Sông núi nước Nam được coi là lời Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của Việt Nam. Hôm nay, Mytour sẽ giới thiệu Bài văn mẫu lớp 7: Đánh giá về bài thơ Sông núi nước Nam.
Hi vọng với 7 mẫu dưới đây, các bạn học sinh lớp 7 sẽ có thêm ý tưởng để hoàn thiện bài viết của mình. Mời tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.
Đánh giá về bài thơ Sông núi nước Nam - Mẫu 1
Qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đối mặt với nhiều cuộc xâm lược tàn bạo, nhưng không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ kẻ thù nào. Trong lòng mỗi người, sâu sắc hiểu biết về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước cha ông. Bằng vì điều đó, những tác phẩm được viết ra từ lòng dân Đại Việt, thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc, khẳng định chủ quyền của quốc gia. Một trong những minh chứng nổi bật là bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.
Đọc những dòng thơ, ta cảm thấy lòng tự hào và tin tưởng bất ngờ. Chỉ từ câu mở đầu, tác giả đã khẳng định:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
(Sông núi nước Nam là nơi ở của vua Nam)
Một câu thơ nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Đầu tiên, tác giả khẳng định rằng nước Nam ta có tên, có vua, và một vùng lãnh thổ có vua là một quốc gia, không phải một nước chư hầu bé nhỏ vô danh. Vùng lãnh thổ này đã có chủ và quyền sở hữu của nó thuộc về “vị vua” trị vì đất nước từ lâu. Để minh chứng cho điều này, tác giả trích dẫn:
“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
(Vằng vặc sách trời chia xứ sở)
Từ “tiệt nhiên” biểu thị ý nghĩa theo lẽ tự nhiên, việc này đã được sách trời ghi lại. Ranh giới lãnh thổ của ta đã được sách trời quy định từ rất lâu, sông núi nước Nam phải thuộc về vua nước Nam, không ai có quyền xâm lược hay chiếm đoạt ngoại trừ vị vua Nam trị vì.
Nếu hai câu đầu tiên nói về sự hiển nhiên về quyền của vua hoặc của nhân dân nước Nam đối với đất nước, thì hai câu sau, tác giả dành cho kẻ thù:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Kẻ thù dám xâm phạm đến đây,
Họ chắc chắn sẽ tan vỡ.)
Việc nước Nam thuộc về vua Nam đã được ghi chép trong Thiên Thư, và chỉ khi công nhận điều này thì mới là đúng lẽ, đúng ý trời. Kẻ xâm lược từ phương Bắc đã táo bạo xâm phạm vùng lãnh thổ của chúng ta, gọi chúng ta là nước chư hầu, không công nhận độc lập của chúng ta và muốn chiếm đoạt lãnh thổ của chúng ta. Hành động này chính là phạm tội, làm trái ý trời. Và theo luật của trời, những hành động làm trái ý trời sẽ thất bại sớm muộn. Họ thất bại vì chúng ta đứng về phía chính nghĩa, trong khi họ đại diện cho sự phi nghĩa, họ thất bại vì họ là những kẻ xấu xa muốn chà đạp lên quyền sống và tự do của dân tộc chúng ta.
Bài thơ này không quá kĩ thuật nhưng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là nguồn động viên, cổ vũ cho quân và dân trong những trận chiến mà còn là vũ khí vô hình làm suy yếu sức mạnh của đối phương, góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân Việt trước quân Tống.
Dù không có sự tráng lệ như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi hoặc sắc bén như “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” vẫn được tôn trọng vì lần đầu tiên nêu cao lá cờ chủ quyền dân tộc để khẳng định quyền tự chủ của nước Nam. Những câu thơ này, dù không nhiều từ ngữ, vẫn vang mãi trong lòng mỗi người dân Việt.
Cảm nhận về bài thơ Sông núi nước Nam - Mẫu 2
Trong những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của tổ tiên, có nhiều trận đánh đã trở thành trang sử vĩ đại. Những trận đánh khiến quân giặc sợ hãi và là mối lo lớn khiến bất kỳ dân tộc nào cũng muốn xâm chiếm Đại Việt. Trong số đó, không chỉ có những trận đánh ác liệt mà còn có những trận đánh trong tinh thần. Một trong những 'trận chiến lớn' ấy được ghi vào lịch sử vào một buổi chiều hôm đó. Đó chính là bài thơ 'Sông Núi nước Nam'.
Bài thơ này như một lời khẳng định kiên quyết của quân và dân ta trước ý đồ xâm lược của kẻ thù. Được cho là do tướng Lý Thường Kiệt sáng tác, trong một trận chiến lớn, khi cả hai phe đều đã mệt mỏi, từ một ngôi đình nhỏ của quân ta vọng lên bốn câu thơ hùng tráng:
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Chỉ trong bốn câu thơ, nhưng khi nghe xong, tinh thần của quân giặc đã bị sốc, họ không chịu chiến đấu mà bỏ chạy. Đó như một lời khẳng định rằng chiến thắng sẽ luôn thuộc về chúng ta, và không thể thay đổi được điều đó.
Quốc gia của nước Nam đã có vua cai trị, lãnh đạo. Không phải là một nơi 'vô chủ' mà người khác có thể tự ý xâm chiếm. Có vua của nước Nam, có dân của nước Nam, vậy tại sao để cho người khác chiếm lấy?
Nếu câu thơ đầu tiên khẳng định chủ quyền của quốc gia và dân tộc, thì câu thứ hai nhắc nhở: khi đất nước đã có chủ, người dân nên sống và quản lý đất nước một cách tốt, không nên cạnh tranh hoặc xâm chiếm đất của người khác. Không ai nên xâm chiếm đất nước của nhau. Mọi người nên giúp đỡ nhau thay vì tranh chấp, để tránh gây ra chiến tranh. Chiến tranh làm cho cuộc sống của con người trở nên đau khổ và chia ly.
Đất có chủ, vậy tại sao kẻ thù lại xâm chiếm đất nước của chúng ta? Không phải vì thiếu đất hoặc không gian mà họ xâm lược nước ta. Vậy là họ muốn mở rộng? muốn mở rộng lãnh thổ mà họ mới sang xâm chiếm đất nước của chúng ta? Theo lời tướng Lý Thường Kiệt: 'Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời'. Bất kỳ hành động nào xâm chiếm đất nước của chúng ta đều sẽ bị người dân Việt Nam trừng phạt. Đó là tình yêu quê hương và niềm tự hào dân tộc. Là tinh thần bất khuất không thể chịu thua và khuất phục trước quân thù.
Bài thơ chỉ với bốn câu thơ, không quá dài nhưng đã thể hiện quyết tâm của người dân Việt Nam, họ sẽ đấu tranh để bảo vệ quốc gia, nơi họ sinh ra và lớn lên. Và không có gì có thể ngăn cản được ý chí và tình yêu đất nước của họ.
Cảm nhận về bài thơ Sông núi nước Nam - Mẫu 3
Tình yêu quê hương luôn là một đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam. Có rất nhiều tác phẩm đã được viết về tình yêu quê hương, và trong số đó không thể không kể đến 'Sông núi nước Nam'. Được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, tác phẩm này thể hiện lòng tự tôn dân tộc và quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm một cách hùng tráng.
Bài thơ 'Sông núi nước Nam' ra đời vào thời nhà Lí, trong bối cảnh đất nước đang phải đối mặt với cuộc xâm lược của quân Tống. Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã viết:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”
Dịch nghĩa:
“Sông núi nước Nam vua nam ở
Rành rành định phận tại sách trời”
Hai câu thơ trên đã khẳng định rằng quyền chủ quyền của dân tộc là điều thiêng liêng và không thể xâm phạm, điều này đã được quy định trong sách trời, là điều không thể bị xâm phạm hoặc tước đoạt bởi bất kỳ dân tộc hay thế lực nào. Tác giả thông qua hình ảnh 'vua Nam ở' đã biểu hiện cho toàn bộ dân tộc sống ở nước Nam từ ngàn đời qua và điều này là hiển nhiên không thể phủ nhận. Hai từ 'tiệt nhiên' càng làm nổi bật sự rõ ràng này. Quyền chủ quyền của dân tộc ta là không thể thay đổi, là điều hiển nhiên, là cái mà thiên thư đã quy định. Hai câu thơ không chỉ khẳng định sự thật về chủ quyền dân tộc mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào sâu sắc của dân tộc.
Chủ quyền đất nước là điều vô cùng thiêng liêng và cao quý, và dân tộc nước Nam không thể để mất đi. Trong hai câu sau, tác giả đã thể hiện quyết tâm của dân tộc ta trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Dịch nghĩa:
“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng sẽ bị đánh cho tơi bời”
Mỗi dân tộc đều được quyền tự do và bình đẳng, vậy tại sao lại có những kẻ muốn xâm lược, đẩy dân tộc khác vào cùng cực. Và cụm từ 'thủ bại hư' đã khẳng định rằng những kẻ với lòng tham vô đáy, độc ác thâm hiểm như vậy sẽ bị trừng phạt thích đáng, và kết cục cho những kẻ coi thường đạo lý, đi ngược lại với chính nghĩa sẽ rất thảm hại. Hai câu thơ trên không chỉ là lời cảnh cáo sâu sắc dành cho lũ giặc xâm lược, những kẻ muốn chà đạp lên hạnh phúc, tự do của người khác mà còn thể hiện quyết tâm đoàn kết đánh giặc của dân tộc thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.
'Sông núi nước Nam' vang lên trên sông Như Nguyệt được coi như một bài thơ thần có giá trị lớn trong việc răn đe và đánh đuổi kẻ thù. Qua bài thơ chúng ta cũng cảm nhận được lòng nồng nàn yêu nước, lòng tự tôn và tinh thần đoàn kết dân tộc trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Dù thời gian trôi đi nhưng giá trị và sức ảnh hưởng của tác phẩm không hề thay đổi, nó vẫn là bản tuyên ngôn đầy hào hùng và đanh thép đầu tiên của đất nước ta.
Cảm nhận về bài thơ Sông núi nước Nam - Mẫu 4
Bài thơ Nam quốc sơn hà được viết ra trong bối cảnh đánh đuổi giặc Tống xâm lược. Lời thơ thể hiện ý chí và sức mạnh của dân tộc, ẩn chứa trong những câu chữ hùng hồn là biểu hiện của tinh thần yêu nước và chí khí anh hùng.
Dân ta luôn khao khát tự chủ, độc lập và không ngừng đấu tranh, bất kể hi sinh xương máu vì độc lập và tự chủ. Theo truyền thống, bài thơ này được viết bởi Lí Thường Kiệt (ông họ Ngô, tên Tuấn, tên tự là Thường Kiệt), sau đó được vua ban quốc tính lấy họ vua (họ Lí), người làng An Xá cũ nay thuộc Quảng Đức, phía nam thành Thăng Long. Bài thơ Nam quốc sơn hà mang tính lễ nghi, được viết sau khi quân Đại Việt tan mấy chục vạn quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077. Có truyền thuyết về sự khích lệ tinh thần yêu nước của bài thơ này, nó còn được gọi là bài thơ Thần.
Trong bài thơ Nam quốc sơn hà, sự kết hợp giữa cảm xúc hào hùng và lập luận chặt chẽ, đanh thép đã được thể hiện rất cao đẳng. Hai câu đầu của bài thơ phản ánh rõ tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức sâu sắc về độc lập, chủ quyền: Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Rõ ràng định mệnh từ thiên thư (Sông núi nước Nam vua Nam ở - Đã được định mệnh rõ ràng trong sách trời) trong hai câu mở đầu này, để thể hiện ý thức sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt, cần diễn giải rõ một số từ quan trọng. Đối với từ đế (trong: Nam đế cư), nếu dịch là vua đúng theo nghĩa đen nhưng chưa thể hiện rõ ý mà câu thơ muốn truyền đạt.
Trong tiếng Hán, từ đế và từ vương khi dịch sang tiếng Việt đều là vua. Nhưng đế và vương lại mang những ý nghĩa khác nhau. Trong lịch sử, vương thường chỉ ông vua chư hầu (phụ thuộc, được phong tước) trong khi đế chỉ một vị vua của một quốc gia độc lập, ngang hàng với các quốc gia khác. Ngoài nghĩa là ở, từ cư còn có ý nghĩa là gánh vác, hiểu thêm nghĩa này hình ảnh ông vua Lí Thường Kiệt trở nên hoàn hảo hơn, thể hiện lí tưởng vì nhân dân, xã tắc của tác giả. Câu thứ hai mang một cảm xúc mạnh mẽ. Hàm ý sâu sắc của câu này tập trung vào từ phận, có ý nghĩa liên quan đến quan niệm thần bí của người xưa. Từ phận viết tắt từ tinh phận chỉ vùng sao trên bầu trời tương ứng với những vùng đất. Người Trung Quốc cổ xưa nói: 'Trời có sao, đất có châu'. Vua Quang Trung của chúng ta cũng nói: 'Trên trời có sao nào, dưới đất có đất đó'. Do đó, phương Nam có Nam đế cư như phương Bắc có Bắc đế cư.
Tự do, độc lập là ước mơ, là khát vọng của nhân dân ta được thể hiện một cách sâu sắc, trí tuệ. Đến câu thứ ba, bài thơ chuyển từ sự khẳng định sang việc buộc tội kẻ thù, những kẻ phạm trái với đạo lý, vi phạm chân lý. Hỏi (Như hà: tại sao?) mà không cần đợi câu trả lời, hỏi để khẳng định điều không thể tránh khỏi: chúng sẽ phải chịu trừng phạt, tự gây ra bại họa. Do đó, một lôgic đơn giản nhưng vô cùng chặt chẽ đã được thiết lập. Sức mạnh của bài thơ chính là ở đó.
Cảm nhận về bài thơ Sông núi nước Nam - Mẫu 5
Theo truyền thống, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ trong một trận chiến của quân ta chống lại quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng xuất sắc mà còn là một nhà thơ nổi tiếng.
Vào cuối năm 1076, hàng chục nghìn quân Tống dưới sự lãnh đạo của hai tướng Quách Quỳ và Triệu Tiết đã xâm nhập vào nước ta. Dưới sự chỉ huy của Lí Thường Kiệt, quân ta đã dũng cảm chiến đấu, ngăn chặn chân chúng tại phòng thủ trên sông Như Nguyệt. Theo truyền thuyết, một đêm, quân lính nghe thấy tiếng hát trong đền thờ của hai tướng quân Trương Hống và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) với bài thơ này. Điều này chứng tỏ rằng thần linh và tổ tiên đã bảo vệ quân ta. Bài thơ đã đóng góp vào việc truyền động lực cho binh sĩ quyết tâm đánh bại quân giặc, buộc chúng phải rút lui vào tháng 3 năm 1077.
Câu đầu tiên của bài thơ đã khẳng định rằng sông núi nước Nam là nơi mà vua của nước Nam sinh sống. Mặc dù nên nói là dân Nam chứ không phải là dân nước Nam, nhưng vào thời điểm đó, vua đại diện cho quốc gia và dân tộc. Sự thực đơn giản và hiển nhiên đó đã buộc nhân dân ta phải chịu khổ đau, đấu tranh qua bao thế hệ để bảo vệ khỏi sự xâm lược của giặc ngoại. Từ khi nước nhà có chủ quyền đến năm 1076, dân tộc Đại Việt đã không ngừng khẳng định sự thật này thông qua sức mạnh vũ khí của mình. Lũ giặc phương Bắc, luôn tự cho mình cao cả và đe dọa, luôn nuôi hi vọng xâm nhập nước ta, nên chúng không bao giờ chấp nhận điều này.
Ý nghĩa của câu thơ không chỉ dừng lại ở việc xác nhận rằng sông núi nước Nam là nơi của vua nước Nam. Tác giả tự nhận mình là nước Nam với ý định loại bỏ sự khinh miệt của lũ xâm lược, người vẫn coi nước ta là một tỉnh huyện vô giá trị trong tư duy của họ. Việc gán nước mình (Nam quốc) vào cùng một tầm với (Bắc quốc) là một phép tắc vô cùng kiêu ngạo, thể hiện sự tự hào và tự tin cùng vị thế cao quý của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói hão huyền. Chiến dịch tấn công mạnh mẽ của quân ta vào trung tâm của quân giặc chỉ vài tháng trước đó là một minh chứng sống động. Do đó, sự thật ở trên đã được chứng minh bằng cách thực tế.
Câu thứ hai của bài thơ khẳng định rằng chủ quyền của nước Nam đã được ghi chép rõ ràng trên sách trời. Sách trời đã phân chia cho vua nước Nam một phần riêng của bờ cõi. Người xưa tin rằng các vùng đất dưới mặt đất tương ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua, nước đó có chủ quyền. Điều này là một điều bất khả xâm phạm và linh thiêng. Câu thơ mang đậm màu sắc thần linh, làm tăng thêm giá trị cho sự thật đã được nêu ở câu trước.
Câu thứ ba đặt ra một câu hỏi nghiêm túc đối với binh tướng của quân giặc. Chủ quyền và độc lập của nước Nam không chỉ là vấn đề của con người mà còn là vấn đề vững chắc và minh bạch trên sách trời, không thể phủ nhận, mọi người đều phải biết và tôn trọng. Vậy tại sao quân giặc dám xâm phạm? Câu hỏi này thể hiện thái độ tức giận và khinh bỉ của tác giả. Tức giận vì tại sao tướng lãnh của một nước tự xưng là triều đình lại dám bất tuân lệnh của trời? Khinh bỉ vì coi chúng là bọn nghịch lỗ, tức là lũ giặc xâm nhập, xâm phạm, không tôn trọng. Gọi chúng là nghịch lỗ có nghĩa là tác giả đã đặt dân tộc Việt Nam vào vị thế chủ nhà và tin rằng chúng có đủ sức mạnh để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền độc lập. Tác giả đã củng cố sự khẳng định cho sự thật hiển nhiên đã nêu ở trên thông qua sự đối lập giữa sự phi nghĩa của lũ giặc và sự minh bạch trong sách trời.
Câu thơ cuối cùng đã thể hiện sự khinh bỉ đối với quân giặc và niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng không thể tránh khỏi của quân ta. Tác giả đã gọi quân xâm lược là giặc, là kẻ nghịch lỗ, và ở câu này, ông đã gọi chúng theo cách rõ ràng như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô này nhấn mạnh sự coi thường và đồng thời cảnh báo rằng chúng nhất định sẽ bị tiêu diệt. Điều đó như đã được sắp đặt trước, chỉ chờ đợi kết quả. Kết quả sẽ thế nào? Chúng mày không chỉ thất bại, mà còn thất bại một cách đầy thảm hại. Dù mười vạn quân giặc dưới sự chỉ huy của hai tướng giỏi, quân ta không phải dễ dàng để đánh bại, nhưng do hành động phi nghĩa của chúng, thì tất yếu chúng sẽ gặp họa. Ngoài việc cảnh báo quân giặc, câu thơ còn thể hiện niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh thống nhất của quân dân ta và niềm tự hào cao quý. Một lần nữa, chân lí về chủ quyền độc lập đã được tác giả khẳng định bằng sức mạnh của lòng yêu nước và lòng căm thù đối với quân giặc.
Bài Thơ Thần ra đời trong một bối cảnh cụ thể và với một mục đích cụ thể. Trong cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt, tình hình đang trở nên căng thẳng. Để tăng thêm sức mạnh cho quân ta và đánh vào tinh thần của quân địch, bài thơ đã xuất hiện đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể hình dung rằng lúc đó quân dân ta như được rèn luyện trong ngọn lửa của niềm tin, máu nóng lên và khí thế giết giặc leo thang.
Tính chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh cửu bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là không thể xâm phạm. Hiệu quả to lớn của bài thơ không chỉ giới hạn trong hoàn cảnh hiện tại mà còn kéo dài về sau. Hơn mười một thế kỷ, quân xâm lược phương Bắc đã cố tình thôn tính nước ta nhưng dân tộc ta đã đoàn kết đứng lên đánh đuổi chúng, bảo vệ chủ quyền của mình.
Chỉ trong bốn câu thơ ngắn gọn, Lí Thường Kiệt đã rõ ràng khẳng định một cách mạnh mẽ về chân lí độc lập tự do, đồng thời lên án tính phi nghĩa của việc xâm lược và sự thất bại không thể tránh khỏi của những kẻ dám phạm vào chân lí đó.
Việc tái khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta để chống lại tham vọng xâm lược của bọn cướp nước trong tình hình căng thẳng của cuộc chiến là hết sức cần thiết. Vì vậy, đã có nhiều ý kiến cho rằng bài thơ Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Cảm nhận về bài Sông núi nước Nam - Phiên bản 6
Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên. Khi đọc bài thơ này, người đọc cảm nhận được ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền của nhân dân ta:
'Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.'
Trước hết, cần hiểu rõ về ngữ cảnh ra đời của bài thơ. Theo truyền thuyết, vào năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy đã xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Một đêm nọ, quân sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát - hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục được tôn là thần sông Như Nguyệt - ngâm bài thơ này.
Hai câu thơ đầu tiên là một sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền của dân tộc ta. Theo quan niệm cổ xưa, toàn bộ lãnh thổ và cơ nghiệp, con người của một quốc gia đều thuộc về vua. Mọi quyền lực đều nằm trong tay vua - người đứng đầu, đại diện cho quốc gia. Nhưng với cách dùng từ “hoàng đế nước Nam”, bài thơ thể hiện lòng tự tôn và tự hào dân tộc. Câu thơ tiếp theo tiếp tục làm rõ về độc lập và chủ quyền của dân tộc. Lãnh thổ và vận mệnh của đất nước đã được ghi trong sách trời. Điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là một sự thật không thể phủ nhận và thay đổi.
Khi đến hai câu thơ sau, người đọc đã cảm nhận được ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Câu hỏi nhẹ nhàng “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?” giống như một lời răn đe, cảnh cáo cho những kẻ xâm lược đi xâm lược lãnh thổ của nước khác. Đó là hành vi trái với quy luật tự nhiên, trái với chính nghĩa. Và cuối cùng là lời răn đe, khẳng định vang lên đầy mạnh mẽ. Những kẻ đi xâm lược, cướp nước của dân tộc khác sẽ không có được kết thúc tốt đẹp. Một giọng thơ hào hùng, mạnh mẽ giúp người đọc cảm nhận được ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Với điều này, bài thơ “Sông núi nước Nam” thật sự là một tác phẩm vĩ đại. Mỗi câu thơ đều phản ánh tinh thần, ý chí của con người, dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Cảm nhận về bài Sông núi nước Nam - Phiên bản 7
Nam quốc sơn hà là một lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền lãnh thổ của quốc gia và dân tộc, cũng như nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù. Bài thơ đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Tương truyền vào năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy sang xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bỗng một đêm, quan sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát có giọng ngâm bài thơ này. Giọng thơ hùng hồn, đanh thép gây ấn tượng mạnh cho mỗi người đọc.
Xã hội xưa tin rằng toàn bộ lãnh thổ, của cải và con người đều thuộc về nhà vua. Chỉ có vua mới có quyền quyết định mọi thứ, thậm chí là quyền sống chết. Dùng từ “Nam đế” - hoàng đế nước Nam để thể hiện sự ngang hàng với phương Bắc. Từ đó, chúng ta tự hào hơn về đất nước. Câu thơ tiếp theo khẳng định chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Chủ quyền đã được ghi lại ở “thiên thư” - sách trời, là một chân lý không thể chối cãi được.
Hai câu thơ khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Câu hỏi nhẹ nhàng “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?” giống như một lời răn đe, cảnh cáo cho những kẻ xâm lược là đang làm trái ý trời. Và từ đó, câu thơ cuối cùng vang lên đầy đanh thép. Những kẻ đi xâm lược, cướp nước của dân tộc khác sẽ không có được kết thúc tốt đẹp. Bài thơ thể hiện ý chí, quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc. Chính vì vậy, “Sông núi nước Nam” được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của đất nước ta.
“Sông núi nước Nam” xứng đáng là “áng thơ thần” được truyền tụng mãi mãi. Bài thơ chắc chắn sẽ tiếp tục được truyền bá qua các thế hệ.