngã quân giặc
Thánh Gióng một mình
Trên đỉnh núi cao
Cởi bỏ áo giáp
Phi lên bầu trời
Vua nhớ công đức
Lập đền thờ ngài
Làng Gióng vẫn còn
Dấu vết hiện rõ.
Sáng tạo tác phẩm nghệ thuật - Mẫu 2
Tôi là Sọ Dừa. Lúc mới sinh, tôi không có cánh tay, chân, hình dáng tròn như quả dừa. Mẹ buồn quá, muốn vứt tôi đi. Nhưng tôi lập tức nói:
- Mẹ ơi! Con cũng là con người mà! Mẹ đừng vứt con đi thật đáng thương.
Vì mẹ thương con, nên đã giữ lại và nuôi dưỡng, đặt cho con cái tên Sọ Dừa. Lớn lên, tôi vẫn giữ nguyên hình dáng nhỏ bé của mình. Mẹ nói với tôi:
- Mày ở nhà lười biếng, người ta bảy tám tuổi đã đi chăn bò, mày chẳng làm được gì.
Tôi nói với mẹ:
- Chuyện gì, chăn bò cũng dễ mà. Mẹ xin phú ông cho con đi chăn bò thử đi.
Nghe tôi nói vậy, mẹ tôi liền đi xin phú ông. Từ đó, tôi được ở nhà phú ông. Hàng ngày, tôi dắt đàn bò ra đồng, tối về dắt đàn bò về nhà. Đàn bò tôi nuôi béo tốt hẳn. Tôi thấy phú ông vui vẻ.
Vào mùa, tôi làm mọi công việc, phú ông sai ba cô con gái thay nhau mang cơm ra cho tôi. Hai cô chị thì trêu ghẹo tôi, chỉ có cô út là hiền lành, luôn tôn trọng tôi.
Một ngày, tôi biến hình thành người, đang ngồi thổi sáo trên lưng trâu thì nghe thấy tiếng động, biết có người nên tôi lại biến về hình dạng cũ. Từ đó, cô út chăm sóc tôi càng nhiều hơn, đem đồ ăn ngon giấu kỹ để cho tôi.
Cuối mùa ở, tôi về nhà vội vàng đòi mẹ đi hỏi cô con gái của phú ông làm vợ. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nhưng khi thấy tôi năn nỉ mãi thì cũng đồng ý đi hỏi phú ông. Khi quay về, bà nói rằng phú ông yêu cầu phải chuẩn bị một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới đồng ý gả con gái. Tôi bảo mẹ cứ yên tâm.
Đến ngày hẹn, mẹ tôi rất ngạc nhiên khi trong nhà xuất hiện đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ thế, còn có chục người đẹp khiêng đồ sang nhà phú ông. Phú ông liền hỏi ba cô con gái xem có ai đồng ý, thì chỉ có cô út.
Trong ngày cưới, tôi chuẩn bị bàn tiệc rất tráng lệ, khách đến rất đông. Lúc rước dâu, tôi biến thành một chàng trai tuấn tú, hào hoa đón cô út về làm vợ. Hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi miệt mài học hành, và sau này thi đỗ trạng nguyên. Không lâu sau, nhà vua bổ tôi đi sứ. Trước khi đi, tôi đưa vợ một hòn đá lửa, một chiếc dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ kỹ những thứ ấy để cần dùng đến.
Một ngày, một chiếc thuyền đi ngang qua đảo, tôi nghe tiếng con gà trống gáy ba tiếng:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng đón vợ tôi về.
Tôi ra hiệu thuyền vào bờ, và gặp lại vợ mình. Hai vợ chồng được gặp nhau trở lại. Tôi đưa vợ về nhà, tổ chức tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai chị của vợ tranh nhau kể chuyện về nàng gặp phải rủi ro, tỏ ra thương tiếc. Tôi im lặng, chỉ khi tiệc kết thúc mới gọi vợ ra. Thấy em mình an toàn trở về, họ cảm thấy xấu hổ và vội về.
Sáng tạo sản phẩm nghệ thuật - Mẫu 3
Tên của tôi là Dế Mèn. Do thường xuyên duy trì chế độ ăn uống và tập luyện, tôi có thể tự tin với thân hình khỏe mạnh của mình.
Đôi càng của tôi sáng bóng, những cái vuốt mạnh mẽ và sắc bén; cánh của tôi mềm mại như chiếc áo dài che phủ cánh, kín đáo và uyển chuyển. Đầu của tôi phình ra với hai chiếc răng đen lòe loẹt như hai chiếc lưỡi liềm máy. Cặp râu của tôi dài và mạnh mẽ. Tính cách của tôi thích nghịch ngợm với mọi người trong làng. Tôi thường trêu chọc các chị Cào Cào bên ngoài đê. Đôi khi, tôi nhẹ nhàng đá chân để trêu anh Gọng Vó đang ngơ ngác dưới đầm. Hầu hết mọi người im lặng, chắc hẳn do họ kính trọng tôi. Nhưng chính sự kiêu ngạo, sức mạnh quá mức của bản thân đã gây ra một tai nạn.
Hàng xóm của tôi là Dế Choắt - một chàng dế nhỏ nhắn, hiền lành. Người mảnh khảnh và cao lêu nghêu như một gã lạc quan. Một hôm, tôi ghé qua nhà Dế Choắt chơi. Thấy nhà cửa lộn xộn, tôi nói với cậu ta:
- Sao mày sống lơ đãng vậy? Nhà cửa thì lộn xộn, nguy cơ bị phá hoại. Đúng là to lớn nhưng thiếu khôn ngoan.
Dế Choắt tỏ ra buồn bã. Cậu ta còn yêu cầu tôi mở đường sang nhà của mình, để phòng khi cần giúp đỡ nhau. Tôi nghe xong liền mắng:
- Hức! Mở đường sang nhà mày? Mày thì hôi như cú mèo, làm sao ta chịu nổi. Đào đường vào nhà, sống cả đời trong cảnh đau khổ!
Nói xong, tôi không suy nghĩ nhiều mà rời đi, để cho Dế Choắt cô đơn một mình.
Một ngày, sau cơn mưa, các loài chim đổ về vũng nước tìm thức ăn. Chị Cốc ngồi gần hang. Tôi đề xuất với Choắt trêu chọc chị Cốc, nhưng Choắt sợ hãi từ chối. Tôi kiêu ngạo, nhạo báng chị Cốc, khiến chị Cốc tức giận và tìm kiếm kẻ trêu chọc mình. Thấy chị Cốc đến gần, tôi vội vàng lẻn vào hang, rồi đứng im như chết. Tiếng chị Cốc đầy tức giận:
- Cậu nói gì vậy?
Giọng Dế Choắt run rẩy:
- Chị, tôi không nói gì đâu.
Chị Cốc tiếp tục quát:
- Chối sao? Chối làm gì! Chối như thế.
Sau đó là loạt tiếng kêu của Choắt. Tôi nằm im lặng không dám động đậy. Chỉ khi Cốc bay đi, tôi mới dám bò lên, thấy Choắt đang ngã sấp. Tôi hoảng sợ chạy lại, đỡ Choắt dậy, khóc lóc:
- Tôi không ngờ mọi việc lại diễn ra như thế này. Tôi hối hận lắm! Tất cả đều do tôi gây ra, phải làm sao bây giờ.
Dế Choắt thì thì thầm với tôi:
- Thôi, tôi ốm yếu lắm rồi, chết cũng không sao. Nhưng tôi khuyên anh rằng nếu sống mà cứ hung hăng, không suy nghĩ thì rồi cũng gặp rắc rối.
Dế Choắt đã qua đời. Tôi cảm thấy hối tiếc vô cùng. Sau khi an táng Choắt tại một bãi cỏ, tôi đã đứng trước mộ hàng giờ để tự phê phán những sai lầm của mình. Đó là bài học đầu tiên của cuộc đời mà tôi thật sự trân trọng.
Sáng tạo sản phẩm nghệ thuật - Mẫu 4
Hùng Vương thứ sáu
Kẻ thù xâm lăng
Sai sứ giả đi
Tìm người cứu nước
Đến làng Phù Đổng
Có cậu bé Giống
Không nói không cười
Nghe lời sứ giả
Bật dậy gọi mẹ
Mời sứ giả vào
Cất tiếng nói đầu
Sẽ đi đánh giặc
Đúc con ngựa sắt
Thêm chiếc gậy sắt
Cùng áo giáp sắt
Đánh tan quân thù
Kể từ ngày ấy
Bữa cơm không no
Chiếc áo chật quá
Dân làng đoàn kết
Nuôi dưỡng những anh hùng
Giặc áp đến chân núi
Trưởng thành thành tráng sĩ
Mặc áo giáp, cưỡi ngựa sắt
Đánh tan kẻ thù
Bay về đỉnh núi
Gỡ bỏ áo giáp
Quay về cung điện trời
Nhân dân mãi nhớ
Vua Hùng vinh danh
Phù Đổng Thiên Vương
Dấu vết vẫn còn lưu.
Sáng tạo sản phẩm nghệ thuật - Mẫu 5
Ngày xưa ngày xửa
Có anh chàng Thạch Sanh
Mạnh mẽ, tài năng
Mồ côi cha mẹ
Độc mình khắc phục khó khăn
Kiếm sống dưới bóng cây đa.
Gặp Lí Thông
Gian xảo lừa dối
Đoàn kết huynh đệ
Chung lòng đương cùng.
Trong vùng xảy ra hỗn loạn
Chằn tinh gieo rắc hỗn ác
Đến lượt gia đình Lí
Dựng miếu thờ cúng
Sợ không chết chăng?
Vạch mưu tính kế
Thạch Sanh thay thế
Dũng cảm đánh bại
Chằn tinh bị lộ diện
Lí Thông nhận công
Vua thưởng phong kiến.
Vua có con gái
Đến tuổi cưới
Trong lễ chọn rể
Đại bàng mang đi
Rồi một lần nữa
Thạch Sanh giải cứu
Lí Thông tận dụng
Bị oan uổng
Bị giam trong ngục tối.
Nhờ âm nhạc đàn
Tiết lộ sự thật
Thạch Sanh vô tội
Gặp công chúa duyên phận
Mười tám lãnh chúa
Đem quân ra chiến
Âm phủ, Niết bàn
Đánh bại địch thủ.
Được đăng cơ vua.
Sáng tạo sản phẩm nghệ thuật - Mẫu 6
Sau khi cha mẹ qua đời, tôi sống với em trai. Cả hai chúng tôi làm việc chăm chỉ và có được ít của cải. Khi trưởng thành, cả tôi và em trai đều cần lấy vợ.
Một ngày, tôi và vợ thảo luận về việc để cậu em và vợ ra ở riêng. Sau đó, tôi gọi cậu em đến và đề xuất chia sẻ phần lều tranh mà cha để lại. Cậu em đồng ý một cách vui vẻ.
Không lâu sau đó, tôi nghe dân làng đồn rằng em trai của tôi bỗng trở nên giàu có. Tôi tò mò và đến thăm để hỏi. Khi đến, tôi bị ấn tượng trước căn nhà lớn với nhiều người ở. Tôi hỏi thăm và cậu em tôi kể tất cả.
Hằng ngày, em tôi chăm sóc cây khế. Đến khi mùa, cây khế ra hoa và trái, em mang chúng ra chợ bán. Một buổi sáng, khi em tôi đến vườn hái khế, nghe thấy tiếng rung lên từ trên cây. Một con chim lớn đang ăn khế. Trong một tháng, con chim đến ăn vào buổi sáng. Em dâu tôi nói với chim:
- Ông chim ơi, ông ăn nhiều như thế này thì nhà cháu sẽ không còn khế để bán nữa! Gia đình cháu chỉ dựa vào cây khế để sống thôi!
Chim sau khi nghe nói đã trả lời:
- Ăn một trái, trả một viên vàng, may một túi ba gang, mang theo và giữ nguyên.
Hai vợ chồng của chúng tôi tuân theo lời của chim. Sáng sớm hôm sau, chim thần xuất hiện. Nó bay qua nhiều vùng đất, từ cánh đồng tới rừng rậm, từ rừng rậm tới biển cả. Đến một hòn đảo giữa biển, chim đáp xuống một hang động rộng lớn, chứa đầy vàng bạc, kim cương.
Nghe câu chuyện, tôi thuyết phục em trai đồng ý đổi tất cả tài sản để lấy lại túp lều tranh và cây khế. Kể từ đó, chúng tôi chuyển về sống trong túp lều. Một buổi sáng, khi thấy cơn gió mạnh và cây khế rung lên, tôi biết chim thần đã đến nên nói:
- Chim thần ơi, cả nhà tôi phụ thuộc vào cây khế, giờ nếu chim ăn mất thì chúng tôi sẽ sống sao?
Chim thần nghe lời em trai tôi nói và đáp:
- Ăn một trái thì trả một cục vàng, may mang theo túi ba gang để đựng!
Vợ chồng tôi đã cùng nhau may túi to. Sáng hôm sau, chim thần đến và đưa tôi đến hòn đảo, rồi đáp xuống hang. Đúng như em tôi kể, trong hang có biết bao nhiêu vàng bạc, kim cương. Tôi nhanh chóng nhặt đầy túi, còn nhét vào cả túi quần, túi áo. Trên đường về, do túi quá nặng, khi gặp gió lớn, tôi bị sóng cuốn trôi, mất hết của cải. Chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại bay lên trời. Tôi gọi mãi nhưng chim thần không quay lại.
Lênh đênh trên biển một lúc, tôi rất mệt mỏi. Rồi tôi thấy một khúc cây to bám vào. Tôi để mình bị sóng đưa đi. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình ở trên hòn đảo hoang. Ngày qua ngày, tôi sống bằng trái cây rừng, nước suối. Sau này, tôi hối hận vô cùng về hành động của mình. Thỉnh thoảng, tôi thấy có thuyền đi ngang qua. Nhưng dù tôi gọi thế nào, họ không nghe thấy. Trong lúc khó khăn, tôi dùng những hòn đá nhọn khắc kí hiệu lên quả dừa và ném ra biển. Vài ngày sau, có một chiếc thuyền đi ngang, thấy kí hiệu trên quả dừa nên họ biết có người trên đảo. Tôi rất vui mừng.
Tôi được đưa về đất liền, gặp lại vợ và em trai. Tôi kể lại mọi chuyện và khuyên vợ em cùng tu chí. Sau này, tôi sống hạnh phúc bên gia đình, làm ăn chăm chỉ.