Sự gia tăng dân số quá nhanh sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống văn hóa, giáo dục và gây ra các vấn đề xã hội phức tạp. Với 5 bài Nghị luận về vấn đề gia tăng dân số hiện nay và 2 dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về tình trạng này.

Gia tăng dân số, sự bùng nổ dân số liên quan chặt chẽ đến vấn đề đói nghèo, bệnh tật, giáo dục kém, sự lạc hậu và các vấn đề xã hội phức tạp. Đây là gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Các em nghĩ gì về vấn đề gia tăng dân số hiện nay? Mời các em cùng đọc bài viết dưới đây từ Mytour:
Thông điệp nghị luận về vấn đề gia tăng dân số
Phần ý chi tiết thứ nhất
A. Khởi đầu:
- Trong thời đại hiện đại phát triển vượt bậc, có nhiều nguy cơ đe dọa đến cuộc sống con người.
- Một trong những nguy cơ toàn cầu đó là vấn đề gia tăng dân số ngày nay.
B. Nội dung chính:
1. Giải thích ngắn gọn:
a. Gia tăng dân số là sự tăng số lượng dân cư trong một khu vực nhất định, có hai hình thức chính là gia tăng dân số tự nhiên (sinh đẻ) và gia tăng dân số cơ học (di cư). Sự gia tăng dân số đóng vai trò quan trọng trong cung cấp nguồn lao động trẻ cho xã hội, giúp duy trì sự phát triển ổn định và bền vững. Tuy nhiên, nếu dân số tăng vượt quá khả năng chấp nhận của xã hội, đó có thể là một thảm họa.
b. Gia tăng dân số hiện nay là một thảm họa vì nó liên quan đến sự gia tăng các vấn đề như đói nghèo, bệnh tật, dốt nát, lạc hậu và các vấn đề xã hội. Đây là gánh nặng không chỉ đối với từng gia đình mà còn đối với toàn xã hội.
2. Thảo luận:
a. Gia tăng dân số quá mức hiện nay do nhiều nguyên nhân như: trình độ dân trí thấp, thiếu kiến thức về kế hoạch hoá gia đình, những quan niệm lạc hậu về sinh con, phong tục tập quán còn lạc hậu, định kiến giới tính…
b. Hành động cụ thể của thanh niên đối với thảm họa gia tăng dân số hiện nay:
- Thanh niên cần đóng vai trò tiên phong, làm gương mẫu trong việc kế hoạch hoá gia đình.
- Thanh niên tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội nhằm vận động, tuyên truyền cho mọi người thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân số của Nhà nước.
- Thanh niên là những người chủ động tham gia vào các hoạt động xoá đói giảm nghèo; nâng cao dân trí, loại bỏ những tập tục lạc hậu; ảnh hưởng để thay đổi những quan niệm cũ trong cộng đồng nơi mình sinh sống, học tập hoặc làm việc.
C. Tóm lại: Liên hệ với bản thân.
Dàn ý chi tiết số 2
2. Thân bài:
- Biểu hiện của vấn đề gia tăng dân số: Số lượng dân số tăng nhanh, mỗi năm có rất nhiều trẻ em sinh ra, chủ yếu diễn ra ở những gia đình nghèo, ở các quốc gia đang phát triển. Việt Nam hiện đang đối mặt với tình trạng này.
- Tác hại của vấn đề gia tăng dân số:
- Đời sống của người dân sẽ gặp nhiều khó khăn hơn với số lượng con đông đúc, không đủ điều kiện chăm sóc cho các con tốt hơn.
- Các đứa trẻ sinh ra không được hưởng những điều tốt đẹp hơn.
- Gia tăng dân số ảnh hưởng đến vấn đề việc làm, ô nhiễm môi trường và tác động đến kinh tế - xã hội của một quốc gia.
- Nguyên nhân:
- Những tập tục lạc hậu, những quan niệm lỗi thời vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của mọi người dân.
- Tư tưởng 'sinh nhiều con để sau này có người chăm sóc' và đặc biệt là hệ lụy của 'trọng nam khinh nữ'.
- Chính quyền địa phương chưa có sự can thiệp mạnh mẽ, nghiêm ngặt trong việc giải quyết vấn đề này.
- Ví dụ cụ thể về tình trạng gia tăng dân số ở Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới.
- So sánh với những gia đình, những quốc gia có tỷ lệ gia tăng dân số giảm mạnh và không có tăng về điều kiện gia đình, cuộc sống của họ.
- Biện pháp:
- Thực hiện một cách nghiêm túc và đúng đắn kế hoạch hóa gia đình.
- Mỗi người chồng người vợ nâng cao ý thức, tiến bộ hơn trong việc sinh con.
- Cơ quan có thẩm quyền, cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ hơn.
3. Kết bài: Tóm lại vấn đề và định hướng tương lai cho dân tộc Việt Nam và thế giới không còn lo lắng nhiều về vấn đề gia tăng dân số nữa. Đời sống của người dân sẽ được cải thiện.
Bài nghị luận về vấn đề gia tăng dân số - Mẫu 1
Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, xuất hiện nhiều vấn đề nóng bức thu hút sự quan tâm của cộng đồng toàn cầu. Một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay là vấn đề gia tăng dân số tại nước ta.
Nước ta là một trong những quốc gia nghèo, có nền kinh tế phát triển chậm, nhưng tỷ lệ gia tăng dân số lại nằm trong top cao trên thế giới. Sự tăng dân số sẽ dẫn đến giảm chất lượng các dịch vụ về văn hoá, giáo dục, y tế… do phải phục vụ số lượng lớn. Đồng thời, sự gia tăng dân số nhanh chóng còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế khi mà nhiều nguồn lực phải chi ra để đáp ứng nhu cầu của dân số đông đảo.
Nguyên nhân của sự gia tăng dân số chủ yếu do ý thức chủ quan, suy nghĩ của con người: mong muốn có nhiều con để vui vẻ, muốn có con trai nối dõi nên sinh đẻ nhiều, sự vô ý sinh con do không biết cách phòng tránh,… Ngoài ra, nguyên nhân khách quan là do nước ta đang còn nghèo, chất lượng giáo dục chưa tốt, người dân chưa nhận thức được hậu quả của sự bùng nổ dân số, chính quyền chưa thực hiện được các biện pháp tuyên truyền hiệu quả để người dân nhận thức và hạn chế tình trạng gia tăng dân số.
Hậu quả của vấn đề gia tăng dân số là vô cùng nghiêm trọng, đầu tiên là nền kinh tế ngày càng đi xuống, sức khỏe của người dân không được đảm bảo đặc biệt là người già, phụ nữ và trẻ em. Sự gia tăng dân số mạnh mẽ ảnh hưởng không chỉ đến chất lượng cuộc sống của con người mà còn ảnh hưởng đến môi trường khi hiện nay môi trường đang bị tàn phá nặng nề. Chúng ta có thể kết luận rằng sự gia tăng dân số ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống và dẫn đến sự suy giảm chất lượng cuộc sống ngày càng nghiêm trọng.
Để giải quyết vấn đề sự bùng nổ dân số hiện nay, mỗi cá nhân cần nhận thức đúng về hậu quả của việc gia tăng dân số và áp dụng biện pháp hạn chế sinh con. Chính quyền và xã hội cần tăng cường tuyên truyền về hậu quả của sinh nhiều con và áp đặt các quy định rõ ràng để ngăn ngừa việc vi phạm của người dân.
Mỗi người một hành động nhỏ cũng có ý nghĩa lớn trong việc phát triển đất nước. Chúng ta hãy nâng cao nhận thức và nỗ lực kiểm soát tình trạng gia tăng dân số.
Bài nghị luận về vấn đề gia tăng dân số - Mẫu 2
Viết về hiểm họa của sự gia tăng dân số quá nhanh - một đề tài khó và khô khan, tác giả của 'Bài toán dân số' đã lựa chọn cách tiếp cận hấp dẫn và thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64 ô bàn cờ với một lượng thóc 'nhiều đến mức có thể phủ khắp bề mặt Trái Đất', độc giả dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số với tốc độ sinh sản như hiện nay.
Vấn đề chính mà tác giả muốn nhấn mạnh trong văn bản này là: Dân số đang tăng lên nhanh chóng. Nếu không kiềm chế được sự gia tăng này, con người sẽ tự gây ra những hậu quả nguy hiểm cho chính mình.
Điều mà tác giả nhận thấy ngạc nhiên là: một vấn đề như kế hoạch hoá gia đình, được xem là rất hiện đại và mới mẻ, lại có vẻ như đã tồn tại từ thời cổ đại.
Tác giả đã đưa ra một bài toán cổ kể về câu chuyện kén rể của nhà thông thái, thu hút sự tò mò của độc giả và mang đến một kết luận bất ngờ ở cuối câu chuyện. Từ câu chuyện đó, tác giả so sánh với sự bùng nổ và gia tăng dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân), hình dung nhanh chóng tốc độ gia tăng kinh khủng của dân số.
Thông tin về tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô có ý nghĩa quan trọng. Nó cho thấy khả năng sinh con của phụ nữ, với Việt Nam trung bình 3,7 con và Ru-an-đa lên tới 8,1 con, gây khó khăn cho việc áp dụng chỉ tiêu hai con một gia đình. Thống kê cũng cho thấy các nước chậm phát triển sinh con nhiều hơn.
Các nước được đề cập trong văn bản thuộc hai nhóm:
- Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.
- Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.
Có thể rút ra nhận xét: Những quốc gia kém phát triển ở hai lục địa đó đều đang có tốc độ tăng dân số nhanh. Sự bùng nổ dân số đi đôi với nền kinh tế kém phát triển, văn hoá và giáo dục không được nâng cao. Ngược lại, khi kinh tế, văn hoá và giáo dục yếu thì sẽ khó khăn trong việc kiềm chế tăng dân số. Hai vấn đề này có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau.
Nghị luận về vấn đề gia tăng dân số - Mẫu 3
Theo thống kê của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) đầu năm 2008, số trẻ sinh ra trong quý I năm 2008 tăng hơn 18.000 trẻ (tăng 7,2%) so với cùng kỳ năm 2007. Trong số đó, 39/64 tỉnh/thành phố có tăng sinh mạnh: Sóc Trăng (tăng 41,2%), Sơn La (40%), TP Hồ Chí Minh (30,2%), Hà Nội (27,6%), Phú Thọ (23%). Đồng thời, số trẻ sinh ra là con thứ 3 cũng tăng hơn 35% so với cùng kỳ năm 2007, chủ yếu ở các gia đình có điều kiện. Tỷ lệ mất cân bằng giới tính cũng đang cao, với nhiều nơi con trai vượt số lượng con gái từ 20-25%. Có 16 tỉnh/thành phố có tỷ lệ giới tính khi sinh từ 115 đến 128 nam/100 nữ và 20 tỉnh/thành phố là 111 đến 120 nam/100 nữ.
Người Việt Nam từ lâu đã quan tâm đến vấn đề 'nhập khẩu' vợ như một hiện tượng bất thường, nhưng có thể sẽ trở thành thực tế trong tương lai gần. Trong vài năm trở lại đây, khi vận động dân số với khẩu hiệu dừng lại ở 1-2 con để nuôi dạy tốt hơn, các gia đình càng phải lựa chọn giới tính thai nhi để sinh con trai. Kết quả là, tỷ lệ giới tính ngày càng cao, với 106/100 vào năm 2000 lên đến 126/100 vào cuối năm 2007, đặc biệt là ở những gia đình sinh con thứ 3 trở lên. Ở nhiều nơi, số lượng con trai vượt số lượng con gái từ 20-25%. Đồng thời, tình trạng phụ nữ di cư lấy chồng nước ngoài cũng đang tăng lên, có nguy cơ dẫn đến tình trạng thiếu nam nhi, gây ra các vấn đề xã hội như ẩu đả, hiếp dâm, buôn bán phụ nữ qua biên giới.
Vùng nông thôn và miền núi vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của quan niệm ưu ái con trai hơn con gái, với quan điểm rằng công việc gia đình là trách nhiệm chỉ của phụ nữ, và sự lựa chọn nghề nghiệp vẫn theo hướng truyền thống... Do đó, việc đầu tư vào giáo dục cho trẻ em gái trong học tập vẫn chưa được chú ý và quan tâm như với trẻ em trai. Hành động này tiếp tục mang đến nguy cơ tiềm ẩn về trình độ, năng lực và kỹ năng của phụ nữ giảm thấp, khiến cho họ chỉ có thể làm những công việc không ổn định, ở những nơi có điều kiện làm việc thiếu thốn, thu nhập thấp, bấp bênh, dễ mất việc hoặc không được bảo hiểm, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.
Vào cuối năm 2008, Việt Nam sẽ hết thời hạn nhận tài trợ các biện pháp tránh thai hiện đại như bao cao su, thuốc ngừa thai. Theo dự đoán, vào năm 2009, Việt Nam sẽ thiếu hơn 80% số lượng các biện pháp tránh thai hiện đại do thiếu cam kết cung cấp từ các nhà tài trợ. Theo tính toán của các chuyên gia dân số, mỗi năm cần khoảng 100 - 150 tỉ đồng để mua các biện pháp tránh thai, nhưng ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng được khoảng 10%. Đây là một vấn đề ngân sách đối với các cơ quan chức năng. Một thách thức nữa trong vấn đề này là việc xã hội hóa cung cấp các biện pháp tránh thai không đạt được nhiều thành công như mong đợi, vì từ nhiều năm nay, nhiều người vẫn được cung cấp miễn phí thuốc tránh thai, bao cao su. Sự khủng hoảng này là mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm, rất dễ dẫn đến bùng nổ dân số. Nguyên nhân:
Một là, đời sống của một số gia đình ngày càng giàu có hơn, vấn đề nuôi con không còn là gánh nặng nên có nhu cầu sinh thêm con.
Hai là, tư tưởng 'trọng nam khinh nữ' theo kiểu “chồng chúa, vợ tôi”, “xuất giá tòng phu”, “mười gái không bằng một trai” vẫn còn tồn tại trong một phần dân cư, đặc biệt là ở các vùng ven biển, nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, họ cho rằng con trai có trách nhiệm nhiều hơn con gái trong việc phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi về già và lo liệu ma chay, thờ cúng sau khi cha mẹ mất, đồng thời tâm lý sinh con trai còn để dự phòng trong trường hợp rủi ro (tai nạn, tệ nạn xã hội…).
Ba là, nhiều địa phương vẫn có cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên, đã ảnh hưởng không tốt đến phong trào vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Hiểu biết của các cặp vợ chồng về việc sử dụng các biện pháp phòng tránh thai vẫn còn hạn chế.
Tỉ lệ gia tăng tự nhiên dân số theo quy luật. Với sự phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, tỉ lệ chết ngày càng giảm, dẫn đến tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên (tỉ lệ sinh – tỉ lệ chết) tăng lên. Tỉ lệ sinh hiện nay ở Việt Nam ước tính là 15%, tỉ lệ chết xấp xỉ 5%, vì vậy, chỉ cần tính đơn giản cũng cho thấy, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên là 10%. Đây là con số cộng dồn ảnh hưởng đến mức tăng dân số của Việt Nam mỗi năm.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên dân số còn thiếu, chất lượng không đồng đều, nhiều địa phương cán bộ dân số phải đảm nhiệm khối công việc rất lớn, chế độ phụ cấp thấp. Mặc dù Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ cần có chính sách khuyến khích thỏa đáng tinh thần và vật chất cho đội ngũ này, song thực tế cho thấy, ngân sách của một số địa phương hiện nay huy động để hỗ trợ, khuyến khích cho lực lượng làm công tác dân số ở cơ sở vẫn còn hạn chế.
Nhận thức về công tác DS-KHHGĐ ở nhiều địa phương vẫn chưa đúng, chưa đồng đều, dẫn đến việc đầu tư nguồn nhân lực làm công tác này còn hạn chế. Chưa kể đến việc không có chế tài thống nhất xử lý các trường hợp sinh con thứ 3 trở lên, nên hầu hết các địa phương khó thực hiện. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ, còn phó mặc cho cán bộ chuyên trách cơ sở...
Sự thay đổi về tổ chức. Năm 2007, tổ chức bộ máy ngành dân số, gia đình và trẻ em đã có những thay đổi lớn. Việc giải thể Ủy ban DSGĐ&TE, sáp nhập bộ phận dân số về Bộ Y tế (nhưng 6 tháng sau mới có quyết định chính thức thành lập Tổng cục DS-KHHGĐ) đã ít nhiều làm xáo trộn tâm tư của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác dân số ở nhiều tỉnh/thành phố trong cả nước, đặc biệt là đội ngũ CTV, cán bộ chuyên trách ở cơ sở không khỏi băn khoăn, lo lắng. Một trong những khó khăn trước mắt, đó là làm sao duy trì ổn định lực lượng CTV dân số (7.200 người) tại các thôn, bản, xã, phường, những người đã bao năm lăn lộn với phong trào “đi từng ngõ, gõ từng nhà” vận động bà con thực hiện KHHGĐ. Nhờ có đội ngũ CTV dân số mà công tác DS – KHHGĐ của các tỉnh/thành phố đã được đẩy mạnh, tăng cường đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, nơi có mức sinh và tỉ lệ sinh con thứ 3 cao.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã góp phần vào sự mất cân bằng giới. Y học tiến bộ giúp cho việc sinh con theo ý muốn, dẫn đến tỉ lệ sinh bé trai tăng cao hơn. Thông qua các biện pháp như siêu âm và lựa chọn giới tính nhờ ăn uống, các cặp vợ chồng có thể chọn giới tính thai nhi theo mong muốn.
Hiện tượng mất cân bằng giới tính và gia tăng dân số đang quay trở lại có thể gây hậu quả tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Vì vậy, chúng ta cần có chiến lược đầu tư lâu dài cho công tác dân số – sức khỏe sinh sản. Giải pháp quan trọng nhất là tăng cường thông tin – giáo dục – truyền thông, đi đôi với việc sẵn sàng các dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ sức khỏe sinh sản lành mạnh. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, các sở, ban, ngành, đoàn thể về công tác dân số, trong đó trọng tâm là tạo sự chuyển đổi hành vi tự nguyện và bền vững về công tác dân số nói chung và sức khỏe sinh sản, KHHGĐ nói riêng. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, việc ổn định cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy mới sau khi tách nhập lĩnh vực DSGĐ&TE về các ngành cần được tiến hành nhanh chóng. Cần thực hiện chế tài về dân số một cách nghiêm túc. Cán bộ, công nhân viên chức nhà nước sinh con thứ 3 trở lên phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của Nhà nước; thành viên của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý theo quy định của quy chế, quy định của đoàn thể, tổ chức; đảng viên sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng. Ngoài ra, cần chú trọng việc biểu dương những tấm gương phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà để thay đổi cách nhìn nhận của nam giới về năng lực của người phụ nữ. Phụ nữ, họ không chỉ là những người chỉ giỏi việc nhà mà họ còn có khả năng làm rất tốt những công việc bên ngoài xã hội.
Thảo luận về vấn đề gia tăng dân số - Mẫu 4
Gia tăng dân số là một vấn đề rất quan trọng đối với đất nước chúng ta. Đây là vấn đề mà mỗi cá nhân cần quan tâm và có trách nhiệm, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Gia tăng nhanh chóng của dân số là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng bùng nổ dân số, gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Gia tăng dân số cũng có thể dẫn đến gánh nặng lên quỹ bảo hiểm xã hội cùng với hàng loạt vấn đề khác như tài nguyên thiên nhiên bị áp lực, vấn đề an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường và cung cấp lao động.
Vấn đề dân số có tác động lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ở một số nước phát triển, với dân số già và thiếu lao động, chính sách khuyến khích sinh đẻ đã được áp dụng để giúp các gia đình tự do hơn trong việc sinh con, thông qua các chính sách hỗ trợ chăm sóc bà mẹ và em bé, hỗ trợ tài chính cho việc đi học của trẻ em... Ngược lại, ở các nước có dân số đông và tỉ lệ gia tăng dân số cao, cần áp dụng các chính sách kế hoạch hóa gia đình để kiềm chế tốc độ tăng dân số. Một ví dụ nổi bật là Trung Quốc với chính sách một con mỗi gia đình, chính sách này mới được bãi bỏ vào năm 2015 sau 35 năm thi hành.
Ở Việt Nam, với tư tưởng trọng con cái như lộc trời cho, tư tưởng trọng nam kỳ nữ đã dẫn đến việc các gia đình sinh con mà không quan tâm đến kế hoạch, càng nhiều con càng được coi là có nhiều phúc. Điều này làm cho dân số nước ta tăng chóng mặt trong những năm gần đây. Tuy nhiên, chúng ta đã quan tâm đến vấn đề dân số và đã áp dụng nhiều biện pháp để thực hiện các chính sách này như tuyên truyền và thúc đẩy người dân thực hiện chính sách dân số. Áp dụng chính sách mỗi gia đình chỉ sinh tối đa 2 con và có các biện pháp xử phạt đối với những gia đình vi phạm kế hoạch này.
Là những thanh niên là tương lai của đất nước, các bạn trẻ cần nhận thức rõ ràng về hệ quả của tình trạng gia tăng dân số. Đồng thời, các bạn cũng cần hiểu được những vấn đề có thể phát sinh nếu dân số tăng quá nhanh, từ đó nhận thức trách nhiệm của mình đối với vấn đề này.
Về bản thân, mỗi bạn trẻ phải có nhận thức rõ ràng, tự chủ và hiểu biết. Không để mình bị cuốn vào những thói hư tật xấu, những lời dụ dỗ của các đối tượng xấu. Không quan hệ tình dục mà không sử dụng biện pháp an toàn. Thực hiện một cách nghiêm túc chính sách kế hoạch hóa gia đình. Tránh tình trạng xâm hại, cưỡng bức trẻ vị thành niên có thể xảy ra. Để không có tình trạng kết hôn với cô dâu chú rể còn rất trẻ, thậm chí còn dưới tuổi vị thành niên. Về cộng đồng xã hội, các bạn trẻ cần có kiến thức rõ ràng về vấn đề gia tăng dân số để tuyên truyền và thúc đẩy người dân thực hiện các chính sách dân số.
Vấn đề dân số là vấn đề của cả xã hội, đối với tất cả mọi người. Nếu chúng ta tiếp tục né tránh và rụt rè với những vấn đề này, tình trạng này sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Vì vậy, cách tốt nhất để ngăn chặn là hiểu rõ vấn đề và có ý thức chủ động trong việc thực hiện. Mỗi bạn trẻ đều là lao động tương lai của đất nước, là những phụ huynh tiếp theo, vì vậy hãy cùng nhau đóng góp ngay từ bây giờ để xây dựng một xã hội văn minh, đảm bảo cuộc sống và sự phát triển của con người được tốt nhất.
Nghiên cứu về vấn đề bùng nổ dân số ngày nay
Bùng nổ dân số là hiện tượng dân số tăng nhanh và đột ngột trong thời gian ngắn. Trên toàn cầu, bùng nổ dân số diễn ra mạnh nhất ở các nước và châu lục nghèo và ít phát triển nhất như Châu Á và Châu Phi. Một tỷ người, gần một phần sáu dân số thế giới hoặc một phần ba dân số đô thị, đang sống trong các khu vực đô thị nghèo nàn, được coi là 'mảnh đất màu mỡ' cho các vấn đề xã hội như tội phạm, ma túy, thất nghiệp và nghèo đói.
Ở các nước nghèo, các khu nhà ổ chuột có tỷ lệ dịch bệnh cao do điều kiện vệ sinh kém, suy dinh dưỡng, và thiếu các dịch vụ y tế. Nguyên nhân là sự chênh lệch giữa tỉ lệ sinh và tử: tỉ lệ sinh vẫn cao; tỉ lệ tử giảm do điều kiện sống cải thiện và y học phát triển. Đồng thời, còn nhiều quan niệm lạc hậu như sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, làm tăng tỉ lệ sinh và dẫn đến bùng nổ dân số. Hậu quả của bùng nổ dân số là suy giảm tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu toàn cầu, xung đột tài nguyên và gia tăng các nguy cơ bệnh tật, gánh nặng cho y tế, giáo dục và chính sách an sinh.
Để giải quyết vấn đề này, cần tăng cường giáo dục và tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về hậu quả của bùng nổ dân số, lợi ích của kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp kiểm soát sinh sản. Các quốc gia cũng cần có biện pháp kiểm soát tỷ lệ sinh. Chỉ khi có sự hợp tác của toàn cộng đồng, chúng ta mới có thể ngăn chặn và giảm thiểu tác động của bùng nổ dân số, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.