Các nhân vật và sự kiện lịch sử đều mang trong mình những giá trị quan trọng. Dưới đây là tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Viết về một sự việc thực tế liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử do Mytour cung cấp.
Tài liệu này bao gồm nội dung chi tiết với 3 dàn ý và 24 bài văn mẫu lớp 7. Ngoài ra, học sinh còn có thể tham khảo về việc đóng vai nhạc sĩ Văn Cao kể về sự ra đời của bài hát Tiến quân ca.
Sơ đồ tư duy về một sự việc thực tế
Dàn ý về một sự việc thực tế
Bố cục số 1
1. Bắt đầu
Giới thiệu về nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan.
2. Phần chính
Tóm tắt lại diễn biến của sự kiện, nhấn mạnh mối liên hệ với nhân vật hoặc sự kiện lịch sử, kết hợp cả việc kể chuyện và mô tả.
3. Tóm tắt
Phát biểu ý nghĩa của sự kiện và chia sẻ cảm nhận cá nhân.
Bố cục số 2
1. Bắt đầu
- Giới thiệu sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà bạn sẽ kể lại trong bài viết.
- Đề cập đến lý do hoặc hoàn cảnh mà bạn thu thập thông tin về nhân vật hoặc sự kiện lịch sử đó.
2. Phần chính
a. Tạo ra bối cảnh, mô tả câu chuyện và những dấu vết liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử:
- Mô tả không gian, thời gian xảy ra sự kiện.
- Đề cập đến các dấu vết liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử được đề cập.
b. Thuật lại nội dung, diễn biến của sự việc thực tế có liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử:
- Mô tả quá trình từ khởi đầu đến kết thúc.
- Sử dụng bằng chứng (tư liệu, trích dẫn...) kết hợp với việc kể chuyện và mô tả.
c. Tầm quan trọng, ý nghĩa hoặc ảnh hưởng của sự kiện đối với cuộc sống hoặc nhận thức về nhân vật hoặc sự kiện lịch sử.
3. Kết thúc
Xác nhận ý nghĩa của sự kiện hoặc chia sẻ cảm nhận cá nhân về sự kiện hoặc nhân vật lịch sử.
Viết văn kể lại câu chuyện về một nhân vật lịch sử bạn đã đọc hoặc nghe về.
Bản văn mẫu số 1
Trần Quốc Tuấn, một vị tướng vĩ đại của dân tộc trong thời kỳ Trần, đã có những thành tựu lẫy lừng trong việc chống lại cuộc xâm lược của giặc Mông - Nguyên.
Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1231?, qua đời năm 1300, con trai của vị thần vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông được biết đến qua những chiến công rực rỡ trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông vào những năm 1285 và 1287. Vào thời vua Trần Anh Tông, ông trở về quê hương và hy sinh tại Vạn Kiếp.
Một sự kiện đáng chú ý liên quan đến Trần Quốc Tuấn là việc viết Hịch tướng sĩ trước cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên lần thứ hai vào năm 1285.
Hịch tướng sĩ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống ngoại xâm, cùng với sự quyết tâm đánh bại kẻ thù.
Trần Quốc Tuấn đã đề cao tinh thần trung kiên của các tướng lĩnh trước đó, chỉ ra sự tàn bạo của quân giặc và kêu gọi tướng lĩnh học tập từ 'Binh thư yếu lược'.
Trần Quốc Tuấn, một người anh hùng của dân tộc, để lại dấu ấn sâu đậm cho thế hệ sau học tập và lấy làm gương mẫu.
Bài văn mẫu số 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng về đạo đức, đã truyền đi những thông điệp quý giá qua câu chuyện về cuộc đời và công cuộc cách mạng của mình.
Trong thời gian sống tại Việt Bắc, mỗi khi đi công tác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có hai đồng chí đi cùng. Mặc dù hai đồng chí muốn giúp mang ba lô cho Bác, nhưng Bác từ chối. Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai cũng mệt, nếu phân phát đồ đạc cho một người mang đi thì người đó sẽ càng mệt hơn. Hãy chia sẻ đồ vật cho tất cả ba người.
Hai đồng chí phải tuân theo lời dạy của Bác, phân chia đồ đạc vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi:
- Các chú đã chia đồ đạc đều chưa?
Hai đồng chí trả lời:
- Dạ, đã chia đều rồi, Bác ạ!
Sau đó, cả ba cùng tiếp tục hành trình. Sau một thời gian, khi nghỉ ngơi, Bác đến nơi các đồng chí và nâng chiếc ba lô lên. Bác hỏi:
- Tại sao chiếc ba lô của các chú nặng mà của Bác lại nhẹ thế?
Bác lập tức mở ra và nhìn thấy bên trong ba lô chỉ có một tấm chăn màn.
Bác phản đối và nói:
- Chỉ có công việc thực sự mới mang lại hạnh phúc cho con người.
Bác tiếp tục yêu cầu hai đồng chí phải chia đồ đạc đều vào ba chiếc ba lô.
Câu chuyện trên thể hiện lòng trung trực và lòng yêu lao động của Bác Hồ. Hãy học tập và noi theo tấm gương đó.
Bài văn mẫu số 3
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh và có nhiều anh hùng góp phần vào lịch sử. Một trong số đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê quán làng An Xá, nay thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, được giáo dục về lòng yêu nước và tình yêu quê hương từ nhỏ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng và giao trọng trách quan trọng. Vào cuối năm 1954, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng của Mặt trận Điện Biên Phủ và làm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì khó khăn không?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ khó là ở xa, khi có vấn đề quan trọng, khó khăn, tôi sẽ xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân ở ngoại, trao quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác dặn dò: “Trận này rất quan trọng, phải đánh để thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.
Nhờ sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ, quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến phải “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng đã được củng cố. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã đạt được thắng lợi vẻ vang.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, là tấm gương sáng ngời để thế hệ sau noi theo.
Bài văn mẫu số 4
Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng là những vị nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Vào đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tham lam, tàn bạo. Hai chị em là Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nên sớm có lòng căm thù giặc. Trưng Trắc cùng chồng là Thi Sách đã liên kết với các thủ lĩnh khác để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Nhưng Thi Sách bị Tô Định bắt và giết hại. Hai Bà Trưng quyết tâm khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng diễn ra qua hai giai đoạn. Lần đầu tiên vào năm 40, cuộc khởi nghĩa đã thu hút được sự tham gia của nhiều anh hùng từ mọi nơi. Quân nghĩa của chúng ta đã nhanh chóng đánh bại quân nhà Hán, chiếm được Mê Linh, tiến vào Cổ Loa và Lụy Châu. Thái thú Tô Định phải bỏ thành chạy trốn về Nam Hải (Quảng Đông, Trung Quốc). Các quân Hán ở các quận huyện khác cũng thất bại. Cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thành công.
Vào năm 42, nhà Hán tiếp tục tấn công, cử Mã Viện chỉ huy cánh quân gồm hai vạn quân tinh nhuệ, hai nghìn chiếc thuyền và nhiều dân phu. Họ tấn công Hợp Phố, nhưng nhân dân ở đó đã dũng cảm chống lại, nhưng vẫn thất bại. Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện chia quân thành hai đội thủy bộ tiến về Lục Đầu và gặp nhau tại Lẵng Bạc. Sau khi biết tin, Hai Bà Trưng dẫn quân từ Mê Linh về để đối đầu tại Lãng Bạc. Quân ta giữ vững Cổ Loa và Mê Linh, nhưng Mã Viện vẫn đuổi theo buộc quân ta phải rút lui về Cẩm Khê. Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến kéo dài đến tháng 11 năm 43 mới kết thúc. Mặc dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vẫn để lại dấu ấn lớn trong lịch sử.
Hai Bà Trưng là tấm gương về sự dũng cảm và lòng yêu nước mà thế hệ sau cần phải học tập và noi theo.
Bài văn mẫu số 5
Một trong những anh hùng dân tộc đáng kính phải kể đến là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp, tên thật là Võ Giáp, biệt danh là Văn. Ông sinh năm 1911, qua đời năm 2013. Quê quán tại làng An Xá, nay thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Có rất nhiều câu chuyện về vị tướng vĩ đại của nhân dân. Một trong số đó kể về cụ Võ Quang Nghiêm, cha của Đại tướng, người đã hi sinh trong chiến tranh. Khi tìm thấy mộ của cụ và đưa từ Huế về (1977), hài cốt của cụ được đặt vào nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Khi lập kế hoạch cho nghĩa trang, huyện dành hai ô đất ở khu vực anh hùng, kế hoạch an táng thân Đại tướng ở đó. Tuy nhiên, khi biết về điều này, Đại tướng nói:
- Cảm ơn lòng tốt của lãnh đạo huyện, nhưng cha tôi là liệt sĩ bình thường nên không thể an táng trong khu vực dành cho anh hùng. Thân mẫu của tôi là người dân, không thể được an táng trong nghĩa trang liệt sĩ.
Do đó, theo lời Đại tướng, hài cốt của cha được đặt gần khu vực anh hùng liệt sĩ, trong khi thân mẫu được an táng ngoài nghĩa trang, cách xa khuôn viên vài chục mét.
Từ câu chuyện này, ta thấy Đại tướng đã thực hiện một cách nghiêm túc triết lý của Bác Hồ: Người cách mạng phải “dĩ công vi thượng”! Quả là một bài học mẫu mực của Đại tướng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Không chỉ vậy, ông còn là một tấm gương về một nhân cách lớn mạnh mẽ để thế hệ sau noi theo.
Bài văn mẫu số 6
Từ thời xa xưa, dân tộc Việt Nam luôn tự hào về truyền thống yêu nước. Trong mọi thời đại, đất nước đã có những vị anh hùng dũng cảm dẫn dắt nhân dân đánh bại kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Một trong những vị anh hùng ấy là Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), danh hiệu Hưng Đạo Đại Vương. Ông là con trai của thân vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông ra đời trong thời kỳ “hỗn loạn” của triều đại Trần. Năm 1285 và 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, mỗi lần ông được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế chỉ huy quân đội, đều giành chiến thắng vẻ vang. Khi vua Trần Anh Tông lên ngôi, ông rời quân và trở về Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) để tu tâm, và qua đời tại đó. Dân tộc tôn kính ông như một Đức thánh và xây dựng nhiều đền thờ trên khắp đất nước.
Trần Quốc Tuấn được biết đến là một nhà lãnh đạo thông minh, có uy tín trong cả văn chương và quân sự. Ông là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần, đã có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc chiến chống lại quân Mông - Nguyên. Không chỉ thế, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm văn học quân sự, như Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã mất tích).
Trong số nhiều câu chuyện về Trần Quốc Tuấn, có một câu chuyện kể rằng ông đã sáng tác “Hịch tướng sĩ”. Bài hịch này được viết trước cuộc chiến chống lại quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Mục đích của ông là khích lệ các tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tắt những điều cốt yếu về binh pháp), cũng là do ông soạn.
Nội dung chính của “Hịch tướng sĩ” phản ánh tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc ta trong cuộc chiến chống lại kẻ xâm lược bên ngoài. Điều này được thể hiện qua lòng căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu và đánh bại kẻ thù. Ông nêu bật những tấm gương trung thành của các vị tướng trong quá khứ, sau đó phê phán tội ác của quân giặc và thể hiện niềm đau lòng của mình trước tình hình của đất nước. Cuối cùng, ông kêu gọi tướng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.
Có thể thấy rằng, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một nhà lãnh đạo thông minh và dũng cảm mà còn là một vị tướng tận tụy vì sự nghiệp của đất nước. Ông là một anh hùng xuất sắc, được thế giới tôn vinh là một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại.
Bài văn mẫu số 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo được mến mộ của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người đã dâng hiến cho đất nước và nhân dân. Có nhiều sự kiện liên quan đến Bác đã được truyền kể.
Trước khi Bác Hồ quyết định ra đi tìm đường cứu nước, có một sự kiện xảy ra. Lúc ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. Một ngày nọ, Bác Hồ hỏi bác Lê:
- Anh có lòng yêu nước không?
Bác Lê đáp:
- Dĩ nhiên rồi!
- Anh có thể giữ bí mật không?
- Dĩ nhiên!
- Tôi muốn ra nước ngoài để xem Pháp và các quốc gia khác hoạt động như thế nào. Sau đó, khi trở về, sẽ giúp đỡ đồng bào chúng ta. Tuy nhiên, việc đi một mình có thể rủi ro. Anh có muốn cùng tôi đi không?
Bác Lê bất ngờ không nói được lời:
- Nhưng chúng ta sẽ kiếm tiền đi đâu?
- Đây, đây là tiền!
Vừa nói xong, Bác Hồ giơ hai tay lên và tiếp tục:
- Chúng ta sẽ làm mọi điều để tồn tại và để đi. Anh sẽ đi cùng tôi phải không?
…
Và sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chỉ có một người thanh niên tên là Nguyễn Tất Thành (sau này là Văn Ba) lên đường sang Pháp. Bác đã xin làm nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn của Đô đốc Latouche-Tréville.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về tinh thần dám nghĩ, dám làm. Bác đã ấp ủ ý định và quyết tâm thực hiện, điều đó cũng bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước và lòng thương dân sâu sắc của Người.
Bác Hồ thật sự là nguồn động viên sáng ngời cho mọi người học theo. Mỗi câu chuyện về Bác đều có ý nghĩa và đáng quý trọng.
Bài văn mẫu số 8
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của ông là một ví dụ mẫu mực để mọi người dân Việt Nam học theo.
Tháng 11 năm 1983, Đại tướng ghé thăm trường cấp 3 Lệ Thủy trong chuyến về quê. Ông được mọi người trong trường chào đón nồng hậu. Khi thấy một ông già thấp đậm, quắc thước, râu tóc bạc trắng, ông đã rẽ đám đông và hỏi:
- Tôi nhớ cụ mặt đâu đó. Cụ có phải là ông Choạc không?
Cụ già trả lời một cách lúng túng:
- Dạ vâng… ạ, đúng vậy ạ!
Đại tướng ngay lập tức phản hồi:
- Mong cụ đừng gọi tôi như vậy. Cụ đã bao nhiêu tuổi trong năm nay?
- Thưa ông, con đã bảy mươi mốt tuổi rồi ạ.
Đại tướng phản hồi:
- Tuổi của tôi đã bảy mươi ba, chúng ta đã cùng trải qua nhiều năm tháng.
Sau khi Đại tướng rời đi, mọi người bắt đầu kể lại câu chuyện. Ông Lê Choạc từng làm việc cho gia đình ông Võ Quang Nghiêm khi còn trẻ. Còn cậu Giáp, vào mùa hè thường về quê từ Huế. Mặc dù đã nửa thế kỷ trôi qua, nhưng Đại tướng vẫn nhận ra những người quen trong đám đông.
Có thể thấy, Đại tướng là một người trân trọng tình bạn và tình đồng nghiệp, có đạo đức và tài năng vượt trội. Ông là tấm gương sáng cho thế hệ sau học theo.
Bài văn mẫu số 9
Lịch sử dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm chịu sự áp bức của các triều đại phương Bắc. Nhiều anh hùng đã nổi lên, hy sinh để bảo vệ quê hương. Trong số đó, không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng.
Hai Bà Trưng là hai chị em ruột gồm bà Trưng Trắc và bà Trưng Nhị. Họ đã ghi dấu ấn trong lịch sử dân tộc với cuộc kháng chiến chống lại sự thống trị của nhà Đông Hán (40 - 43). Chồng của bà Trưng Trắc bị thái thú Tô Định tàn sát một cách tàn bạo. Với lòng nợ nước và thù nhà, hai bà quyết định nổi dậy cùng nhau chống lại kẻ thù. Trước khi ra trận, hai bà đã thề thốt:
“Một để rửa sạch hận thù
Hai để tái hiện nghĩa tổ Hùng
Ba để không làm tổn thương lòng chồng
Bốn để gìn giữ sứ mệnh này”
Trong cuộc khởi nghĩa của hai bà, nhiều nữ tướng đã tham gia và họ cùng nhau tạo ra những chiến công khiến quân giặc sợ hãi, thái thú Tô Định phải bỏ chạy về quê hương. Khi thống trị Mê Linh, Trưng Trắc tự phong mình là Trưng Vương, hoàn thành sứ mệnh của dòng dõi Hùng. Năm 43, quân địch tấn công, Hai Bà Trưng dũng cảm chống lại, nhưng với lực lượng quá đông, quân giặc đã đánh bại nghĩa quân.
Hai Bà Trưng là những nhà tư sản tài năng của dân tộc. Mặc dù là phụ nữ, nhưng họ đã thể hiện lòng dũng cảm, tài năng đặc biệt cùng ý chí kiên định để lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược.
Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng là những nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là tấm gương mà mỗi người học tập và noi theo.
Bài văn mẫu số 10
Đất nước Việt Nam đã sinh ra rất nhiều anh hùng. Trong đó, Trần Quốc Toản là một vị anh hùng đáng ngưỡng mộ và kính phục.
Trần Quốc Toản (sinh thời không rõ, mất năm không rõ), hiệu là Hoài Văn hầu, là một trong tông thất của nhà Trần.
Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị gồm các Vương hầu và tướng lĩnh tại bến Bình Than để thảo luận về kế sách chống lại quân Mông - Nguyên. Vì còn trẻ nên Trần Quốc Toản không được tham dự. Anh ta cảm thấy tức giận và tiếc nuối, bóp nát quả cam trong tay mình mà không biết thời điểm nào.
Không nản lòng, Trần Quốc Toản rút lui để huy động hơn nghìn gia nô và người thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên lá cờ sáu chữ “phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo đáp ơn vua). Tiếng vang của Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng lan tỏa khắp mọi nơi.
Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên đổ bộ xâm lược nước ta. Lúc này, lá cờ thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu hiện diện trên nhiều mặt trận. Ông đã trực tiếp chỉ huy quân đội gần gũi cùng quân chính của triều đình góp phần vào những trận thắng lớn ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phải rút lui khỏi Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Sau này, khi ông hy sinh, vua Trần rất thương tiếc, cho tổ chức tang lễ và đích thân viết bài văn tế, truy tặng Trần Quốc Toản tước Hiệu Văn Vương.
Trần Quốc Toản không chỉ có tài năng mà còn mang những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành tấm gương sáng về ý chí và lòng yêu nước để cho các thế hệ trẻ Việt Nam noi theo.
Bài văn mẫu số 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ được dân tộc Việt Nam yêu mến. Cuộc đời của Người là tấm gương sáng cho mỗi người dân Việt Nam noi theo. Và những câu chuyện về Người cũng luôn để lại bài học quý giá cho chúng ta.
Truyện kể rằng trong những năm sống ở Việt Bắc, mỗi lần đi công tác, Bác luôn có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt, hai đồng chí muốn mang ba lô giúp Bác. Nhưng Bác không đồng ý. Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà không mệt, tập trung đồ đạc cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân phối đều cho cả ba người.
Hai đồng chí đành phải làm theo lời Bác, đem chia đồ đạc vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:
- Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
- Thưa Bác, vâng ạ!
Sau đó, cả ba cùng chuẩn bị lên đường. Trong một chặng đường, khi nghỉ ngơi, Bác đến gần các đồng chí và nhấc chiếc ba lô lên. Bác hỏi:
- Tại sao ba lô của các bạn nặng mà của Bác lại nhẹ như vậy?
Bác mở ra xem và phát hiện bên trong ba lô của mình chỉ có một tấm chăn mỏng.
Bác thể hiện sự không hài lòng và nói:
- Chỉ khi lao động thực sự mới mang lại niềm vui cho con người.
Tiếp theo, Bác yêu cầu hai đồng chí chia sẻ công bằng vật dụng vào ba chiếc ba lô trước khi tiếp tục hành trình.
Mặc dù là một câu chuyện nhỏ, nhưng lại chứa đựng một bài học lớn. Bác được biết đến là người yêu công việc. Suốt đời, Bác dành thời gian và nỗ lực vào lao động, từ những việc lớn như cứu nước đến những công việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Mọi việc có thể tự mình làm, Bác đều tự mình thực hiện. Cách sống của Bác đã giúp mỗi người nhận ra giá trị của lao động và tự ý thức hơn trong việc học tập và làm việc.
Quả thật, những câu chuyện về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, chúng ta luôn rút ra được nhiều bài học quý báu cho bản thân.
Bài viết mẫu số 12
Khi đó, quân Nguyên sai sứ thần sang giả vờ yêu cầu mở đường để xâm lược nước ta. Trần Quốc Toản nhìn thấy sứ giặc đâu đây, trong lòng bừng tức.
Hôm nay sáng, nhà vua tổ chức cuộc họp để thảo luận về công việc quốc gia trên thuyền rồng. Quốc Toản biết về điều này và quyết định chờ gặp vua để nói lên ý kiến “xin đánh”. Dù đã đợi từ sáng đến trưa mà vẫn chưa gặp được vua, cậu quyết định liều mạng xô mấy người lính gác ngã chúi, lao xuống bến. Thấy vậy, quân lính đã tới. Quốc Toản đỏ mặt tức giận, vung gươm ra và quát lớn:
- Ta muốn gặp vua, ai dám cản trở!
Lúc đó, cuộc họp trên thuyền rồng tạm dừng, vua và các quan rời khỏi mui thuyền.
Quốc Toản chạy đến, quỳ gối trước mặt vua:
- Để giặc mượn đường là để mất nước. Xin bệ hạ hãy cho đánh!
Sau khi nói xong, cậu đặt gươm lên cổ, sẵn lòng chịu trách nhiệm.
Nhà vua ra lệnh cho Quốc Toản đứng dậy, nói nhẹ nhàng:
- Quốc Toản đã vi phạm pháp luật của nước, thực ra phải bị trừng phạt. Nhưng nhìn vào sự trách nhiệm của em, dù tuổi còn trẻ nhưng đã biết suy nghĩ cho nước, ta không thể không khen ngợi.
Nói xong, vua giao cho Quốc Toản một quả cam. Cậu cảm ơn vua rồi rời đi với tâm trạng tiếc nuối. Trong lòng, cậu nghĩ: “Vua cho ta quả cam quý nhưng vẫn xem ta như một đứa trẻ, không cho phép tham gia vào việc quan trọng của nước”.
Quốc Toản nghĩ đến quân giặc đang tàn phá nhân dân, lòng căm ghét tràn đầy. Cậu bóp nát trái cam trong tay không chút lưu luyến. Đến khi mọi người đến hỏi, cậu mới nhận ra trái cam đã tan nát.
Bài văn mẫu số 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo được dân tộc Việt Nam yêu mến. Cuộc sống của Người có nhiều câu chuyện đáng nhớ. Từ đó, ta nhận thấy những phẩm chất tốt lành của Người.
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác tham dự Hội nghị về cải cách ruộng đất ở Hà Bắc. Tại đây, khi nghe về việc rút bớt cán bộ đi học tiếp quản thủ đô, mọi người đều háo hức muốn đi, đặc biệt là những người từ Hà Nội. Mọi người mong muốn được cấp trên chiếu cố sau nhiều năm xa cách quê hương. Tâm trạng của các cán bộ rất phân tán, khiến ban lãnh đạo gặp khó khăn.
Dù thời tiết vào thu nhưng vẫn nóng, mồ hôi ướt đẫm áo nâu của Bác. Bắt đầu buổi hội nghị, Bác thảo luận về tình hình hiện tại. Khi nói về nhiệm vụ của Đảng, Bác đột nhiên lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt từ túi áo. Rồi Bác hỏi các cán bộ về chức năng của từng phần của chiếc đồng hồ. Sau đó, Bác mới hỏi:
Trong chiếc đồng hồ, bộ phận nào quan trọng nhất?
Mọi người im lặng, không ai đáp:
Trong chiếc đồng hồ, nếu bỏ mất một bộ phận, có thể hoạt động được không?
- Thưa, không thể ạ! - Các cán bộ đồng thanh trả lời.
Nghe mọi người trả lời, Bác giơ cao chiếc đồng hồ và kết luận:
- Các chú ạ, bộ phận của một chiếc đồng hồ giống như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà kim đòi làm chữ số, máy lại muốn ra ngoài làm mặt đồng hồ… cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?
Nghe xong, toàn bộ hội trường trở nên yên lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về lời nói của Bác.
Vào cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng tại Bạch Mai đang luyện tập cho cuộc duyệt binh ăn mừng chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Thăm khu ăn uống, chỗ ngủ của các chiến sĩ xong, Bác đã trò chuyện với họ. Bác lấy ra một chiếc đồng hồ quả quýt từ túi, chỉ vào từng kim, từng số và hỏi các anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng. Nhưng chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?
Bác vui vẻ tiếp tục:
- Đã bao nhiêu năm qua, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công đó. Nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không? Sau câu chuyện của Bác, anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành.
Không chỉ thế, chiếc đồng hồ quả quýt còn là một hiện vật quý giá thể hiện tình cảm Quốc tế dành cho Bác, đó là chiếc đồng hồ mà Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” đã tặng, Bác luôn giữ nó trong lòng, trong những năm tháng gian khổ bị giam giữ cho đến ngày Việt Nam giành được độc lập.
Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã cho thấy được những phẩm chất tốt đẹp của Bác Hồ, cũng như bài học sâu sắc mà Bác muốn dạy cho cán bộ, chiến sĩ của mình.
Bài văn mẫu số 14
Trong những năm tháng chiến tranh, rất nhiều con người Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và đấu tranh cho độc lập của dân tộc. Một trong số đó là Võ Thị Sáu - nữ anh hùng huyền thoại của vùng Đất Đỏ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Nguyên quán ghi trên bia mộ chỉ nằm tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã cùng với anh trai tham gia cách mạng. Chị tham gia vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong thời gian này, chị đã tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương. Không chỉ vậy, chị cũng nhiều lần phát hiện ra gián điệp, tay sai của Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Một lần, chị được giao nhiệm vụ mang lựu đạn phục kích để tiêu diệt tên cai Tòng - một tên phản quốc xâm lược ngay tại làng nhà. Lựu đạn nổ, Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy vậy, vụ tấn công đã làm cho lính địch hoảng sợ, không dám truy đuổi Việt Minh như trước. Sau đó, khi thực hiện nhiệm vụ khác, chị đã bị bắt. Sau khi bị bắt, chị bị thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù ở Đất Đỏ, Bà Rịa và Chí Hòa. Thực dân Pháp đã đưa ra xét xử, lúc đó chị chưa đầy mười tám tuổi. Luật sư đã dùng điều này để cố gắng giúp chị thoát khỏi án tử hình, nhưng tòa vẫn tuyên án tử hình chị. Họ chuyển chị và một số tù nhân khác ra nhà tù Côn Đảo. Ở đó, thực dân Pháp đã bí mật thực hiện án tử hình cho chị.
Vào năm 1993, Nhà nước đã tặng chị Huân chương Chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Chị Võ Thị Sáu là biểu tượng về lòng dũng cảm, sự kiên cường.
Bài văn mẫu số 15
Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc trong thời Trần. Ông là anh hùng của dân tộc, có nhiều đóng góp trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên - Mông.
Trần Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Ngay khi sinh ra, một thầy tướng đã dự đoán rằng: “Người này sau này có thể giúp nước cứu đời”. Khi lớn lên, ông có ngoại hình hào hoa, thông minh, học vấn rộng, và tài năng về văn võ. Cha ông từng không hợp với Chiêu Lăng, do đó, ông dạy dỗ Quốc Tuấn một cách cẩn thận. Trước khi qua đời, An Sinh đã nắm tay Quốc Tuấn và nói:
- Nếu con không thể làm cho cha danh tiếng phồn thịnh, thì cho dù cha chìm dưới dòng suối vàng cũng không thể yên lòng.
Ông nhớ lời cha, nhưng không làm theo. Khi nắm quyền, ông trao lời dặn của cha cho hai gia nô Dã Tượng và Yết Kiêu. Họ đã phản đối:
- Dù làm kế đó có thể phát tài phát lộc trong một thời gian, nhưng để lại tiếng xấu suốt ngàn đời. Bây giờ vị vua không chỉ là giàu có và quý phái, đúng không? Chúng tôi thề sẽ chấp nhận làm gia nô cả đời, nhưng không bao giờ trở thành quan văn võ nếu thiếu lòng trung hiếu.
Trần Quốc Tuấn nghe điều này, rất khâm phục, ngay lập tức khen ngợi hai người. Trong hai cuộc xâm lược của quân Nguyên - Mông vào năm 1285 và 1287, ông được Trần Nhân Tông chỉ định làm Tiết chế, dẫn đầu quân đội, và cả hai lần đều chiến thắng hùng hồn. Sau khi qua đời, dân chúng tôn kính ông với danh hiệu Đức thánh Trần và xây dựng đền thờ ông trên khắp đất nước.
Từ sự việc này, ta có thể thấy lòng trung hiếu với vua và với đất nước của Trần Quốc Tuấn, ông là một người thận trọng, quyết đoán và chân thành.
Dễ nhận thấy, Trần Hưng Đạo là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Cuộc đời ông đã có những đóng góp vĩ đại cho quê hương, đất nước.
Mạc Đĩnh Chi, tự Tiết Phu, xuất thân từ thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là một nhân vật lịch sử mà tôi rất ngưỡng mộ và kính trọng.
Mạc Đĩnh Chi thông minh vượt trội. Với văn hay và chữ tốt, ông được vua Trần Ích Tắc nhận làm môn đồ, được chu cấp cho ăn học. Trong kỳ thi Thái học sinh năm 1304, ông đỗ Trạng nguyên, trở thành Nội thư gia. Dù bị chê xấu về ngoại hình, ông vẫn được vua Trần Anh Tông khen ngợi.
Khi làm Nội thư gia, ông được phái sang Trung Quốc làm sứ giả. Một hôm, ông được mời vào phủ của quan Tể tướng. Trong phòng, có treo một bức tranh thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi giả vờ nhận lầm con chim đó là thật, vội nhảy tới chụp bắt. Cả triều thần đều cười cho ông là quê mùa. Ông kéo bức tranh xuống và xé nát, vì ông cho rằng tranh thêu đó không tôn vinh đạo đức quân tử. Hành động của ông khiến mọi người phải khâm phục tài năng và trí tuệ của ông.
Mạc Đĩnh Chi là một ví dụ rõ ràng về sự thông minh và trí tuệ, và hành động của ông đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người.
Trong một lần, khi đến dự tiệc của triều vua Nguyên, trong lúc chầu rót rượu cho người nước ngoài, vua Nguyên yêu cầu viết bài minh. Mạc Đĩnh Chi viết nhanh và hoàn chỉnh, khiến vua Nguyên rất ngưỡng mộ. Từ đó, danh tiếng của Mạc Đĩnh Chi trong triều Nguyên càng được tôn trọng, và ông được coi là “Nhà tài trạng nguyên”.
Chắc chắn rằng, Mạc Đĩnh Chi là một nhà tài trạng nguyên vượt trội, đã có những đóng góp quan trọng đối với đất nước.
Võ Thị Sáu là một trong những anh hùng của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của sự dũng cảm và gan dạ của người phụ nữ Việt Nam.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933 và hy sinh vào năm 1952. Nguyên quán của chị được ghi trên bia mộ tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị đã tham gia vào hoạt động cách mạng từ khi còn rất trẻ và đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ quan trọng.
Mạc Đĩnh Chi là một trong những tài trạng nguyên được triều Nguyên ca ngợi, với những đóng góp to lớn cho đất nước.
Trong quá trình bảo vệ quê hương, chị tham gia nhiều trận chiến, sử dụng lựu đạn để tiêu diệt kẻ ác và làm bị thương nhiều lính Pháp. Chị cũng nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm và chủ động trong việc tấn công địch…
Vào tháng 7 năm 1948, khi Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp, chị Sáu tự nguyện tham gia và đánh trận này. Chị đã nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó, chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.
Hai tổ công an xung phong ở gần đó đồng loạt nổ súng yểm trợ để áp lực giải tán cuộc mít tinh và hỗ trợ chị Sáu rút an toàn. Những người của Việt Minh được bố trí trong đám đông và hướng dẫn người dân giải tán. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương và được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng khác. Ngay cả khi bị giam giữ tại nhà tù Côn Đảo, chuẩn bị cho xử tử, chị vẫn giữ được tinh thần của một chiến sĩ cách mạng.
Năm 1993, Nhà nước đã trao tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Chắc chắn rằng, chị Võ Thị Sáu là một tấm gương về lòng dũng cảm và sự gan dạ, xứng đáng để chúng ta học tập và noi theo.
Viết một bài văn kể về một sự kiện có thật liên quan đến lịch sử.
Bài văn mẫu số 1
Những sự kiện lịch sử quan trọng với một quốc gia và dân tộc. Sự kiện ấn tượng nhất đối với tôi là Cách mạng tháng Tám (1945) của dân tộc Việt Nam.
Năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đầu nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa để phá bỏ sự áp bức hơn tám mươi năm dưới chế độ thực dân Pháp, mở ra một giai đoạn mới cho đất nước Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, trong đêm đánh nhau giữa quân Nhật và Pháp, Hội nghị Thường vụ mở rộng dưới sự chỉ đạo của Tổng bí thư Trường Chinh. Đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng và ra Chỉ thị 'Nhật - Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta'.
Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban hành Quân lệnh số 1. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại hội Quốc dân tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa. Vào buổi chiều cùng ngày, một đơn vị Quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng Thái Nguyên, mở đầu cho Cách mạng tháng Tám.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban giải phóng dân tộc tổ chức lễ ra mắt quốc dân và tiến hành lễ tuyên thệ tại sân đình Tân Trào. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1845, nhân dân ở bốn tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa đạt thắng lợi tại thủ đô Hà Nội. Từ ngày 20 tháng 8, cuộc tổng khởi nghĩa lan rộng ra trên khắp các tỉnh thành.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn thoái vị. Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám hoàn toàn thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám mang ý nghĩa lịch sử to lớn với đất nước và nhân dân Việt Nam.
Bài văn mẫu số 2
Tôi là nhạc sĩ Văn Cao - người đã tạo ra bài hát “Tiến quân ca”. Bài hát này ra đời trong một tình huống lịch sử đặc biệt. Đối với tôi, nó đã đánh dấu một bước tiến lớn trong cuộc sống, đồng thời là dấu mốc tìm ra ý nghĩa sống của mình.
Tôi đã trải qua những thất vọng và mất mát trong tuổi trẻ. Cuộc sống trở nên u ám và tuyệt vọng. Khi tôi suy tư về việc từ bỏ, sự xuất hiện của anh Ph.D. - một người bạn thân đã thay đổi số phận của tôi.
Nhờ anh Ph.D. mà tôi được gặp Vũ Quý - một người bạn đã theo dõi sự nghiệp nghệ thuật của tôi từ lâu. Cuộc trò chuyện với anh đã mở ra một hướng đi mới cho tôi, đưa tôi vào con đường cách mạng.
Lúc đó, quân chính kháng Nhật sắp khởi nghĩa, cần một bài hát để truyền cảm hứng cho quân đội cách mạng. Tôi đã viết ra những bài hát như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng... nhưng chưa từng viết về cách mạng. Tuy nhiên, với đam mê và nhiệt huyết, tôi đã sáng tác “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. đã là người chứng kiến quá trình sáng tác của bài hát, Vũ Quý là người đầu tiên biết về nó và Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên thể hiện ca khúc. Họ đã rất xúc động.
Khi đó, tôi không ngờ rằng, chỉ sau một thời gian ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca đã được hàng nghìn người hòa nhịp hát cao tiếng hát trước quảng trường Nhà hát Lớn. Cảm xúc của tôi lúc ấy thật khó diễn tả. Bài hát nổ ra như một quả bom. Trong một khoảnh khắc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người trong đám đông. Lúc ấy, tôi đứng lẫn vào trong đám đông trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy giọng hát quen thuộc của anh bạn tôi - Ph. D. qua loa phát thanh. Lần thứ hai là vào ngày 19 tháng 8, hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca.
Và bài hát “Tiến quân ca” đã ra đời như thế, trong thời đại lịch sử của dân tộc được đánh dấu bởi “một buổi bình minh mới”. Điều đó khiến tôi tự hào không ngớt khi nhớ lại.
Bài văn mẫu số 3
Một trong những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam là Chiến thắng Điện Biên Phủ. Với sự kiện này, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chính thức đoạt được chiến thắng.
Nhà thơ Tố Hữu đã có những dòng thơ:
“Chín năm gắng sức, Điện Biên khác biệt
Nở hoa đỏ, vinh danh vĩnh cửu”
Từ đó, ta thấy được ý nghĩa của chiến dịch này. Đầu tiên, Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Ba đợt tiến công diễn ra trong 56 ngày. Đợt 1 (từ 13 đến 17 tháng 3), chúng ta đánh bại hai cứ điểm quan trọng Him Lam và Độc Lập, mở ra đường đi phía Bắc và Đông Bắc cho quân đội tiến vào lòng chảo và khu trung tâm. Đợt 2 (từ 30 tháng 3 đến 30 tháng 4), ta kiểm soát các đỉnh cao, khu trung tâm của Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn của quân ta. Quân địch rơi vào tình trạng bị động mất tinh thần. Đợt 3 (từ 1 đến 7 tháng 5), quân ta tập kích toàn bộ cứ điểm Điện Biên Phủ của địch. Đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch kết thúc với thắng lợi.
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu sự chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm, gian khổ của nhân dân Việt Nam. Từ đó, Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở các nước Đông Dương. Thắng lợi lịch sử ấy thể hiện niềm tự hào của dân tộc, niềm tin vào lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc chiến vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chiến thắng này cũng là động viên mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu, đặc biệt ở châu Á, châu Phi và Mĩ Latin.
Có thể khẳng định, Điện Biên Phủ là một trong những chiến dịch quan trọng nhất, giúp đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Bài văn mẫu số 4
Tiến quân ca - bài hát quốc ca của Việt Nam. Tôi là nhạc sĩ Văn Cao - người sáng tác bài hát này.
Bài hát ra đời trong bối cảnh lịch sử quan trọng, mang ý nghĩa đặc biệt đối với quốc gia. Với tôi, nó là một tinh hoa tinh thần, ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống của tôi.
Trước đó, tôi đã trải qua những thất vọng và mất mát của tuổi trẻ. Cuộc sống hàng ngày chỉ là sự lặp đi lặp lại, u ám và buồn chán. Khi tôi đang suy tư về việc từ bỏ tất cả, anh Ph.D. xuất hiện, thay đổi cuộc đời tôi.
Thật may mắn khi qua anh Ph.D., tôi gặp được Vũ Quý. Anh đã theo dõi sự nghiệp nghệ thuật của tôi từ lâu. Sau khi trò chuyện với anh, tôi nhận ra con đường mà tôi có thể theo đuổi - con đường cách mạng.
Khi kháng chiến chống Nhật sắp bắt đầu, quân đội cần một bài hát để nâng cao tinh thần. Mặc dù tôi đã viết nhiều bài về tình yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… nhưng chưa từng có một bài nào về cách mạng. Vì vậy, tôi đã sáng tác Tiến quân ca.
Anh Ph.D. là nhân chứng của quá trình sáng tác bài hát, Vũ Quý là người đầu tiên biết đến nó và Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên biểu diễn ca khúc. Tất cả đều chia sẻ một cảm xúc, tự hào và xúc động khi nghe ca khúc này.
Tôi không ngờ rằng chỉ sau một thời gian ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca đã được hàng nghìn người hòa nhịp hát cao trước quảng trường Nhà hát Lớn. Bài hát đã tạo ra một hiệu ứng lớn. Trong một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca đã được phát cho từng người trong hàng ngũ công chức tham dự mít tinh. Khi ấy, tôi đứng trong đám đông trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi nghe thấy giọng hát quen thuộc của bạn tôi - Ph. D. qua loa phát thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội, tôi đã nghe hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca.
Ca khúc Tiến quân ca ra đời trong thời kỳ lịch sử của dân tộc, một thời kỳ được đánh dấu bởi “một buổi bình minh mới” của quốc gia. Là tác giả của bài hát, tôi rất sung sướng và tự hào.
Bài văn mẫu số 5
Quốc ca của Việt Nam đã trở thành một phần linh thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt từ lâu. Bài hát được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Theo lời kể của nhạc sĩ Văn Cao, khi còn trẻ, ông là một thanh niên khá nổi. Bạn bè thường khen ngợi ông là tài hoa, am hiểu cả thơ ca và hội họa. Nhưng ít ai biết rằng, ông đã trải qua một khoảng thời gian dài chìm trong tuyệt vọng, không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Cho đến khi gặp được anh Ph.D., thông qua anh, ông lại quen biết anh Vũ Quý. Sau khi trò chuyện với Vũ Quý, ông như hiểu ra được ý nghĩa của cuộc sống. Không còn lạc vào những nỗi buồn, thất vọng, ông khao khát tham gia vào cách mạng, mong muốn ở chiến khu cùng những người anh em cùng đứng lên chiến đấu. Tuy nhiên, nhiệm vụ của ông là sáng tác nghệ thuật.
Khi bắt đầu sáng tác “Tiến quân ca”, nhạc sĩ Văn Cao chưa bao giờ cầm súng hoặc gia nhập bất kỳ đội quân nào. Ông chỉ đang sáng tác một bài hát. Ông chưa từng biết về chiến khu, chỉ biết về những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen của mình. Ông chưa gặp các chiến sĩ trong khóa quân chính đầu tiên để biết họ hát như thế nào. Tuy nhiên, với nhiệt huyết tuổi trẻ, trên căn gác nhỏ tại phố Nguyễn Thượng Hiền, ông đã hoàn thành bài hát “Tiến quân ca” trước sự chứng kiến của Ph.D., người đã chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca, anh Vũ Quý, người đầu tiên biết đến bài hát, và ông Nguyễn Đình Thi, người xướng âm ca khúc đã rất xúc động.
Bài hát được ra đời và nhận được sự ủng hộ của mọi người. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, bài hát được công bố rộng rãi trong một cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Trước Quảng trường Nhà hát lớn, hàng ngàn người cất cao tiếng hát, hòa vang đầy khí thế hào hùng. Những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát đến tay mọi người trong hàng ngũ các công chức tham dự buổi mít tinh. Lần thứ hai Tiến quân ca được xuất hiện là trong một cuộc mít tinh diễn ra vào ngày 19 tháng 8. Hôm đó, hàng ngàn người cùng những em thiếu nhi cất cao lời ca, tiếng hát; thét lên tiếng căm hờn bè vào mặt lũ đế quốc tàn bạo với niềm tự hào về chiến thắng của cách mạng.
Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam đã ra đời như vậy, trong thời đại lịch sử đánh dấu buổi bình minh mới của đất nước. Tác phẩm mang một giá trị lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam.
Bài văn mẫu số 6
Tuyên ngôn Độc lập (1945) mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với dân tộc Việt Nam. Được viết bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo được lòng mến mộ của dân tộc.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, đại diện cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sự xuất hiện của Tuyên ngôn Độc lập mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bác Hồ rời Pác Bó đến Tân Trào. Trong tháng đó, Người đã yêu cầu trung úy Giôn của OSS (Mỹ) đưa điện về Côn Minh, yêu cầu gửi một bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ.
Ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào đến Hà Nội. Tối 25 tháng 8 năm 1945, Người đến Hà Nội và ở tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng 8 năm 1945, Bác đã triệu tập một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng để thảo luận về các vấn đề chính trị, quốc tế trong tình hình mới; công bố danh sách các thành viên của Chính phủ lâm thời; chuẩn bị cho việc ra Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để giới thiệu Chính phủ lâm thời cho toàn dân.
Ngày 27 tháng 8 năm 1945, Người gặp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ để đề xuất việc đọc Tuyên ngôn Độc lập đã được Người chuẩn bị. Bác đưa ra bản thảo và yêu cầu các thành viên cần xem xét kỹ vì nó không chỉ dành cho toàn dân nghe mà còn dành cho Chính phủ Pháp và dân Pháp, cũng như các quốc gia đồng minh.
Trên hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự mình gõ máy Tuyên ngôn Độc lập trên một chiếc bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng góp ý kiến cho Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung một số ý vào Tuyên ngôn. Tuyên ngôn Độc lập đã được hoàn thiện.
Vào lúc 14 giờ ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam mới. Quá trình viết Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như trí tuệ và tầm nhìn của một vị lãnh tụ - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn mẫu số 7
Tiến quân ca là một trong những sáng tác quan trọng nhất của tôi. Bài hát ra đời trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của tôi.
Trải qua một thời gian dài, tôi đã mất đi những ước mơ của tuổi trẻ. Cuộc sống của tôi chìm đắm trong tuyệt vọng và chán nản. Nhưng khi tôi gặp được anh Ph. D., một người bạn thân thiết, cuộc đời của tôi đã thay đổi.
Anh Ph.D. giới thiệu tôi với anh Vũ Quý, một người đã theo dõi sự nghiệp nghệ thuật của tôi từ lâu. Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện quan trọng, từ đó tôi tìm ra hướng đi mới cho mình - theo đuổi con đường cách mạng. Tuy khao khát tham gia vào chiến trường, nhưng nhiệm vụ của tôi là sáng tác nghệ thuật.
Khi kháng chiến chống Nhật chuẩn bị bùng nổ, cần một bài hát để động viên tinh thần cho quân đội. Tôi đã viết nhiều bài hát về tình yêu quê hương như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng... nhưng chưa từng viết về cách mạng. Tuy vậy, tôi dùng hết lòng nhiệt thành để sáng tác bài hát 'Tiến quân ca'.
Anh Ph.D. đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác bài hát, còn anh Vũ Quý là người đầu tiên biết đến bài hát, và nhà thơ Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên biểu diễn ca khúc. Cả ba đều rất xúc động.
Không ngờ rằng, chỉ sau một thời gian ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca đã lan tỏa khắp nơi với hàng ngàn người cùng hát trước Nhà hát Lớn. Tôi, trong đám đông đông đảo, nghe thấy giọng hát quen thuộc của bạn tôi - Ph. D. qua loa phát thanh. Vào ngày 19 tháng 8, hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát tiến quân ca. Khi bài hát được chọn làm Quốc ca chính thức của Việt Nam, tôi thấy tự hào và vinh dự hơn bao giờ hết.
Bài hát “Tiến quân ca” ra đời trong thời kỳ lịch sử quan trọng của dân tộc, đánh dấu sự khởi đầu mới mẻ, phồn thịnh của đất nước.