TOP 14 bài Phân tích Đi đường SIÊU HAY, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp học sinh lớp 8 hiểu rõ ý chí quyết tâm và tinh thần lạc quan, yêu đời của những chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ Đi đường đã chân thực miêu tả những gian khổ, khó khăn mà những người tù cách mạng phải trải qua, đồng thời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Mời bạn cùng đọc để có thêm vốn từ và nâng cao kỹ năng học môn Văn 8:
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh
- Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Đi đường
- Dàn ý phân tích bài thơ Đi đường (2 mẫu)
- Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh (14 mẫu)
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Đi đường
Dàn ý phân tích bài thơ Đi đường
1. Mở bài
- Khái quát vài nét tiêu biểu về cuộc đời và tài năng của chủ tịch Hồ Chí Minh
- Khái quát về bài thơ Đi đường: miêu tả chân thực những gian khổ mà người tù phải đối mặt, thể hiện tinh thần của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh, và phản ánh ý nghĩa triết lí cao cả.
2. Thân bài
a. Câu 1
- “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan”: Khi đi trên con đường mới, người ta nhận thấy khó khăn: Đây không chỉ là mô tả về con đường mà còn là sự phản ánh sâu sắc về cuộc sống.
- Điều này nhấn mạnh rằng chỉ khi trải qua, người ta mới hiểu được những khó khăn của cuộc sống.
⇒ Đây là biểu hiện của con đường Cách mạng, một con đường đầy khó khăn và thử thách
b. Câu 2
- Câu thơ mô tả rõ những khó khăn, gian khổ mà người tù phải đối mặt “chông gai chi ngoại hựu chông gai”
- Câu thơ mang ý nghĩa rằng có rất nhiều khó khăn, mỗi khó khăn đều liên tục, không ngừng nghỉ
- “hựu chông gai”: nghĩa là khó khăn không chỉ không giảm đi mà còn tăng lên
⇒ Ý của “chông gai” cùng với từ “hựu” làm tăng sự gian khổ, khó nhọc, hiện hữu trước mắt độc giả những khó khăn cao nguyên trùng trùng
c. Câu 3
- “Chông gai leo cao đến đỉnh cao cuối cùng”: Miêu tả tình hình vượt qua mọi khó khăn, gian nan để “đạt đến cùng”: Mọi gian khổ sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ qua đi
- Biểu hiện rõ ràng trong tứ thơ cổ điển “leo cao” và phong cảnh rộng lớn, ung dung chiếm lĩnh cảnh vật, hòa mình vào vũ trụ bao la
- Con người như so sánh với thiên nhiên vũ trụ, ung dung giữa trời đất, không phải là hình ảnh của một người tù bị giam cầm mà là một tâm hồn tự do
⇒ Chỉ khi trải qua gian khổ mới đạt được mục tiêu, và càng gian khổ thì càng gần đến mục tiêu hơn
d. Câu 4
“Vạn lí dư đồ cố miện gian”: Lúc này người đi đường như một du khách ung dung say sưa ngắm nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la, ngắm lại những gì mình đã trải qua => Con người làm chủ thiên nhiên, đất trời
⇒ Từ việc đi đường, bài thơ truyền đạt một sự thật cuộc sống rằng vượt qua khó khăn mới đạt được thành công
3. Kết bài
- Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo
...
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 1
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ được lòng dân tộc, không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn là một thi nhân tài ba. Sự nghiệp sáng tác của Người, đặc biệt là tập thơ 'Nhật kí trong tù', là biểu hiện của tinh thần bất khuất trong gian khổ.
Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi Hồ Chí Minh bị giam giữ tại nhà tù Tưởng Giới Thạch, di chuyển từ một nhà lao này sang nhà lao khác. Trong tình thế khó khăn đó, dù gian lao có thể làm chùn bước chân người tù, nhưng với ý chí mạnh mẽ, Người không khuất phục, mà còn dùng lời thơ ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ và thôi thúc ý chí của mình.
Hồ Chí Minh, trong thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt mà Người ưa thích, đã vẽ lên bức tranh hiện thực và tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ 'Đi đường':
'Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trùng trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'
Dịch thơ:
'Đi qua gian khó mới biết đường đi
Núi cao nối tiếp núi cao, vẫn cao vút
Núi cao đỉnh đến đáy, cuối cùng cũng thu hẹp trong tầm nhìn
Trải qua gian lao, thử thách, chắc chắn sẽ nhìn thấy bề dày vô tận của nước non'
Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:
'Đi đường mới biết gian lao'
(Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan)
Để hiểu được điều này, Hồ Chí Minh chắc chắn đã phải trải qua biết bao gian khó, bao nhiêu đường đau đớn trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Mỗi bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê chân người tù Cách mạng khiến Người càng cảm nhận rõ hơn sự khó khăn.
Chỉ với một câu thơ ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại hình ảnh của một người tù đang vất vả lê bước trên đường gập ghềnh, và để nhắc nhở rằng: Trong cuộc sống, chỉ khi trải qua gian lao, mới thấu hiểu được mệt mỏi trong công việc.
Câu thơ đầu đã khiến người đọc cảm thấy bồi hồi về những vất vả trong ngục tù. Và câu thứ hai càng làm cho chúng ta thêm thấu hiểu về những khó khăn đó.
'Núi cao rồi lại núi cao trập trùng'
(Trùng san chi ngoại hựu trùng san)
Trên con đường chuyển lao đầy gian truân ấy, Bác không chỉ trải qua những gian khổ và khó khăn, mà còn phải vượt qua đỉnh núi cao. Với đôi chân gượng gạo, Người vượt qua mỗi đỉnh núi nhưng không ngừng gặp thêm những đỉnh núi tiếp theo. 'Núi cao' lặp đi lặp lại trong câu thơ, tạo nên cảm giác của sự vô tận và khó khăn.
Ngay cả với khách bộ hành bình thường, đường đi đã đầy khó khăn. Bác Hồ lại phải đối mặt với những gian khổ hơn, vượt qua những đỉnh núi cao liên tiếp, thể hiện ý chí kiên cường của một người lãnh đạo Cách mạng.
Hai câu thơ đầu khiến người đọc thấy hình ảnh của con đường gập ghềnh và những đỉnh núi cao. Đây là thử thách của cuộc đời dành cho những người có ý chí kiên cường như Bác Hồ.
Hai câu thơ cuối lại mang một sắc thái khác lạ. Chúng ta cảm nhận được sự khác biệt trong cách tiếp cận vấn đề giữa hai giai đoạn khác nhau của bài thơ.
'Núi cao vươn tới trời xanh rộng lớn
Trải dài vô tận trước mắt ta'
Dịch thơ:
(Cao nguyên bao la vươn mãi tới tận chân trời
Mắt ngắm xa ngút ngàn non nước)
Hình ảnh núi non vẫn hiện lên kiêu hùng, nhưng không thể cản trở bước chân của người Cách mạng với quyết tâm kiên định, quyết tâm chinh phục đỉnh cao nhất. Nhịp thơ ở đây vẫn nhanh nhưng mạnh mẽ hơn, thoảng trong đó là hơi thở dồn dập của người tù khi đang cố gắng bước nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan tỏa khắp câu thơ, mỗi từ càng thêm mạnh mẽ, càng khẩn trương, dồn dập hơn nữa:
'Núi cao vươn tới trời xanh rộng lớn'
(Cao nguyên bao la vươn mãi tới chân trời)
Đọc tới dòng thơ cuối cùng, ta cảm nhận được hạnh phúc tràn đầy, phấn khích khi đã vượt qua 'tận cùng' của 'núi cao'. Đến khi đọc dòng thơ cuối cùng, người tù nhân thở một hơi sảng khoái, hạnh phúc đến lạ kỳ:
'Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'
(Nhìn ra mênh mông vô tận của cảnh đẹp núi rừng)
Trong dòng thơ thứ ba, đọc giữa nhịp thở dồn dập của Người, ai cũng không khỏi tự hỏi liệu Người đã chinh phục đỉnh núi chưa, Người đã đi tới 'tận cùng' hay chưa, ...? Khi đến dòng thơ thứ tư, nhẹ nhàng như một hơi thở, người đọc cũng nhẹ nhàng, hạnh phúc đến lạ kỳ. Lên đến đỉnh 'tận cùng' của ngọn núi, mở ra trước mắt là cả một cảnh vật rộng lớn, bao la của 'muôn trùng nước non'.
Nếu ở hai dòng thơ đầu, người đọc cảm nhận sự vất vả, khó khăn, một tâm trạng đầy suy tư của Hồ Chí Minh thì ở hai dòng cuối, tình hình đã thay đổi nhanh chóng, tâm trạng cũng đầy màu sắc vui vẻ. Từ tư thế của một người tù đang giam giữ, Hồ Chí Minh bỗng nổi bật trong tư thế của một người tự do, không còn xiềng xích, không bị gò gẽ, chỉ còn niềm vui, hạnh phúc trước cảnh vật bao la của đất trời. Và từ đáy lòng, Niềm vui của Người reo lên thật to. Dòng thơ thứ tư phát ra tiếng reo vui, hạnh phúc đến lạ kỳ. Sau những khó khăn vất vả, cuối cùng người tù Cách mạng cũng chạm tới đỉnh cao của thiên nhiên, chiêm ngưỡng thiên nhiên mà Người yêu quý, trân trọng vô vàn. Điều này cũng là thông điệp sâu sắc của Người trên con đường Cách mạng: Con đường này có thể gập ghềnh, đầy khó khăn, nhưng khi chúng ta vững tin, kiên định, chắc chắn sẽ đạt được thành công vẻ vang, xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ vững ý chí, niềm tin vào con đường của Đảng.
Bài thơ 'Tẩu lộ' khép lại, nhưng vẫn đọng lại trong lòng chúng ta hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định, vững vàng trong gian khó. Bài thơ không chỉ là sự diễn đạt về những khó khăn của Bác trong nhà tù Tưởng Giới Thạch mà còn là một sự phản ánh của Bác sau những trải nghiệm của mình. Đường đi không dễ dàng, gập ghềnh, giống như cuộc sống, giống như con đường Cách mạng, nhưng chỉ cần chúng ta quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn sẽ vượt qua và chiến thắng.
Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những gian khó trong thời gian Người bị giam giữ nơi đất khách, đồng thời là lời khen ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc chắn, sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tác phẩm xuất sắc của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà văn lớn của dân tộc ta.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 2
Bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp, trong những ngày tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, Bác Hồ đã phải trải qua nhiều lần di chuyển qua các tỉnh thành ở Trung Quốc. Xuất hiện trong tình huống như vậy, nhiều bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” được lấy cảm hứng từ chủ đề đi đường như “Tẩu lộ”. Mở đầu bài thơ, Người đưa ra một lời triết lí cực kỳ đơn giản, tự nhiên và chân thành:
“Đi đường mới biết gian nan
(Chỉ khi đi mới biết khó khăn)
Thật vậy, chỉ khi bước chân ra đường mới cảm nhận được những chông gai, gian khó, phải là người trực tiếp tham gia mới hiểu rõ khó khăn của nó. Đặc biệt, con đường mà Hồ Chủ Tịch đang phải di chuyển không hề dễ dàng với nhiều chướng ngại vật, khó khăn, Người lại đi bộ, không mang đồ bảo vệ, bị kiểm soát chặt chẽ. Một tuyến đường không hề dễ dàng chút nào. Câu thơ “đi đường mới biết gian nan” thêm sâu nét ấn tượng về sự khó khăn của việc di chuyển với người đọc. Những dòng sau, Người miêu tả về những khó khăn đó một cách rất cụ thể:
Núi cao vươn lên một sau một,
Núi cao lên đến tận cùng
(Núi cao rồi lại núi cao, không ngừng;
Núi cao lên đến tận cùng)
Ở đây ta thấy rằng, những con đường mà thi nhân phải vượt qua không chỉ là những con đường xấu, gồ ghề mà còn là những đoạn đồi núi cao, hiểm trở, không chỉ gian nan mà còn nguy hiểm cận kề. Từ “núi cao” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên cảm giác về những dãy núi cao trùng nhau, qua một dãy rồi lại thấy dãy khác, đi mãi, đi mãi mà cảm giác không thể đi hết được vì sau mỗi dãy núi là một dãy núi mới đòi hỏi phải vượt qua.
Nếu ở câu trên, núi mở ra theo chiều rộng thì ở câu dưới núi mở ra theo chiều cao. Núi không chỉ nhiều mà còn cao, đứng vững lên đến tận cùng, vô cùng khó khăn để vượt qua. Trên con đường của người tù cách mạng, nỗi khó khăn đó càng trở nên lớn lao hơn.
Ba câu trên đều nhấn mạnh vào khó khăn của việc đi đường, nhưng chẳng phải vì thế mà chúng ta phải hiểu nhà thơ đang mệt mỏi, kiệt sức, chán nản trên con đường gian nan đó. Nếu vậy thì đó đã không phải là phong thái của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Mọi điều đó hội tụ vào câu thơ cuối cùng của bài:
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
(Nhìn ra mênh mông vô tận của cảnh đẹp núi rừng)
Mặc dù ở ba câu trên, chúng ta cảm nhận được bao nhiêu khó khăn gian truân của việc đi đường, nhưng khi đến dòng cuối cùng, dường như mọi khó khăn, hiểm nguy đã tan biến và chỉ còn lại là khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của muôn trùng nước non. Không còn hình ảnh của một người tù bị áp giải, chỉ còn hình ảnh của một du khách đang đứng giữa đất trời, thưởng thức hạnh phúc sau khi đã vượt qua tất cả những cung đường gian nan kia.
Ở ba câu đầu, vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đến đâu thì ở câu cuối, con người không còn bị thiên nhiên làm cho sợ hãi mà trở nên mạnh mẽ, tươi sáng, kiêu hãnh. Điều này cũng là biểu hiện của tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại không bao giờ mất niềm tin vào cuộc sống.
Toàn bộ bài thơ đã truyền đạt một triết lí sâu sắc, rằng dù có gian nan thế nào, nếu chúng ta đủ can đảm vượt qua, chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp ở cuối con đường. Từ đó, có thể mở rộng ra, đây là bài học về cuộc sống, về bản lĩnh, về sự kiên nhẫn và quyết tâm.
Chỉ với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng gợi lên một triết lí sâu sắc, và trên hết, chúng ta có thể ngưỡng mộ sự vĩ đại, sáng tạo của Bác Hồ. Đúng là tinh thần kiên cường ấy đã giúp Bác trở nên mạnh mẽ hơn, bất kể trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 3
Đi đường là một bài thơ trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết trong quá trình Bác di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác, nhưng không thấy sự vất vả, khó khăn trong từng dòng chữ mà thấy được một tư duy, khi trải qua những khó khăn nhất định sẽ đạt được thành công. Ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá trị của bài thơ chính là ở đó.
Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc, Bác đã phải di chuyển hơn 30 nhà lao khác nhau, từ đèo, lối sống, đến băng rừng vượt sông, nhưng trong tâm hồn Bác vẫn tỏa sáng tinh thần lạc quan. Bài thơ này cùng với nhiều bài thơ khác trong nhóm đề tài tự nhắc nhở, động viên bản thân vượt qua những thách thức, gian khổ.
Mở đầu bài thơ, Người tả nỗi khó khăn của kẻ bộ hành: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan. Câu thơ nguyên tác chữ tẩu lộ được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào những khó khăn, gian nan trong hành trình đi đường. Những khó khăn ấy được biểu thị thành ý thơ đơn giản, chân thực.
Có lẽ trong những năm tháng kháng chiến, đọc câu thơ của Bác ta sẽ cảm nhận đầy đủ và chân thực nhất những khó khăn mà người phải trải qua nơi đất khách quê người. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” những dãy núi nhấp nhô, liên tiếp hiện ra, như không có điểm bắt đầu và kết thúc, tạo ra những thách thức liên tục thách thức sự dẻo dai, kiên gan của người tù cách mạng.
Đi một hành trình dài, không có phương tiện mà chỉ có duy nhất đôi chân liên tục di chuyển, đường đi khó khăn, đầy nguy hiểm đã cho thấy hết những gian lao, khổ ải mà người chiến sĩ cách mạng phải có lòng quyết tâm, ý chí kiên cường để vượt qua. Trải qua những khó khăn, khổ ải đó, ta sẽ thu lại được những gì đẹp đẽ, tinh tuyệt nhất:
Đỉnh cao rồi lại đỉnh cao trùng trùng;
Vạn dặm dư đồ cố miền gian
Nếu trong hai câu thơ đầu tiên, Bác tập trung làm nổi bật những gian nan, vất vả mà người tù phải đối mặt thì đến câu thơ thứ ba người tù đã chinh phục được đỉnh cao ấy. Trong hành trình chinh phục thử thách thì đây chính là khoảnh khắc sung sướng và hạnh phúc nhất của người tù.
Trải qua bao khó khăn, Bác đã được đền đáp xứng đáng đó chính là muôn trùng nước non thu trọn vào tầm mắt. Cả một không gian mênh mông khoáng đạt hiện ra trước mắt người tù, đồng thời mở ra những chiều ý nghĩa sâu sắc: hoạt động cách mạng chắc chắn sẽ gặp nhiều gian nan thử thách, nhưng chỉ cần kiên gan, bền ý chí, không chịu lui một bước chắc chắn sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.
Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng cùng hai tầng ý nghĩa sâu sắc, Bác đã đem đến những triết lý sâu sắc cho những người đọc. Quá trình hoạt động cách mạng hay con đường đời sẽ vấp phải rất nhiều chông gai, sóng gió bởi vậy chúng ta không được mềm yếu, nản lòng mà phải dũng cảm, kiên cường vượt qua những thách thức đó. Và ánh sáng, niềm vinh quang chắc chắn đang đợi ta nơi cuối con đường.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 4
Bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) xuất phát từ tập Nhật kí trong tù. Giống như một số bài có cùng chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối, ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi, khác ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngoài ý nghĩa hiện thực, bài thơ còn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Dịch ra thơ tiếng Việt:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tắc nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Câu đầu tiên là tổng kết chung của Bác về hành trình đi đường:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
(Đi đường mới biết gian lao)
Đây không chỉ là nhận định cá nhân sau một vài chuyến đi thông thường mà là kết quả rút ra từ hiện thực của một hành trình vất vả, nguy hiểm mà Bác đã trải qua. Trong khoảng thời gian mười bốn tháng bị chính phủ Tưởng Giới Thạch giam giữ trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị dời từ nhà tù này sang nhà tù khác trên khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị còng, chân bị xích, bước đi trong sương gió lạnh thấu xương hay dưới nắng gay gắt. Vượt qua dốc, băng qua đèo, lội suối với những khó khăn thử thách mà nhiều khi tưởng như là quá khả năng chịu đựng của con người. Từ thực tế ấy, tác giả khái quát thành chuyện đi đường.
Câu thứ hai mô tả cụ thể những khó khăn trên đường đi thành hình ảnh:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)
Trong không gian tự nhiên với những dãy núi cao kề nhau, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối hơn bao giờ hết. Con đường xa vắng, dẫn đến những vực sâu, dốc đứng đầy khó khăn và trở ngại, khiến cho người ta cảm thấy chán nản và mệt mỏi. Sau khi vượt qua hàng loạt khó khăn, khi sức lực và tinh thần đều kiệt sức, người ta nghĩ rằng mình đã vượt qua mọi nguy hiểm, nhưng bất ngờ lại phát hiện ra trước mặt lại là dãy núi cao trùng trùng nối tiếp. Trong câu thơ chữ Hán có từ 'hựu' tượng trưng cho sự khắc nghiệt, và dịch thành tiếng Việt cũng nhấn mạnh điều này lên gấp đôi: 'Núi cao lên đến tận cùng, thách thức không ngừng.'
Khó khăn khôn xiết thế nào! Cấu trúc kín đáo trong câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu trùng san) được chuyển đổi thành một cấu trúc lặp đi lặp lại, với sự trọng điểm nằm ở từ 'trùng san' ở cuối, tạo ra một cảm giác nặng trĩu hơn, đẩy con người vào tình thế bị giam giữ bởi núi non, không thể thoát ra, chỉ còn biết mệt mỏi và đầu hàng.
Tuy nhiên, đối với Bác Hồ, điều đó lại hoàn toàn ngược lại:
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
(Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)
Trong vòng vây của những dãy núi cao trùng trùng, hoang vu, con người vẫn tỏ ra nhỏ bé, yếu đuối bên ngoài, nhưng bên trong lại ẩn chứa một nghị lực, một sức mạnh phi thường.
Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh của những dãy núi cao, và câu thơ sau mở đầu cũng theo đuổi hình ảnh đó. Mặc dù không nhất thiết phải liên tục, nhưng cảm giác của những từ 'núi cao… núi cao…' tạo ra một cảm giác kiêu hãnh và hùng vĩ. Đạp lên đỉnh núi này, từng bước tiến lên đỉnh khác như thể đang leo lên bậc thang, từng bước leo lên đỉnh cao nhất. Câu thơ chữ Hán kết thúc với âm thanh mạnh mẽ của chữ 'hậu', tạo ra một cảm giác kiên cường. Câu thơ dịch lan truyền như âm thanh của sự sung sướng và nhẹ nhàng: 'Núi cao lên đến tận cùng.'
Tất cả gian khổ, vất vả đều đã kết thúc ở đây; phần thưởng, kết quả xứng đáng đã được mở ra. Trước đây, chỉ có thể nhìn thấy những vách núi đứng thẳng, chỉ toàn đá và cây; nhưng bây giờ, mọi ngóc ngách, mọi hướng đều hiện ra, thấy muôn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), nhìn xa tới tận cùng, không chỉ là tầm nhìn mở rộng mà còn là tâm trí, trái tim và cuộc sống mở rộng. Con người đã đạt đến đích sau cuộc hành trình đầy gian khổ. Câu thơ cuối cùng lan tỏa niềm vui, sự kiêu hãnh lớn lao đó.
Vậy thì liệu bài thơ này chỉ nói về việc đi đường đơn giản sao? Đi đường không chỉ là gặp khó khăn với những dãy núi cao trùng trùng, mà còn là vấn đề gặp gỡ những nguy hiểm và thách thức khác nhau trong cuộc sống. Vì vậy, con đường ở đây không chỉ là con đường trên mặt đất mà là con đường của cuộc sống, của cách mạng.
Có phải mọi người suốt cuộc đời chỉ trải qua những thời kỳ thuận lợi, dễ dàng, đến một điểm cao điểm đẹp, thành công? Trở ngại, khó khăn là điều bình thường. Để vượt qua tất cả, con người cần phải có ý chí kiên cường, sức mạnh nội tâm phi thường và một niềm tin không biến đổi. Chỉ như vậy mới có thể chiến thắng được mọi khó khăn và thách thức, và thắng lợi cao cả hơn là chiến thắng bản thân.
Nếu đó là con đường cách mạng, thì sự thật nêu trên sẽ rõ ràng hơn. Cuộc sống chiến đấu và hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình. Trên con đường cách mạng khắc nghiệt, đầy sóng gió, với trí tuệ, ý chí và nghị lực phi thường, Người đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được đỉnh cao vinh quang. Từ việc đi trên con đường, người chiến sĩ cộng sản lão thành Hồ Chí Minh đã truyền cho chúng ta một bài học sống ý nghĩa.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 5
M.Goóc-ki từng nói “Kỳ lạ con người!”. Con người khẳng định sự tồn tại của mình bằng ý chí, nghị lực và lòng nhân ái. Cuộc sống là một thách thức và là cơ hội để trưởng thành. Trong Nhật kí trong tù, ta luôn gặp một con người như vậy. Bài thơ Đi đường và những bài thơ khác như Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ diễn tả nỗi khó khăn của người tù trên con đường chuyển lao mà còn thể hiện một triết lý về cuộc sống và phong thái của một con người tầm cao.
Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng đó không phải là lời kêu gọi của một người đã trải qua nhiều chặng đường khó khăn mà là một lời khẳng định, sự suy ngẫm từ kinh nghiệm sâu rộng của chính người đi đường:
“Đi đường mới biết gian khổ
Núi cao rồi lại núi cao trùng lên.”
Câu thơ như một triết lý của những người đã trải qua. Chỉ khi đi qua, trải qua những khó khăn trên con đường mới hiểu được gian khổ. Bài học này không mới mẻ nhưng chỉ qua những thử thách, trải nghiệm mới thấu hiểu sâu sắc. Câu thơ giản dị chứa đựng một chân lý rõ ràng: “Đi đường mới biết gian lao” như Bác đã nói.
Hai câu thơ đầu chỉ nói về việc đi đường gian khổ, không miêu tả trực tiếp hình ảnh người. Nhưng người đọc vẫn thấy hình ảnh người đi đường. Con người không ở trong trạng thái thoải mái ngắm nhìn cảnh đẹp, mà là một người tù đang phải trải qua đường chuyển lao. Chữ “hựu” giữa hai câu thơ không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi mà còn là sự vất vả của người tù.
Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng.
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”
Hai câu thơ sau làm người đọc bất ngờ. Núi cao lên đến tận cùng, thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ thứ ba tiếp tục nói về núi, nhưng không chỉ dừng lại ở việc núi cao rồi lại núi cao trùng lên mà còn là việc đường đi đã được đẩy lên đến tận cùng khó khăn. Con người khi đó như trong tư thế của một người chiến thắng, tự tin giữa vũ trụ.
“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối là cao trào của cảm xúc. Sự hân hoan của người vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để thưởng thức cảnh vật hữu tình của tự nhiên. Đến đây, con người và thiên nhiên hòa quyện làm một, tạo nên bức tranh lãng mạn tuyệt vời.
Đi đường không chỉ là một bài thơ ngắn mà còn chứa đựng một bài học sâu sắc về cuộc sống. Nó mô tả con đường gian khổ trong những năm tháng tù đày, nhưng cũng là biểu tượng cho cuộc sống với những khó khăn thử thách. Bài thơ truyền đạt niềm tin và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để đạt được thành công.
Bài thơ Đi đường – Tẩu lộ không chỉ là một bức tranh về con đường gian truân, mà còn là một bức tranh tinh thần của Hồ Chí Minh. Nó thể hiện sự kiên cường và lạc quan của một chiến sĩ cách mạng, là một tài sản quý giá của văn học Việt Nam.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 6
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một tác phẩm văn học quý giá, đem lại nhiều bài học ý nghĩa cho đời sống. Bài thơ Đi đường là một ví dụ xuất sắc cho điều này, mang lại cho chúng ta một bài học quý giá trong cuộc sống.
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là biểu tượng cho cuộc đời. Cuộc sống đầy gian khổ và thử thách, nhưng khi vượt qua mọi khó khăn, ta mới thấy được giá trị thực sự của cuộc sống.
Hình ảnh con đường trong bài thơ tượng trưng cho cuộc đời con người. Mỗi khó khăn là một bước thử thách, nhưng chỉ khi kiên nhẫn và quyết tâm vượt qua, ta mới có thể đạt được mục tiêu.
Bài thơ nhấn mạnh vào ý nghĩa của sự kiên trì và quyết tâm trong cuộc sống. Chỉ khi vượt qua mọi thử thách, con người mới có thể đạt được thành công và ước mơ của mình.
Bác Hồ đã sáng tác những câu thơ về thử thách cuộc sống, khẳng định ý chí và quyết tâm của con người:
Gạo nghiền ra gặp bao đau đớn
Gạo đã xay xong trắng tựa bông
Sống trên cuộc đời cũng vậy
Chỉ qua gian nan mới thành công.
Bài thơ Đi đường thể hiện sự quyết tâm và ý chí mạnh mẽ của Bác Hồ. Nó không chỉ là chuyến đi của ông mà còn là tấm gương cho mọi người.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 7
Bài thơ “Đi đường” với tựa đề đơn giản là một hệ thống. Ngoài việc mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi non và đất trời, nó còn thể hiện tinh thần quyết tâm của một nhà thơ - chiến sĩ. Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch sang thể lục bát:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bắt đầu bằng một câu thơ đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa:
“Khám phá đời mới hiểu sâu xa”.
“Khám phá đời”, hai từ đơn giản nhưng đậm chất triết lý. Đầu tiên là ý nghĩa cụ thể của cụm từ. Nói “khám phá đời” thực ra là tìm hiểu sâu xa về cuộc sống, là đối diện với những thách thức, khó khăn. Người viết không nói ra, nhưng độc giả, những người đang đọc tác phẩm không thể không liên tưởng đến hình ảnh tác giả đối mặt với cuộc sống đầy gian truân, giữa những khó khăn, cảnh vật khắc nghiệt. Tuy nhiên, câu thơ như chỉ là một suy nghĩ, một nhận xét bình thường. Từ “mới hiểu” mang đậm tính nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chứa đựng bên trong là biết bao sóng gió cuộc sống, bao nhiêu suy tư của con người. Như vậy, câu đầu trong tác phẩm không chỉ là sự tóm tắt của một hành trình cụ thể, mà còn chứa đựng một thái độ đánh giá, nhận biết về suy nghĩ trong suốt quãng đường dài trên con đường cuộc sống nói chung, trên con đường cách mạng nói riêng. Câu thơ do đó vừa có nội dung cụ thể, vừa có nội dung tổng quan.
Sau câu thơ, chúng ta nhìn thấy một tâm hồn cao quý, thanh cao, đẹp đẽ, một trí tuệ nhạy cảm của nhà văn lớn đang đối mặt, chịu đựng những khó khăn ghê gớm nhưng đã vượt qua bằng tinh thần kiểm soát, bằng thái độ điều đạt, bình thản, với cái nhìn sâu sắc, sáng suốt nhưng khiêm nhường.
Câu thơ thứ hai:
“Núi cao tựa như núi cao chồng chất”.
Ban đầu, đó là một câu thơ mô tả về vẻ đẹp của những dãy núi vùng cao mà tác giả phải vượt qua. Có người nghĩ rằng đây là sự cụ thể hóa của những khó khăn trong câu thơ đầu, điều này cũng có thể đúng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, câu thơ đầu không chỉ là một cảm hứng ban đầu mà còn là kết luận của cảm hứng. Ngoài ra, cảm giác của câu thơ khơi dậy cho người đọc về vẻ đẹp của sự hùng vĩ, đa dạng, tươi đẹp và lớn lao hơn nhiều.
Không có vẻ của những gánh nặng và khổ cực, chỉ là trái tim tự do đang thưởng thức và say mê vẻ đẹp tự nhiên, như một nghệ sĩ. Điều này khó để lý giải bằng lời nói. Từ tâm hồn đến tâm hồn. Đọc thơ của Bác không khác gì việc ngắm nhìn một bông hoa. Đọc thơ của Người, đôi khi bạn phải dừng lại, suy ngẫm để cảm nhận sức sống của tâm hồn, phát ra từ những dòng chữ, màu sắc, âm thanh... đơn giản, tinh khiết.
Hai câu cuối:
“Núi cao đến tận cùng
Thu vào ánh mắt muôn trùng sông núi”.
Cảnh núi non kéo dài không ngừng, như vẽ trước mắt ta bức tranh của những dãy núi lớp lớp, từ lớp này sang lớp khác, trong đó con người, là chủ thể của khung cảnh, vượt qua những lớp núi chồng chất, đứng ở đỉnh cao với niềm tự hào, chiêm ngưỡng cả một không gian mở rộng, cao vút, với vẻ đẹp hùng vĩ của đất nước, của non sông. Câu thơ mô tả cảnh nhưng không che giấu niềm hạnh phúc sâu kín, niềm hạnh phúc thật sự của con người đã trải qua bao gian truân, đã đến được đích, đang đứng ở đỉnh vinh quang. Trong khuôn khổ của âm điệu, hình ảnh, vần điệu của thơ cổ điển, luật lệ, truyền thống, ý thơ như muốn vượt ra ngoài, vươn tới điều cao cả. Những câu thơ ấy mang vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn và tinh thần cao quý. Nó không chỉ mô tả chiều cao của cảnh núi non cụ thể, mà còn diễn tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, niềm tin, của lí tưởng cao quý, tinh khiết. Thật sự, khi có một lí tưởng cao quý, một ý chí kiên cường, không có đỉnh nào mà con người không thể đạt được. Và lúc ấy con người sẽ tìm thấy hạnh phúc vô tận. Điều kết luận ý nghĩa của bài thơ truyền đạt cho người đọc như vậy.
Phân tích bài thơ Đi đường - Mẫu 8
Trong thời gian bị giam giữ, Hồ Chí Minh trải qua nhiều nhà tù. Theo Trần Dân Tiên, trong những câu chuyện về cuộc sống hoạt động của Hồ Chủ tịch, Người đã phải ở gần ba mươi nhà tù ở huyện và xã. Việc đi đường là một phần thường xuyên của cuộc sống.
Có những con đường mà người ta đi thoải mái trong khung cảnh chim ca hòa với hương rừng bay lên (Trên đường đi), nhưng phổ biến hơn là những con đường gian truân, đi qua những ngày lạnh giá, đi qua núi non hiểm trở. Bài thơ Đi đường mở đầu cho hành trình gian khổ: Đi đường mới hiểu gian lao.
Đó là kinh nghiệm của những người đã trải qua nhiều cuộc hành trình. Chỉ có đi trên đường mới hiểu rõ về cuộc sống trên đường. Đây không phải là con đường mặt phẳng mà là một chặng đường đầy gian khổ: Núi cao lên rồi lại núi cao chồng chất.
Với bài thơ Đi đường, tác giả hiểu rõ cuộc sống đầy khó khăn. Cuộc sống này cũng là một hành trình đấu tranh cách mạng và những người chiến sĩ cách mạng là những người đi qua cuộc đời, không chịu mệt mỏi. Bằng việc chấp nhận và vượt qua những khó khăn, người đi đường luôn hướng tới mục tiêu:
Giày rách, đường lầy, chân lấm láp
Vẫn tiếp tục bước trên dặm đường xa
Trong bài thơ Đi đường, những khó khăn thật sự nhiều, càng ngày càng tăng lên và đạt đến đỉnh cao. Câu thơ như một thách thức: Núi cao lên đến tận cùng. Những người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua thử thách và chiến thắng. Trên đỉnh cao chiến thắng, biết bao niềm vui được bày tỏ. Vui mừng vì đã vượt qua khó khăn, vì họ đã hoàn thành trách nhiệm được giao.
Trên đỉnh cao, con người trải qua những cảm xúc đặc biệt: Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Họ có thể quan sát và bao quát nhiều phạm vi cuộc sống. Đôi mắt không còn bị hạn chế trong tầm nhìn mà đã được mở rộng, thấu hiểu được biết bao cảnh vật.
Đi đường là một bài thơ đa chiều, đa ý nghĩa. Bài thơ đề cập đến kinh nghiệm, trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm của những người đi đường, kinh nghiệm ban đầu trong cuộc đấu tranh cách mạng. Ở những câu thơ đầu, thiên nhiên với những dãy núi hiểm trở như che lấp con người. Nhưng sau đó, con người đã tự mình vượt qua thách thức và trở thành tâm điểm của bức tranh.
Con đường cuộc sống khó khăn, đầy thách thức và gian nan, nhưng nếu kiên trì vượt qua và kiên định theo đuổi đến cùng, thì cuối cùng cũng sẽ đạt được thành công, chiến thắng.
....