Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài Hịch tướng sĩ tuyển chọn 10 mẫu sáng tạo, kèm với dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn tình yêu đất nước và sự căm thù đối với kẻ thù của Trần Quốc Tuấn.
Hịch tướng sĩ như một lời nhắc nhở cho thế hệ sau thừa kế và phát huy mạnh mẽ tình yêu nước, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù của những người tiền nhiệm. Với 10 bài phân tích tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn dưới đây sẽ giúp các em hiểu rõ hơn và ngày càng tiến bộ trong môn Văn 8.
Sơ đồ tư duy Nghiên cứu lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn
Chi tiết thể hiện tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn
Tâm huyết với đất nước và căm thù kẻ thù của Trần Quốc Tuấn được thể hiện rõ qua những điểm sau đây:
- Mô tả cảm xúc đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan: 'Thường quên ăn, vỗ gối lúc nửa đêm; ruột đau như cắt, nước mắt tràn ngập”. Sự căm hận lớn đến cực điểm khi tác giả diễn tả sự tức giận của mình với kẻ thù: chỉ mong muốn hủy diệt hoàn toàn, nuốt chửng tất cả quân thù.
- Vị tướng đã xác định sẵn sàng hy sinh tất cả cho đất nước: “Dù trăm thân phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác gói trong da ngựa, ta vẫn hạnh phúc.”
Thông qua những lời chân thành và xúc động, những tâm tư, tình cảm sâu sắc của Trần Quốc Tuấn, ta có thể hiểu được lòng yêu nước và tinh thần căm hận kẻ thù cực kỳ mạnh mẽ của ông.
Bảng tổ chức phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn
I. Đầu bài:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
- Nêu vấn đề: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, một tác phẩm đậm chất yêu nước của vị tướng quân.
II. Nội dung chính:
1. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn biểu hiện qua lòng căm thù đối với kẻ thù.
- Trần Quốc Tuấn đã phơi bày tư duy xâm lược của giặc phương Bắc qua hình ảnh tên sứ giặc: “đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Kẻ thù đã xúc phạm đến quốc thể và niềm tự tôn dân tộc.
- Hai hình ảnh ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” cùng với từ gợi tả “nghênh ngang” đã thể hiện thái độ ngạo mạn, hống hách của giặc và khinh bỉ đối với sứ giặc của Trần Quốc Tuấn, khơi gợi ý thức dân tộc đối với các tướng sĩ.
- Giặc tìm đủ trăm phương ngàn kế để “đòi”, “thu”, “vét” tài sản quý báu của dân ta, bóc lột dân ta đến tận xương tủy.
- Tác giả gọi sứ giặc là “hổ đói” để tả sự tham tàn của chúng. Qua đó cho ta thấy cái nhìn sáng suốt và cảnh giác của vị chủ tướng.
2. Trong tâm hồn Trần Quốc Tuấn, lòng yêu nước biểu hiện qua nỗi lo lắng về vận mệnh đất nước, đau xót trước nỗi đau của nhân dân.
- “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Vị chủ tướng đang trải qua những ngày đêm căng thẳng. Không thể không lo lắng khi vận mệnh đất nước đang treo đầu sợi tóc? Nghe tiếng quân Mông thiện chiến, hung tàn nên không tránh khỏi tâm lí hoang mang.
- Là vị chủ soái nên trách nhiệm của ông càng nặng. Vì vậy, nỗi lo cứ thường trực trong lòng, cứ nặng trĩu cả ngày lẫn đêm. Đó là lời tâm sự sâu kín nhất mà ông bày tỏ với các tướng sĩ, mong họ hiểu mình, chia sẻ nỗi lo cùng mình và có ý thức trách nhiệm giết giặc cứu nước.
- Đó là thái độ căm phẫn, quyết không dung tha lũ giặc cướp nước “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Các động từ mạnh kết hợp với phép tăng cấp, thậm xưng đã diễn tả sâu sắc lòng căm thù giặc, quyết không đội trời chung với bọn giặc.
- Khép lại đoạn văn là lời nguyền của Trần Quốc Tuấn “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng” đã nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để rửa hận cho nước, rửa nhục cho dân, bảo vệ chủ quyền dân tộc, lấy lại danh dự cho triều đình.
3. Trần Quốc Tuấn thể hiện lòng yêu nước qua thái độ chăm sóc, quan tâm đối với các tướng sĩ dưới quyền.
- “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu, không có… lương ít thì ta cấp bổng…” ông quan tâm đến họ về nhiều mặt, kịp thời, sống có thủy có chung, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với họ.
- Để rồi từ đó tác giả phê phán thái độ bàng quan, vô trách nhiệm, ăn chơi hưởng lạc. Phê phán thật nghiêm khắc. Ông muốn họ hiểu rằng chiến đấu cho chính cuộc sống của họ.
- Bài hịch chứa đựng tình cảm yêu nước và khí phách anh hùng, đồng thời còn mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng đáng là áng văn thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học nước nhà.
III. Kết luận:
- Ngày nay, đất nước đang tiến vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ non sông gấm vóc mà tổ tiên đã dựng nên. Đọc lại những tác phẩm văn học bất hủ của dân tộc như một lời nhắc nhở cho thế hệ sau tiếp tục phát huy lòng yêu nước và quyết tâm đánh bại kẻ thù của tổ tiên.
Phân tích tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 1
Trần Quốc Tuấn, hay còn gọi là Hưng Đạo Vương, là một vị tướng lĩnh kiệt xuất, sở hữu niềm đam mê cả văn và võ, đã đóng góp không nhỏ cho dân tộc. Trước cuộc chiến chống lại quân Mông Nguyên lần thứ hai vào năm 1285, ông đã sáng tác bài 'Hịch tướng sĩ' để khích lệ và kêu gọi các tướng lĩnh hãy đứng lên bảo vệ quê hương. Từ bài văn này, ta thấy rõ tình yêu nước mạnh mẽ, cháy bỏng của vị tướng tài ba này.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài văn 'Hịch tướng sĩ' với những biểu hiện cảm xúc đa dạng.
Trong từng đoạn văn, Trần Quốc Tuấn đã gợi mở về những người anh hùng trong lịch sử Trung Quốc, khơi gợi tinh thần yêu nước cho các tướng lĩnh. Ông không chỉ kể về những vị tướng lĩnh nổi tiếng như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng mà còn nhắc đến những người bình thường như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Sự đa dạng trong việc nêu gương đã khích lệ được nhiều người, thể hiện rằng ai cũng có thể trở thành người trung nghĩa 'lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ'.
Trong bối cảnh thời loạn, Trần Quốc Tuấn đã lên tiếng chỉ trích sự hung ác của kẻ thù và bày tỏ lòng yêu nước cao cả. Ông tố cáo bộ mặt thật của kẻ thù, với những hành động coi thường dân ta, sỉ nhục triều đình và vua. Cảm xúc căm hận và khinh bỉ của ông được thể hiện qua các ẩn dụ như 'lưỡi cú diều', 'thân dê chó', 'hổ đói', đẩy sâu vào lòng tự ái dân tộc và khơi dậy lòng căm thù giặc trong tâm hồn các tướng lĩnh.
Trước tội ác của kẻ thù và nhục nhã của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng sâu thẳm của mình. Ông không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mạnh mẽ mà còn quyết tâm chiến đấu đến cùng, hy sinh thậm chí cả tính mạng để bảo vệ quê hương. Các trạng thái tâm lý và tình cảm trong đoạn văn được miêu tả một cách sâu sắc, từ nỗi ám ảnh không nguôi ngoai đến khao khát giết giặc, từ tình yêu nước rực cháy đến quyết tâm hi sinh.
Không chỉ là một vị tướng lĩnh kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn còn là người có lòng yêu thương và quan tâm đến các tướng sĩ dưới quyền. Ông không chỉ chia sẻ những khó khăn mà còn chỉ ra những hành động không đúng đắn của họ và nhắc nhở về trách nhiệm của một người lính trước vận mệnh quốc gia. Tất cả đều bắt nguồn từ tình yêu Tổ quốc cháy bỏng của ông, nhằm thức tỉnh tinh thần chiến đấu và bảo vệ độc lập cho Tổ quốc.
Cuối cùng ông đưa ra hai tưởng tượng: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến như một thứ như nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là 'chuyên tập sách này' - cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện 'mới chỉ là đạo thần chủ' còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân 'tức là kẻ nghịch thù'. Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.
Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ 'Sát Thát', họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.
'Hịch tướng sĩ ' của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.
Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 2
Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một 'thiên cổ hùng văn' bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.
Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là giọng văn hùng biện, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong lòng anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sôi động và lòng yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.
Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng tôn cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã hy sinh vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong dân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tướng, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ tự nhìn lại bản thân.
Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự tàn bạo của quân giặc. Ông đã phác họa bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, xót xa vừa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột rõ bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.
Trần Quốc Tuấn đã hiểu rõ tâm tư của kẻ thù, nhận thức sâu sắc nguy cơ của Tổ quốc, nguy hiểm của sự thất bại. Lời lẽ chân thành, thấu hiểu, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng người anh hùng đã hy sinh tất cả vì nước. Bởi thời kẻ thù mạnh, quân giặc tàn bạo, bất nhân còn thì nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, nguy cơ mất nước hiện hữu trước mắt khiến cho vị chủ tướng 'tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa', ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang xâm lược quê hương, muôn dân đang bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: 'căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù'. Vì đất nước 'dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa', ông cũng vui lòng.
Với bút pháp thông minh, tính cách ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thấu hiểu, hùng biện, phù hợp với ngôn ngữ của thể hịch văn, bài hịch có sức mạnh vang lên lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sôi động, căm thù của một trái tim lớn, chứa đựng cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được diễn đạt sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người như vậy.
Từ lòng căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là điều không thể tránh khỏi và phải được ưu tiên hàng đầu, thà chết chứ không làm tôi khuất phục. Đó là tinh thần của một dân tộc anh hùng. Trần Quốc Tuấn hiểu rõ rằng ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc cứu nước của thống soái toàn quân là quan trọng, nhưng không đủ để chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh đó phải đến từ sự đoàn kết, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc của cả dân tộc.
Trong khi tướng sĩ còn mải mê với thú vui cá nhân, quên mất nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Trần Quốc Tuấn đã nhắc nhở tướng lĩnh của mình một cách đau lòng và nghiêm khắc. Ông nhắc lại mối quan hệ mật thiết với tướng sĩ: không có áo thì ta cho, không có ăn thì ta cung cấp, quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cung cấp thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông cũng nhắc lại mối giao hòa với tướng sĩ như cha con trong mặc, cùng vui vẻ khi bình yên. Ông cũng chỉ trích lối sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc xâm lược quê hương: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết xấu hổ,...
Mỗi niềm vui cá nhân của tướng sĩ không phải là xấu, nhưng không thích hợp với hoàn cảnh hiện tại. Đất nước đang trong tình trạng nguy kịch, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù mạnh mẽ và hung dữ, trong khi tướng sĩ vẫn thờ ơ, điều đó có nghĩa là tự hủy hoại mình, đẩy bản thân vào sự đau khổ và nhục nhã. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, Trần Quốc Tuấn đã kích thích toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không chỉ là một mệnh lệnh mà còn là một lời tâm tình sâu sắc, đầy nước mắt. Tình cảm chân thành, tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn dành cho tướng sĩ là từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao.
Ông không chỉ chỉ ra những yếu điểm của tướng sĩ, mà còn chỉ ra nguy cơ dẫn đến thảm họa cho đất nước, gia đình và cá nhân, và cách để khắc phục nguy cơ đó. Với tầm nhìn sâu rộng và niềm tin vào sự thắng lợi của dân tộc, ông tin tưởng rằng nếu mọi binh sĩ đều hết lòng vì nước, chiến thắng là điều không thể tránh khỏi. Đó cũng là lời hứa của vị thống soái trước trời đất để huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc trong cuộc chiến với kẻ thù xâm lược.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước mạnh mẽ, lòng căm thù sâu sắc, quyết tâm chiến đấu, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Hịch tướng sĩ là một mẫu văn nghị luận, bất hủ với cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc sảo, logic, dẫn chứng phong phú và sinh động, với lời văn hùng biện, thấu hiểu và thuyết phục. Với bài hịch ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã tạo ra một tác phẩm văn học vĩ đại, vĩnh cửu.
Tranh luận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 3
Hưng Đạo vương là con trai của vị vua Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông, ông là một tướng lĩnh tài ba và là một anh hùng yêu nước sâu sắc. Tác phẩm 'Hịch tướng sĩ' đã thể hiện mạnh mẽ tình yêu nước và trách nhiệm của ông trước mối nguy ngoại xâm.
Trong nửa cuối thế kỷ XIII, trong vòng ba mươi năm (1257 - 1287), giặc Mông - Nguyên đã ba lần xâm lược nước ta. Thời điểm đó, thế lực của giặc rất mạnh mẽ, để đánh bại họ, cần sự đồng lòng và ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này để kêu gọi, khích lệ tướng lĩnh và binh sĩ hết lòng chống giặc vì nước.
Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn hiện rõ nhất ở sự căm phẫn của ông trước hành vi hèn nhát của quân giặc trên đất nước: 'Lén nhìn quân Mông đi ra ngoài đường với vẻ mặt kiêu ngạo, vẫy tay chế giễu triều đình; lấy thân dê chó để coi thường tổ tiên. Lấy ra lệnh Hốt Tất Liệt để thỏa mãn lòng tham lam không ngừng; đeo hiệu Vân Nam Vương để lấy bạc vàng, để lấy của cải có hạn. Như thả thịt cho hổ đói, tránh không khỏi tai ương trong tương lai'. Ông đã chỉ trích tội ác của kẻ thù bằng cách sử dụng ngôn từ căm phẫn. Những so sánh này gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, ông xem quân giặc như một bọn dê chó, hổ đói và bày tỏ căm phẫn đến tận cùng. Là một tướng lĩnh, ông không chỉ căm hận việc quân giặc xâm lược đất nước, mà còn 'Ta thường quên ăn, vỗ gối vào nửa đêm, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù'. Những từ ngữ này thể hiện rõ lòng trung thành của một tướng lĩnh đối với dân tộc, đất nước.
Bằng tình yêu nước, lòng thương dân và ý thức trách nhiệm với quê hương, ông đã khích lệ binh lính dưới quyền và chỉ cho họ con đường chính xác để họ đoàn kết, đoàn kết và chống lại quân thù. Đối với ông: 'Quân giặc Mông không phải là người đồng lòng, và các người không chỉ đòi hỏi việc rửa nhục, loại bỏ nguy hiểm, mà còn không dạy dỗ binh sĩ, nhưng chỉ muốn nộp đầu mà đầu hàng, nhưng không chịu thua cuộc trước giặc. Trong tương lai, sau khi đàn áp các tên cướp, để cho họ xấu hổ mãi mãi, có còn mặt mũi nào đứng dậy trong thiên hạ này nữa không?'
'Hịch tướng sĩ' xứng đáng là một tác phẩm nổi bật. Không chỉ là một bài hịch thông thường với nội dung quân sự mà nó còn truyền tải sự nhiệt huyết yêu nước và tinh thần trách nhiệm của tác giả trước sự xâm lược từ bên ngoài.
Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 4
Trước sức mạnh của ba mươi vạn quân Nguyên lần thứ hai xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn đã viết bài Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước và quyết chiến của các tướng sĩ. Tác phẩm này không chỉ là một bài diễn thuyết vĩ đại mà còn 'thể hiện sâu sắc tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của tác giả trước sự xâm lược từ bên ngoài'.
Như đã phân tích, bài Hịch tướng sĩ đã rõ ràng thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của người dân trước tình hình đất nước bị xâm lược.
Với tình yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể làm ngơ trước những hành động thô bạo của sứ giả nhà Nguyên. Ông đã tức giận gọi họ là lũ diều hâu dê chó, hổ đói, để biểu lộ sự căm thù và khinh bỉ. Bằng lối văn sắc bén và rõ ràng, Trần Quốc Tuấn đã vạch mặt những kẻ giả dối, tham lam, muốn chiếm đoạt tài nguyên của đất nước.
'... tìm kiếm mọi cách để đạt được ngọc lụa; để thỏa mãn lòng tham vô đáy, sử dụng hiệu ứng Vân Nam Vương để thu thập bạc vàng, nhằm kiếm lợi từ tài nguyên hạn chế trong kho...'
Với lòng yêu nước sâu sắc, Trần Quốc Tuấn đã hy sinh giấc ngủ và bữa ăn, đau khổ vì không có cơ hội 'đánh thù, trừng trị, và trả đũa cho quân thù' như ý. Ông sẵn lòng hi sinh, để Tổ quốc đạt được độc lập, tự do. Ông viết: Dẫu cho trăm xác này chôn vùi trong đất, nghìn cơ thể này gói gọn trong da ngựa, ta cũng vui lòng'.
Dễ hiểu rằng nếu không có tình yêu nước mãnh liệt, Trần Quốc Tuấn sẽ không cảm thấy nỗi căm hận và tức giận đến như vậy!
Ngoài ra, trong bài Hịch tướng sĩ, ông còn tôn vinh tinh thần trách nhiệm của chính trị gia trước tình hình hiểm nguy của Tổ quốc bằng cách chỉ trích mạnh mẽ thái độ bất cần của các quan chức chỉ biết tận hưởng cuộc sống sung sướng.
Ông đã thông qua lời viết khéo léo để thể hiện tình cảm yêu thương đối với các tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng lòng chịu khó của mình để kích thích lòng nhiệt tâm của họ. Câu từ của ông đong đầy cảm xúc và sâu lắng: '.. nếu thiếu áo, ta sẽ tặng áo; nếu đói, ta sẽ cung cấp cơm, thấp thế vị, ta sẽ thăng chức, lương thấp, ta sẽ trợ cấp...'
Tiếp theo, bằng những hình ảnh cảm động và biểu tượng, ông đã mô tả những hậu quả nghiêm trọng, không chỉ đối với bản thân mình mà còn đối với gia đình của những tướng lĩnh thiếu trách nhiệm đó, khi mà quốc gia rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng cấu trúc 'không chỉ ... mà... cũng' lặp lại, ông nhấn mạnh những hậu quả đáng sợ, những đau khổ mà nhân dân phải chịu khi mất quốc gia, khi Tổ quốc mất đi sự độc lập, tự do:
'... Không chỉ tài sản của chúng ta mất mà còn tài sản của các ngươi cũng biến mất; không chỉ quan hệ gia đình của chúng ta tan rã mà còn vợ con của các ngươi gặp nạn, không chỉ phần đất tổ tiên của chúng ta bị bóc lột, mà cả mộ của cha mẹ các ngươi cũng bị phá hủy...
Tinh thần trách nhiệm của ông cũng được thể hiện qua việc ông soạn thảo Binh thư yếu lược để huấn luyện các tướng lĩnh. Với ông, yên bình của đất nước phụ thuộc vào việc mỗi người phải làm tròn bổn phận của mình, phải thực hiện các biện pháp quân sự phù hợp từ mọi thời đại để chống lại quân thù, đánh bại kẻ thù. Trần Quốc Tuấn đã thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của một chỉ huy trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên. Chính tinh thần yêu nước mãnh liệt và trách nhiệm cao của ông đã thúc đẩy lòng dũng cảm và chiến thắng trong tâm hồn của các tướng lĩnh thời đó.
Bằng cách nhìn nhận sâu sắc tâm lý độc ác của kẻ thù, ông đã nhận biết được mối nguy của Tổ quốc, và đã chỉ ra sự liên kết giữa số phận của mỗi quan lãnh đạo với kết quả của cuộc chiến; lợi ích cá nhân của họ là một phần không thể tách rời khỏi lợi ích của Tổ quốc. Vì vậy, bài Hịch tướng sĩ thể hiện một tinh thần yêu nước sâu sắc và chân thành, một ý thức rõ ràng và trách nhiệm cao độ của Hưng Đạo Đại Vương đầy lòng yêu nước...
Phân tích về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 5
Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người được vua Trần giao trọng trách lãnh đạo quân đội, đã dẫn dắt chiến dịch chống lại quân Mông - Nguyên thành công rực rỡ. Ông nổi tiếng với việc trọng dụng nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một anh hùng dân tộc, một nhà tài chính quân sự tài năng, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua bài văn 'Hịch tướng sĩ', văn bản động viên tướng lĩnh học tập quyển 'Binh thư yếu lược' mà ông biên soạn.
Trước nguy cơ đất nước gặp nguy nan, tình yêu nước chân thành của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua sự căm hận mãnh liệt với quân thù xâm lược. Hãy lắng nghe ông kể tội ác của kẻ thù: 'Thấy sứ giặc đi dạo ngoài đường, uốn lưỡi mắng chửi triều đình, dùng thân dê chó để đùa giỡn tể phụ, đòi ngọc lụa của Hốt Tất Liệt, để thỏa lòng tham không kềm chế, giả vờ là Vân Nam Vương để lấy vàng bạc, lấy của cải có hạn, như thể đang nuôi hổ đói, nhằm tránh tai họa trong tương lai!'. Tác giả gọi quân giặc là 'đám dê chó, hổ đói' không chỉ làm sáng tỏ lòng tham lam, độc ác mà còn tiết lộ bản chất xâm lược của kẻ thù; thể hiện sự khinh bỉ, căm hận tận cùng. Không chỉ nêu bật tội ác của kẻ thù mà Trần Quốc Tuấn còn phản ánh sự đau xót trước sự nhục nhã của quốc gia, nỗi đau thương xót. Đó là biểu hiện của sẵn lòng hy sinh để làm sạch danh dự cho quốc gia, để bảo vệ sự độc lập của dân tộc, khao khát hy sinh cho đất nước: 'Chỉ cần chưa thể xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu của quân thù. Dù trăm xác phơi ngoài mặt đất, nghìn thân gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng'.
Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ biểu hiện lòng căm hận mãnh liệt với quân giặc xâm lược mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết hy sinh cho độc lập của dân tộc. Ông chỉ ra hai con đường chính - tà là một con đường sống chết để thuyết phục tướng lĩnh. Trần Quốc Tuấn tỏ ra rất quyết đoán: hoặc là giặc hoặc là ta, không có chỗ cho những kẻ thờ ơ trước hoàn cảnh. 'Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ yên bình không lo dành, không lo diệt, không lo dạy quân sĩ, không lo trừng phạt, không khác nào bẻ cong mũi giáo để nộp đầu giặc, giơ tay để chịu thua giặc. Nếu vậy thì sau này khi giặc đã bị đánh bại, mãi mãi đáng lẽ phải xấu hổ, còn mặt nào đứng nổi trên thế gian nữa chứ?', đó là lời động viên cao nhất cho ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.
Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn là kết quả của lòng nhân từ, từ tình yêu nước sâu sắc. Đối với quân lính dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn coi họ như con của mình, như người thân: 'Các ngươi đã cùng ta cầm binh quyền từ lâu, không có áo, ta cho áo; không có cơm, ta cho cơm; quan nhỏ, ta thăng chức; lương ít, ta cấp bổng; đi trên thủy, ta cho thuyền, đi bộ, ta cho ngựa; khi ra trận, ta cùng nhau sống chết, khi ở nhà thì cùng nhau vui vẻ'. Đó là một mối quan hệ thân thiết giữa lãnh đạo và tướng lính, nhằm khuyến khích ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với vua tổ quốc cũng như lòng nhân ái. Chính tình yêu thương chân thành và tha thiết của Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra những hành động cần làm, đồng thời phê phán những hành vi sai lầm, từ đó hướng dẫn tướng sĩ vào con đường đúng đắn. Những hành động này đều phát sinh từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự lo lắng trước tình trạng tướng lính không hiểu biết về lợi ích quốc gia: không có ý thức về tình hình, không biết xấu hổ khi nhà vua và quốc gia bị đối thủ làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, ham giàu, mê trò săn bắn, say mê rượu chè, mê mải nghe nhạc,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có quân Mông Nguyên xâm lược: 'Dao găm sắc không thể đâm vượt qua áo giáp của kẻ thù, mưu kế không thể dùng trong quân sự; dù có nhiều ruộng đất, nhiều vườn cây, giá trị ngàn vàng cũng không thể mua được sự sống, quả thật nguy hiểm!'. Chính tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra những hành động cần làm cho tướng lính: 'Hãy nhớ rằng việc 'đặt lửa vào trong đống củi đông là nguy cơ, cần phải 'nhắc nhở người ấm để nguội' để khiến họ sợ hãi. Huấn luyện quân lính, rèn kỹ năng cung tên'...
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam nói chung và của Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược ngoại bang. Nó thể hiện qua lòng căm thù đối với kẻ thù, ý chí quyết định, quyết chiến và tình cảm dành cho tướng lính dưới trướng.
Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 6
Tình yêu nước luôn là nguồn cảm hứng không ngừng trong văn học. Trong bối cảnh cuộc xâm lược lần thứ hai của quân Mông Nguyên, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện sâu sắc tình yêu nước và trách nhiệm của một vị tướng trước mối đe dọa từ ngoại bang.
Đầu tiên, Hịch tướng sĩ là một tác phẩm văn phong phong phú, đầy tinh thần yêu nước. Tình yêu nước ấy được thể hiện rõ qua sự căm ghét sâu sắc với kẻ thù. Bằng những từ ngữ sinh động, biểu hiện ẩn dụ tài tình, hình thức thú vị, quân giặc hiện lên như một bức tranh rõ nét, tham lam và hung ác: đi lại ngạo nghễ, uốn lưỡi lố bịch mắng chửi triều đình, dùng thân dê chó để hành hạ tể phụ, thách mệnh Hốt Tất Liệt để đòi ngọc lụa, giả danh Vân Nam Vương để thu gom vàng bạc, lấy cắp của kho dự trữ. Từ việc phơi bày bản chất ác ôn, hèn hạ của quân giặc, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh lòng căm thù sâu sắc và lòng tự hào dân tộc.
Ngoài ý thức về sự sống còn của quốc gia, dân tộc trước nguy cơ xâm lăng, Trần Quốc Tuấn còn chịu trách nhiệm với hòa bình của đất nước, con người. Qua nghệ thuật ẩn dụ, so sánh và lối nói giàu hình tượng, phóng đại, chúng ta có thể hiểu sâu sắc tâm trạng đau đớn đến tột độ của vị tướng: 'Ta thường quên ăn bữa, nửa đêm vật vã trên gối, ruột đau như cắt, nước mắt lăn dài. Chỉ cần căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dù có trăm xác bên ngoài nội cỏ, ngàn thân gói trong da ngựa ta cũng sẵn lòng'. Sử dụng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ sâu sắc, phóng đại thường thấy trong văn học cổ điển, tác giả đã trực tiếp thể hiện tâm trạng của mình. Đó là tâm trạng đau đớn, lo lắng, đau khổ vì số phận của quê hương, đất nước. Cuối cùng, tâm trạng này cũng phát sinh từ trách nhiệm cao cả của tác giả, không thể làm ngơ trước nguy cơ quê hương rơi vào tay kẻ thù.
Với sự căm thù mãnh liệt với kẻ thù, tác giả mong muốn trừng trị quân giặc bằng những biện pháp kinh khủng nhất: xả thịt, lột da, uống máu mới làm dịu lòng tức giận. Mỗi câu, mỗi chữ trong đây đều là một phần của tấm lòng và tâm huyết của vị Quốc công kiên nhẫn, khiến người đọc không khỏi xúc động, cảm thông sâu sắc. Từ trách nhiệm và bổn phận của mình, tác giả tôn cao ý chí quyết đoán, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ và báo đáp đất nước. Tinh thần đó được ông truyền bá cho tướng lĩnh để động viên ý chí chiến đấu của họ. Ông thể hiện một thái độ dứt khoát, rõ ràng: 'Kẻ thù với chúng ta không có gì là đối xứng, các ngươi không lo rửa nhục, không lo trừng phạt, không dạy dỗ quân sĩ, không học hỏi. Điều đó giống như nắm giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua kẻ thù. Nếu như vậy, sau khi kẻ thù đã bị tiêu diệt, họ cũng sẽ bị nhục nhã mãi mãi. Còn ai dám đứng trên thế giới sau này?'.
Với binh lính dưới quyền, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị chủ tướng mà còn như một người cha, luôn quan tâm, lo lắng cho họ: chia sẻ cơm áo, gánh nặng và niềm vui, đồng cam cộng khổ, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Ông cũng không quên phê phán những hành vi tiêu khiển, thú vui xa hoa và ý nghĩ ích kỉ sẽ gây hậu quả đáng tiếc cho gia đình, đất nước và chính bản thân họ. Từ đó, ông khuyến khích họ tăng cường sự cảnh giác, rèn luyện tích cực, và sẵn sàng chiến đấu.
Bài hịch kết hợp hoàn hảo giữa luận điểm và nghệ thuật văn chương đã thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của vị chủ tướng, cũng như của dân tộc trong thời đại đó. Vì vậy, tác phẩm này vẫn là một phần quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Cảm nhận về tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong bài Hịch tướng sĩ
Nếu được sống trong thời kỳ đầy sóng gió năm 1284 - 1285 và đọc bài hịch này, chắc chắn không ai có thể kìm nước mắt. Khi kết thúc bài hịch, Trần Quốc Tuấn chia sẻ: Tôi viết bài này để mọi người hiểu về lòng trung thành của tôi.
Có lẽ ông mong muốn người đọc, người nghe không chỉ thức tỉnh bởi những lý lẽ sắc sảo, mà còn bởi tấm lòng đang lo lắng của một người chủ tướng dành cho vận mệnh của đất nước. Vào thời điểm đó, văn chương luận điểm vẫn chưa hoàn toàn tách biệt từ lịch sử, triết học, chính trị (văn – sử – triết); văn nghị luận vẫn chưa rời khỏi văn tự sự, trữ tình. Ông đã thuyết phục bằng trí tuệ, lập luận, nhưng cũng bằng những hình ảnh sống động và cảm xúc chân thành, mãnh liệt.
Có đoạn văn khơi lên nỗi đau thương, xót xa, có đoạn lấp lửng căm hờn, lời văn đầy nghẹn ngào, sôi động. Mỗi từ như một lời thề thiêng liêng, một quyết tâm sắc bén.
Đối với tướng lãnh, trái tim rộng lớn ấy lại nhân hậu vô cùng. Sự quan tâm, chăm sóc của ông thực sự tỉ mỉ, cụ thể, kịp thời, từng việc, từng người, nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác... như cha con, anh em ruột thịt một nhà. Khi phê phán, trách móc, chế giễu, sỉ nhục tướng sĩ dưới quyền khá nặng nề, vẫn thấy tấm lòng từ bi, độ lượng, lòng bao dung và tầm nhìn xa rộng của Đại vương. Đặc biệt, ông luôn gắn mình với tướng sĩ: ta cùng các ngươi, không chỉ thân ta... mà còn các ngươi... cùng sống chết, cùng đau đớn biết bao lâu, cùng vui cười... cao hơn tất cả cái sống, cái chết của mỗi người là một khối đoàn kết toàn quân, toàn dân mà Hưng Đạo vương là người có công đầu xây dựng. Đó chính là sức mạnh tinh thần quan trọng nhất để quân dân nhà Trần quyết đánh và quyết thắng.
Càng về phần cuối của bài hịch, giọng văn càng trở nên thiết tha, mạnh mẽ. Từ tâm hồn, tình cảm dần chuyển sang ý chí, quyết tâm. Vị chủ tướng đã thể hiện quyết tâm sắt đá, ý chí lớn lao, tin tưởng ở tướng sĩ, tin vào chính mình. Những lời răn dạy càng cụ thể, thiết thực: thái độ ứng xử, hành động khẩn trương... Ông đã truyền cho toàn quân khí thế Sát Thát hừng hực, một niềm tin tất thắng không gì lay chuyển nổi.
Chứng minh lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua Hịch tướng sĩ
Từ hàng ngàn năm lịch sử văn hiến của dân tộc, mảnh đất màu mỡ này đã trải qua nhiều biến cố, nhiều lần chịu sự bái bảo của quân ngựa phương Bắc, gánh chịu nhiều lần đạn bom của thực dân đế quốc. Tuy nhiên, dân tộc ta vẫn tồn tại, chính là nhờ vào truyền thống yêu nước sâu sắc, đã trở thành máu thịt của nhân dân không bao giờ phai nhạt. Tấm lòng yêu nước ấy cũng được thể hiện trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, một vị công thần, một tướng lĩnh tài ba với tình yêu nước và lòng trân trọng dân tộc vô biên.
Trước hết, Trần Quốc Tuấn quay lại lịch sử, nhắc nhở về những sự kiện, những nhân vật trung dung, dũng cảm đã hy sinh bản thân để bảo vệ và cứu chủ tướng của mình. Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh... là những anh hùng trung trực, được dân chúng và chủ tướng kính trọng. Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh rằng từ xưa đến nay, những trung thần nghĩa sĩ hy sinh vì nước không phải là chuyện hiếm.
Trở lại với hiện thực của Đại Việt, một đất nước đang chịu đựng sự loạn lạc, lầm lạc, Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự căm ghét đối với giặc địch qua những từ ngữ như: 'Nhìn thấy kẻ giặc tự phong, tự nổi đi ra ngoài đường, vênh mặt đái tai cúi mình sỉ nhục triều đình, mang cơ thể con dê chó để bắt nạt quý phụ tử'.
Nỗi căm ghét sâu sắc đó khiến tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn càng trở nên sôi động, dày công, 'đến nỗi quên ăn, nửa đêm vẫn vùng gối, ruột đau đớn như bị cắt ra'.
Chính lòng yêu nước và quyết tâm diệt giặc của ông đã thúc đẩy ông viết ra bài hịch, thể hiện lòng biết ơn và sự kiêu hãnh với dân tộc, với quê hương.
Tuy đã khích lệ tinh thần yêu nước và thù giặc, nhưng Trần Quốc Tuấn không dừng lại ở đó. Ông tiếp tục động viên binh lính bằng những lời chân thành và sâu sắc, nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc chuẩn bị trước mọi nguy cơ, để bảo vệ đất nước và dân tộc.
Tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn không chỉ sâu sắc mà còn đáng kính trọng. Ông không chỉ là một tướng quân xuất sắc mà còn là một nhà văn có tài, những lời ông nói thuyết phục và gợi mở sự tự tôn dân tộc, khích lệ lòng yêu nước của mọi người.
Bài Hịch tướng sĩ thể hiện rõ lòng yêu nước sâu sắc của Trần Quốc Tuấn và quyết tâm chống lại kẻ thù. Ông gợi mở về lòng căm thù sâu sắc và sự quyết tâm dẹp giặc, đồng thời thể hiện tình yêu và lo âu vô hạn cho đất nước.
Bài hịch của Trần Quốc Tuấn gợi lên nỗi đau, sự uất hận của một vị tướng khi nhìn thấy đất nước bị giặc địch xâm lược và dân tộc bị bóc lột. Ông kêu gọi binh lính phải dốc lòng chiến đấu, vì chỉ có bằng lòng yêu nước và sự đoàn kết mới có thể chống lại kẻ thù.
Bài hịch của Trần Quốc Tuấn không chỉ là lời kêu gọi chiến đấu mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước sâu sắc và sự quyết tâm của một người lính đối với quê hương. Ông đã thể hiện rõ ràng sự kiên trì và quyết tâm của mình trong cuộc chiến vì tự do và độc lập.
Trong hoàn cảnh đất nước gặp nguy hiểm, Trần Quốc Tuấn không thể lờ đi. Ông thể hiện lòng quyết tâm và hy sinh, khơi gợi tinh thần chiến đấu của binh lính, góp phần vào sự thắng lợi của quốc gia.
Bài Hịch tướng sĩ là lời kêu gọi cùng nhau đấu tranh để bảo vệ đất nước. Trần Quốc Tuấn chỉ ra những sai lầm của binh lính và kêu gọi họ phải tự hào vì đất nước, không chịu đau đớn mà không biết lo, không chịu nhục mà không biết thẹn.
Trích đoạn này thể hiện tấm lòng quyết tâm và sự cam kết chiến đấu của Trần Quốc Tuấn. Bài hịch gợi lên lòng kiên định và sự chống lại kẻ thù một cách quyết liệt, với sự thống nhất giữa lý lẽ và cảm xúc.
Đây là một bài hịch chứa đựng tình cảm sâu lắng, không chỉ là lời kêu gọi mà còn là sự kể lại của một người lính yêu nước. Được viết bằng tất cả tâm huyết, bài hịch thể hiện lòng dũng cảm và quyết tâm của một người lãnh đạo.
Cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn là sự kiên định và quyết tâm trong cuộc chiến vì tự do và độc lập của đất nước.
Trần Quốc Tuấn, vị tướng tài ba, vừa có tài vừa có lòng yêu nước. Tác phẩm 'Hịch tướng sĩ', là nguồn động viên tinh thần cho binh lính trước trận chiến với quân Mông. Ông đã khéo léo kết hợp lý lẽ và cảm xúc trong bài hịch, gợi lên niềm kiêu hãnh và sự hy sinh cho tổ quốc.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là biểu tượng của lòng yêu nước và sự quyết tâm đánh đuổi kẻ thù. Ông không chỉ tố cáo tội ác của quân Mông mà còn khích lệ lòng căm thù giặc của toàn dân. Bài hịch thể hiện sự kiên cường và dũng cảm trong cuộc chiến với giặc.
Trong bối cảnh quốc gia đang gặp nguy hiểm, Trần Quốc Tuấn không ngừng lo lắng và hy sinh. Ông gợi lên tinh thần quyết tâm và lòng yêu nước cao cả, khích lệ binh sĩ chiến đấu vì tổ quốc.
Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng xuất sắc mà còn là người biết quan tâm và yêu thương binh sĩ. Ông luôn động viên, chia sẻ và khuyến khích họ trong mọi hoàn cảnh, từ trận mạc đến thời bình.
Ông Trần Quốc Tuấn đã dạy dỗ binh sĩ không chỉ về chiến thuật mà còn về tinh thần và trách nhiệm. Ông nhấn mạnh về cảnh giác, đoàn kết và rèn luyện để đối phó với nguy cơ từ bên ngoài.
Bằng văn bản “Hịch tướng sĩ”, Trần Quốc Tuấn đã chứng minh tài ba của mình không chỉ trong quân sự mà còn trong văn chương. Ông là biểu tượng của lòng yêu nước và những chiến công vang dội của dân tộc.