Phân tích Nước Đại Việt ta tuyển chọn 11 bài văn hay, độc đáo, cùng với 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy. Giúp học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về lòng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập dân tộc.
Bài thơ Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi, từ Bình Ngô Đại Cáo, khẳng định về sự độc lập của dân tộc, chứng minh nước ta hoàn toàn tự chủ, độc lập, và tự cường. Với 11 bài phân tích Nước Đại Việt ta dưới đây sẽ giúp các em hiểu rõ hơn.
Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi
- Sơ đồ tư duy về Nước Đại Việt ta
- Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta (3 mẫu)
- Phân tích Nước Đại Việt ta hay nhất (11 mẫu)
Sơ đồ tư duy về Nước Đại Việt ta
Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta
1. Khởi đầu
- Tổng quan về tác giả Nguyễn Trãi - một vị tướng kiệt xuất của dân tộc, cũng như là một nhà thơ và người yêu nước sâu sắc.
- Bài thơ “Nước Đại Việt ta” - một tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc và rõ ràng nhấn mạnh rằng nước ta hoàn toàn tự chủ, độc lập và mạnh mẽ.
2. Phần chính
a. Tôn vinh tư tưởng nhân nghĩa
- Khẳng định “Yên bình cho dân” - tạo điều kiện cho nhân dân được sống trong hòa bình, hạnh phúc
- “Xóa bỏ bạo lực”: Loại bỏ mọi thế lực hung ác để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân
⇒ Nhân nghĩa là lo lắng cho dân, yêu nước, chống lại quân xâm lược để bảo vệ nhân dân khỏi mọi nguy hiểm, mang lại hòa bình và hạnh phúc cho họ
b. Nguyên tắc về sự tồn tại độc lập có chủ quyền
Lời thơ khẳng định nguyên tắc về sự độc lập của dân tộc bằng cách minh chứng rằng đất nước ta có:
- Đặc điểm văn hóa riêng
- Lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục riêng
- Lịch sử riêng
- Chế độ chính trị, chủ quyền riêng biệt
⇒ Với những bằng chứng mạnh mẽ, lời thơ truyền tải một thông điệp sâu sắc về ý chí của dân tộc, lời văn đầy quyết đoán thể hiện sức mạnh của Đại Việt là một quốc gia có độc lập chủ quyền, một nước tự lực tự cường, có khả năng vượt qua mọi khó khăn để đạt được độc lập
c. Sức mạnh của tinh thần nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc
Sức mạnh khiến kẻ thù gặp thất bại đầy thảm hại, sức mạnh đó vượt qua mọi khó khăn, mọi thử thách
⇒ Đó là kết quả của những kẻ xâm lược vô đạo, vi phạm mệnh trời, những kẻ dám gây tổn hại cho dân tộc chúng ta chắc chắn sẽ không có hậu quả tốt lành.
3. Tổng kết
- Khẳng định lại giá trị nghệ thuật, nội dung của văn bản: Bài Cáo của Nguyễn Trãi có thể coi như một tuyên bố độc lập, rõ ràng khẳng định chủ quyền của dân tộc.
- Liên kết với bản thân: Cần phải nỗ lực bảo vệ đất nước, khẳng định vị thế của đất nước trên cấp độ quốc tế cùng với bạn bè trên khắp năm châu.
Phân tích Nước Đại Việt ta tốt nhất
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 1
Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc vĩ đại, một nhà văn với tài năng lỗi lạc, là biểu tượng vĩ đại nhất của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Ông đã thay Lê Lợi viết 'Bình Ngô đại cáo' – một tác phẩm thiên cổ vĩ đại tuyên bố độc lập dân tộc. Đoạn trích 'Nước Đại Việt ta' nằm ở phần đầu của bài cáo, có ý nghĩa quan trọng – làm nền tảng cho bài cáo.
Năm 1428, sau khi cuộc kháng chiến chống lại quân Minh giành chiến thắng, Nguyễn Trãi viết bài cáo công bố cho toàn dân biết rằng Bình Ngô đã giành chiến thắng. Đoạn trích 'Nước Đại Việt ta' trở thành một tuyên bố kiêu hùng về chủ quyền độc lập, thể hiện nguyên tắc nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền dân tộc của Đại Việt.
Ở hai câu đầu, tác giả đề cập đến khái niệm 'nhân nghĩa' theo triết lý Nho:
'Nhân nghĩa thực chất là an ổn cho dân
Trừ bỏ bạo động trước mắt, để loại bỏ điều ác'
Theo triết lý Nho, 'nhân' biểu thị lòng thương xót, 'nghĩa' là hành động theo lẽ phải, hướng đến việc làm điều thiện. Tuy nhiên, ý nghĩa cốt lõi của 'nhân nghĩa' theo Nguyễn Trãi là 'yên dân', hành động nhân nghĩa là 'trừ bạo'. 'Yên dân' mang ý nghĩa là tạo điều kiện cho dân sống trong thái bình, an lành. 'Trừ bạo' là loại bỏ mọi thế lực hung ác. Trong bối cảnh lịch sử, 'dân' là nhân dân của nước Đại Việt, 'bạo' là quân Minh xâm lược, 'quân điếu phạt' biểu thị cho quân Lam Sơn. Theo Nguyễn Trãi, 'nhân nghĩa' cũng bao gồm tình yêu nước và sự chống lại quân xâm lược. Không chỉ giữa cá nhân với cá nhân, mà còn giữa dân tộc với dân tộc. Đây là sự phát triển của triết lý nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi so với triết lý Nho. Cách tiếp cận mở đầu rất ngắn gọn, súc tích như một tục ngữ, một câu triết lý đã nhấn mạnh ý nghĩa việc chống lại quân Minh là hợp lý, và chiến thắng quân Minh là điều tất yếu.
Sau khi nêu bật nguyên tắc nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định về sự tồn tại độc lập chủ quyền của dân tộc:
'Như Đại Việt ta từ xưa đã vang dội,
Chúng ta đã có nền văn hiến từ lâu,
Đất nước đã được chia cắt bởi dãy núi, dòng sông,
Phong tục tập quán ở Bắc và Nam cũng khác nhau.
Từ thời các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần đã xây dựng nền độc lập,
Với các thời kỳ Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên cũng có những anh hùng của mình,
Mặc dù sức mạnh khác nhau theo thời gian,
Nhưng dòng dân tộc vẫn còn mãi, đẳng cấp mãi mãi.”
Nguyễn Trãi xác định các yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền: quốc hiệu, văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài... Tác giả đặt yếu tố 'văn hiến' lên hàng đầu, vì phong kiến phương Bắc luôn cố gắng từ chối văn hiến của ta, từ đó từ chối sự độc lập của ta. Tuy nhiên, dân tộc ta vẫn giữ vững bản sắc riêng, dù phong kiến có thay đổi, lịch sử có những thăng trầm, văn hiến, phong tục, nhân tài không bao giờ thay đổi.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng tỏ ra tự hào về dân tộc thông qua từ 'đế'. Phong kiến phương Bắc xem nước ta như một nước chư hầu, chỉ trao cho ta tước hiệu vua chúa, nhưng cách gọi là 'đế' khẳng định rằng Đại Việt có chủ quyền, ngang hàng với phương Bắc. Để tăng sức thuyết phục, tác giả sử dụng các từ ngữ tự nhiên, vốn có: 'đã lâu, đã chia, cũng khác, cũng có'. Như vậy, nước Đại Việt đã có lịch sử lâu dài và có văn hiến sâu sắc.
Để làm rõ sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đưa ra các ví dụ trong lịch sử:
'Do đó:
Lưu Cung cầu công chắc chắn thất bại,
Triệu Tiết ái thích cao ngạo phải hủy hoại,
Hàm Tử cầm quyền bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng đánh bại kẻ thù Ô Mã'
Hai từ 'do đó' thể hiện một quan hệ nhân quả: kẻ vi phạm đạo đức sẽ gặp phải hậu quả. Các ví dụ được sắp xếp theo thứ tự thời gian, từ Lưu Cung - vua Nam Hán đến Triệu Tiết - tướng nhà Tống, từ Toa Đô đến Ô Mã Nhi - tướng nhà Nguyên. Cách trình bày các ví dụ linh hoạt, đôi khi nhấn mạnh sự thất bại của quân thù, đôi khi tôn vinh chiến thắng của chúng ta. Phát ngôn 'Những sự việc xưa vẫn còn đây / Bằng chứng là không thể phủ nhận' một lần nữa nhấn mạnh sức mạnh của chính nghĩa là chân lý về độc lập dân tộc không thể thay đổi.
Bài diễn thuyết có lập luận chặt chẽ, kết hợp sự hài hòa giữa lý trí và tình cảm, lời nói và thực tiễn, cùng với một phong cách viết hùng hồn. Đoạn mở đầu của bài 'Bình Ngô đại cáo' phản chiếu sự sáng sủa của tư duy chính nghĩa, được viết bởi trí tuệ sắc bén của một tâm hồn yêu nước, trìu mến dân tộc. Đoạn văn đã khẳng định ý chí nhân nghĩa, lòng tự hào về lịch sử dân tộc của vị anh hùng Nguyễn Trãi.
Đoạn mở đầu của bài 'Bình Ngô đại cáo' ngắn gọn, súc tích, làm nền móng cho toàn bài. Đây không chỉ là một lời khuyên nghiêm khắc mà còn chứa đựng tư duy sâu sắc về nhân nghĩa - nguyên tắc cốt lõi của con người.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 2
Tình yêu đối với đất nước là một chủ đề quan trọng đã xuất hiện suốt hàng thế kỷ trong văn học Việt Nam. Từ những ngày đầu của văn học dân tộc, chủ đề này đã được khai thác để thể hiện lòng tự hào của mỗi người con của dân tộc Việt Nam. Có thể kể đến các tác phẩm như 'Nam quốc sơn hà' của Lí Thường Kiệt (?), 'Phò giá về kinh' của Trần Quang Khải, 'Bạch Đằng giang phú' của Trương Hán Siêu,... và không thể không nhắc đến 'Đại cáo bình Ngô' của Nguyễn Trãi. Trích đoạn dưới đây của bài cáo nổi tiếng này không chỉ thể hiện sâu sắc tình yêu đất nước của tác giả mà còn gợi ra nhiều suy tư sâu sắc về tình yêu đất nước:
'Tình yêu nhân nghĩa chính ở yên dân
....
Bằng chứng vẫn còn ghi lại'.
Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu năm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt họa đô hộ cùng những chính sách dã man, những hành động tàn bạo mà giặc Minh gây ra cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn; những nỗi đau mà dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước và giương cao lòng nhân nghĩa trong nhân gian.
Nếu “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” chính là đoạn trích thể hiện rõ nhất nội dung tuyên ngôn ấy. Mở đầu đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:
“Tinh thần nhân nghĩa chủ yếu ở yên dân
Quân luôn phải trừ bạo để bảo vệ hòa bình”.
Điều đó có nghĩa là tinh thần nhân nghĩa đích thực là ở việc giữ bình yên cho nhân dân, quân đội luôn phải ưu tiên trừ bỏ sự tàn bạo, loại bỏ kẻ thù để bảo vệ hòa bình. Hai câu này đã khẳng định triết lý coi dân là gốc, coi dân là trung tâm “dân vì dân vi bản” một cách tiến bộ. Trong quan điểm của xã hội phong kiến xưa, tinh thần nhân nghĩa thường bị hạn chế trong việc giúp đỡ người khác làm việc tốt. Như trong “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần nhân nghĩa thường được hiểu là việc giải cứu người bị nạn: Lục Vân Tiên giải cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư giải cứu Lục Vân Tiên... “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”.
Nhưng với Nguyễn Trãi, với tư cách là một nhà tư tưởng tham mưu cho chủ tướng - vua Lê Lợi, ông đã có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn. Xem xét kỹ lưỡng, bản chất của tinh thần nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, tạo điều kiện cho dân sống một cuộc sống yên vui, đầy đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan điểm cổ xưa, binh lính là lực lượng bảo vệ quyền lợi của vua và giai cấp phong kiến. Nhưng trong đoạn trích này, Nguyễn Trãi đã rõ ràng khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, quan trọng nhất của quân đội là “lo trừ bạo” cho dân, bảo vệ hòa bình cho mọi người. Tư tưởng đó chỉ có thể có ở một nhà nước yêu dân, yêu nước cao cả.
Và cũng bắt nguồn từ lòng thương dân sâu sắc, Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu nước và lòng tự tôn dân tộc. Trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả đã khẳng định nền độc lập của đất nước về lãnh thổ, đất đai và bộ máy chính quyền. Nguyễn Trãi bổ sung để hoàn thiện những yếu tố này, khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân tộc:
“Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần góp phần xây dựng nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
“Nước Đại Việt ta từ trước” đã có nền văn hiến từ lâu. Văn hiến là giá trị tinh thần mà con người đã tạo ra, bao gồm tín ngưỡng, tư tưởng, đạo đức... Phải là một dân tộc có lịch sử sâu sắc, trí tuệ, và phát triển lâu dài mới xây dựng được một nền văn hiến riêng biệt. Nói một cách khác, văn hiến là dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ có sự riêng biệt về nền văn hiến, cũng xét về lãnh thổ, nước ta cũng có biên giới riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu này gợi lên tinh thần của câu thơ “thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách trời”. Núi sông bờ cõi và biên giới của đất nước đã được phân chia rõ ràng trong lịch sử, trong ý thức của mỗi người dân hai quốc gia.
Và ý thức thiêng liêng đó đã dẫn đến việc xây dựng, bảo tồn, và phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai quốc gia: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Phong tục tập quán là những thói quen trong cuộc sống, sinh hoạt đã thấm sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. Có thể nói, cùng với văn hiến lâu dài, phong tục tập quán đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được xây dựng từ sự đa dạng trong dân cư và lãnh thổ mà còn được phản ánh qua sự độc lập của bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân xuất sắc:
'Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần lâu đời dựng nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi phương đều có vua
Mạnh yếu từng thời khác biệt
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”.
Hai câu văn kể tên các triều đại hai nước đối thủ rất rõ ràng, khẳng định vị thế ngang ngửa của các vua hai nước. Chữ “đế” trong câu thứ hai “mỗi phương đều có vua xưng đế” được dùng rất phù hợp. Trước đây, vua Trung Hoa coi mình là “thiên tử”, họ tự xưng “đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài này, Nguyễn Trãi tự hào khi khẳng định các vua của ta cũng là “đế” sánh ngang với vua Trung Hoa: “mỗi phương đều có vua xưng đế”, vì thế không có quan hệ nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phương Bắc từng nghĩ. Không chỉ thế, khi kể tên các triều đại hai nước, Nguyễn Trãi đặt nước ta trước. Một chi tiết nhỏ nhưng ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc: nó khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả và mỗi người Việt Nam.
Ngoài các vị vua hiền và các triều đại tiêu biểu, nước ta còn những anh tài xuất sắc. Mặc dù tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi không phóng đại những ưu điểm và không che giấu những thời kỳ suy thoái, ông viết “Mạnh yếu từng thời khác biệt”. Từ đó, lời khẳng định của ông rất thuyết phục: “Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”.
Bằng một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi thuyết phục về các yếu tố đóng góp vào sự khẳng định nền độc lập dân tộc. Nhờ nền độc lập ấy mà mỗi người dân Đại Việt sẵn sàng hy sinh cho đất nước và dù kẻ thù có mạnh đến đâu cũng sẽ bị đánh bại bởi sức mạnh từ nền văn minh lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng...
Vì thế:
Lưu Cung ham vật nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết chết Ô Mã
Sự kiện cũ được kiểm chứng
Chứng cớ vẫn ghi lại”
Các biện pháp cụ thể trong đoạn trích về những thất bại của kẻ thù như một biểu hiện rõ ràng. Danh sách tên cụ thể của kẻ thù được đưa ra: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, kèm theo đó là những địa danh nổi tiếng liên quan đến thất bại của kẻ thù và chiến thắng của chúng ta: Cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có một nhịp điệu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn gọn và sắc nét hơn; các câu văn được xây dựng một cách chặt chẽ: “Lưu Cung” - 'Triệu Tiết', 'ham vật” - 'thích lớn', 'nên thất bại' - 'phải tiêu vong', 'Cửa Hàm Tử' - 'Sông Bạch Đằng', 'bắt sống Toa Đô” - 'giết chết Ô Mã',... Những yếu tố này khiến đoạn văn trở thành một cảnh báo đối với âm mưu xâm lược của kẻ thù, đồng thời tôn vinh truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên.
Có thể nói, đoạn văn 'Nước Đại Việt ta' đã thể hiện một cách kiêu hãnh lòng yêu nước thông qua việc tôn vinh ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân đồng thời tỏ ra tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Tình yêu nước là những điều giản dị, tình cảm ấy tồn tại trong tâm trí, tình cảm của mỗi người về quê hương, đất nước. Và chính những tình cảm này sẽ trở thành động lực để chúng ta cố gắng học tập và phấn đấu cho tương lai của quê hương, đất nước.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 3
Nguyễn Trãi, tên hiệu là ức Trai, là một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, và là nhân vật lịch sử hàng đầu của Việt Nam thời phong kiến. Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động: nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lên nắm quyền không được bao lâu thì bị giặc Minh xâm lược. Cha ông bị bắt, Nguyễn Trãi muốn làm tròn trách nhiệm hiếu thảo nhưng nghe theo lời dặn của cha ông là quay lại đấu tranh cho nước, rửa nhục cho cha. Bị giam lỏng tại thành Đông Quan, Nguyễn Trãi trốn thoát và tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, dâng Bình Ngô đại cáo. Từ đó, Nguyễn Trãi trở thành một cố vấn quan trọng của Lê Lợi, đưa cuộc kháng chiến mười năm chống lại quân Minh đến thắng lợi. Vào mùa xuân năm 1428, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo – một tác phẩm văn xuôi thiên cổ tuyên bố độc lập dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta thuộc phần đầu của bài cáo, là đoạn trích có tầm quan trọng – làm tiền đề cho bài cáo.
Trích đoạn Nước Đại Việt ta mang tính tuyên bố về chủ quyền độc lập một cách hùng hồn. Hai ý chính của đoạn trích là nguyên lý nhân nghĩa và quan niệm về chủ quyền dân tộc thiêng liêng của người Việt.
Mở đầu đoạn trích, tác giả viết:
'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.'
Có thể xem hai câu thơ này là trọng tâm tư tưởng của Nguyễn Trãi và của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung.
Nhân là quan niệm đạo đức đã tồn tại từ lâu đời, nhưng ý nghĩa ban đầu chỉ giới hạn trong việc tương thân, tương ái giữa con người. Khái niệm nhân trong chính sách cai trị của vua thể hiện sự coi trọng dân chúng, lấy dân làm gốc: Dân quí, xã hội thấu suốt, quân phục tận tâm. Nhân nghĩa trong đạo lý mở rộng ra trở thành lòng thương người và những việc làm thiện lành.
Nguyên tắc nhân nghĩa là nền móng quan trọng cho việc Nguyễn Trãi phổ biến nội dung của Bình Ngô đại cáo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện cụ thể thông qua hành động bảo vệ dân, trừ ác. Bảo vệ dân là bảo vệ, an ủi, làm cho dân được sống cuộc sống an lành, thịnh vượng. Để bảo vệ dân, phải trừ ác, nghĩa là loại bỏ mọi sức mạnh độc ác gây khổ đau cho dân.
Đặt trong bối cảnh lịch sử khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, người dân mà tác giả đề cập là những người dân của Đại Việt phải chịu đựng nỗi đau đớn, tang tóc dưới bóng quân thù xâm lược; trong khi kẻ ác độc chính là quân thù Minh mà tác giả coi thường là quân cuồng Minh.
Đối với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa liên quan chặt chẽ đến việc cứu vãn quốc gia, cứu giúp dân. Ý nghĩa của nhân nghĩa không giới hạn trong mối quan hệ cá nhân như trong triết lý Nho học, mà liên quan đến số phận của dân tộc, giữa các quốc gia với nhau. Điều này là sự phát triển cao cả của tư tưởng nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi.
Sau khi đề cập đến ý tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định chân lý không thể phủ nhận về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt trong tám câu sau:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.'
Tác giả đã điểm qua những yếu tố cơ bản để xác định sự độc lập chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Đó là văn hiến lâu đời, ranh giới lãnh thổ rõ ràng, phong tục tập quán, lịch sử đặc biệt, và chế độ riêng. Văn hiến thể hiện sách vở, nhân tài; nghĩa tổng quát là văn hóa, văn minh của một dân tộc. Dựa trên những yếu tố này, Nguyễn Trãi đã phát triển một quan niệm toàn diện được đánh giá là cực kỳ quan trọng trong việc hiểu về quốc gia, dân tộc. So với thời Lí, quan điểm này được phát triển sâu sắc hơn. Quan điểm về quốc gia, dân tộc trong vùng Nam quốc được xác định chủ yếu qua hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Đến khi Bình Ngô đại cáo xuất hiện, ba yếu tố mới được thêm vào: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Ông khẳng định mạnh mẽ điều mà kẻ thù phương Bắc luôn phủ nhận: nước Nam có văn hiến.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 4
“Bình Ngô đại cáo” là một tuyên ngôn độc lập quan trọng, được Nguyễn Trãi biên soạn theo yêu cầu của Lê Thái Tổ và công bố vào đầu năm 1428. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” đưa ra một tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, khẳng định sức mạnh của nước ta với văn hiến, lãnh thổ, phong tục, chủ quyền, và cam kết rằng kẻ xâm lược và phản nhân nghĩa sẽ chắc chắn gặp thất bại.
Mở đầu đoạn trích, cũng là phần mở đầu của bài “Bình Ngô đại cáo”, tác giả đã làm rõ tiền đề cho cả bài viết. Khi nêu tiền đề, tác giả đã giúp định rõ những chân lí không thay đổi bao giờ:
“Người ta thường nói
Đạo nhân là gốc gác của yên dân,
Quân thường đặt hình phạt trước để đuổi bỏ sự hung ác.”
Nguyễn Trãi đã đặt ra trọng tâm của tư tưởng nhân nghĩa, đó là 'trong việc yên dân', tức là dân chính là quan trọng nhất. Cuộc sống an lành, hạnh phúc của nhân dân chính là điều quan trọng nhất. 'Nhân nghĩa' ban đầu được hiểu là một khái niệm đạo đức của Nho giáo, là đạo lý, cách ứng xử chuẩn mực, thể hiện tình thương yêu giữa con người với con người. Nguyễn Trãi đã tiếp thu ý nghĩa này, luôn hướng đến lợi ích của nhân dân, lấy dân làm gốc. Một trong những phẩm chất cao quý của nhà quý tộc, là mang lại cuộc sống yên bình cho nhân dân, đó là hành động nhân nghĩa nhất. Và xuất phát từ tình yêu với nhân dân, việc tiêu diệt kẻ có tội, kẻ gây ra thiệt hại cho nhân dân là điều cần thiết. Kẻ ác mà tác giả muốn nói đến ở đây chính là quân Minh xâm lược.
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, tác giả đã dựa vào nhiều dẫn chứng hùng hồn và chặt chẽ nhất:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”
Tác giả đã trình bày dẫn chứng cho việc nước ta là một quốc gia có văn hiến từ lâu đời, “núi sông bờ cõi đã chia/phong tục Bắc Nam cũng khác” cho thấy sự chia cắt rõ ràng giữa Trung Quốc và nước ta. Mỗi quốc gia có ranh giới riêng, vì vậy phong tục cũng khác nhau, có chủ quyền rõ ràng. Nước ta có một lịch sử lâu dài, một văn hóa riêng biệt của Đại Việt. Tác giả đề cập đến các triều đại quan trọng trong lịch sử của nước ta, và cũng đề cập đến các triều đại phương Bắc, cho thấy mỗi quốc gia có lãnh thổ riêng, không ai thâm nhập vào lãnh thổ của nhau. Tác giả cũng nhấn mạnh truyền thống anh hùng trong việc chống lại kẻ xâm lược ngoại bang của dân tộc ta”
Mặc dù mạnh yếu thay đổi từng thời điểm
Nhưng những anh hùng vẫn luôn tồn tại”
Đây là niềm kiêu hãnh của dân tộc, tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Do đó, tác giả đã tôn vinh tinh thần anh hùng của cả dân tộc và đồng thời cảnh báo quân thù, luôn âm mưu thôn tính nước ta:
“Vậy nên
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cớ còn ghi”
Tác giả đã liệt kê các danh tướng của Trung Quốc, khi đưa quân sang xâm lược nước ta, đều thất bại một cách thảm hại, bởi vì đó là hành động không chính đáng, vi phạm Sách trời, và vì thế chắc chắn sẽ gặp thất bại. Tác giả đã nêu lên một nguyên tắc rõ ràng: kẻ nào có ý đồ xâm lược nước khác, và dẫn quân xâm lược, đó chính là kẻ phản nhân nghĩa, nhất định sẽ gặp thất bại.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi nằm ở sự kết hợp giữa lý lẽ và thực tế. Qua đoạn trích này, ta càng thấy được Nguyễn Trãi đã lập luận một cách chặt chẽ và sử dụng chứng cứ mạnh mẽ, nêu lên tinh thần anh hùng của dân tộc, xác nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Đại Việt ta.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 5
Trong lịch sử văn học dân tộc, tác phẩm vĩ đại “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem như bản tuyên ngôn độc lập quan trọng thứ hai. Đây là một tác phẩm tràn ngập lòng tự hào của dân tộc. Chỉ cần đọc đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2), ta đã cảm nhận được điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau chiến thắng lịch sử của Lê Lợi và quân Lam Sơn trước quân xâm lược của nhà Minh. Tác phẩm này được viết ra để công bố sự chiến thắng của dân tộc, khẳng định ý chí độc lập tự chủ của quốc gia cùng cảnh báo quân thù về sự phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
Phần mở đầu của bài cáo là văn bản “Nước Đại Việt ta”. Mặc dù ngắn gọn nhưng đoạn trích này nêu bật các tiền đề quan trọng, đặt ra những quan điểm tích cực, mang ý nghĩa then chốt đối với toàn bộ bài viết. Những tiền đề đó là nhân nghĩa và chủ quyền tự chủ của dân tộc Đại Việt.
Bắt đầu bằng một đoạn văn đậm chất nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tập trung vào 'yên dân', 'trừ bạo'. Yên dân đồng nghĩa với hạnh phúc, thái bình cho dân. Để có yên dân, cần loại bỏ bạo lực. Người dân ở đây là người Việt Nam đang chịu đựng cảnh khổ cực dưới chế độ thống trị của giặc Minh. Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi liên quan chặt chẽ đến tình yêu nước và quốc gia. Kẻ bạo ngược ở đây chính là giặc Minh và lũ xâm lược.
Tiếp theo là những dòng văn đầy tự hào:
'Như nước Đại Việt ta từ xưa
Luôn kiêu hãnh nền văn hiến
Núi sông đồi núi phân chia
Phong tục Nam Bắc văn minh khác nhau
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần xây nền độc lập
Hán, Đường, Tống, Nguyên từng đế một phương
Dù mạnh yếu khác nhau theo thời gian
Nhưng anh hùng luôn hiện diện'
Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền độc lập dựa trên nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử và chế độ riêng. Tác giả đã đưa ra một khái niệm toàn diện về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của Nguyễn Trãi nằm ở việc kết hợp lý lẽ với thực tiễn. Anh hùng Nguyễn Trãi tự tin khẳng định truyền thống văn hiến của Việt Nam. Chúng ta rất tự hào về điều này.
Núi sông đã chia cắt
Phong tục Bắc Nam khác biệt
Dân ta có chủ quyền, mang nét văn hóa truyền thống riêng, tạo nên sự đa dạng giữa hai miền Bắc - Nam. Nền độc lập của ta được củng cố bởi lịch sử vĩ đại. Triều Đại Hùng cùng với nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc, và triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Quan trọng hơn, qua thế kỷ người Việt:
Dù mạnh yếu khác nhau theo thời gian
Nhưng anh hùng luôn hiện diện
So sánh với bài thơ “Sông núi nước Nam”, tác phẩm của Nguyễn Trãi vừa giữ sự tiếp nối vừa phát triển ý thức về độc lập dân tộc. Ý thức này không chỉ dừng ở lãnh thổ và chủ quyền mà còn mở rộng, bổ sung với văn hiến, phong tục, và truyền thống lịch sử anh hùng. Điều này cho thấy sự tiến bộ sâu sắc của ý thức dân tộc trong thời kỳ XV.
Trong văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả tinh tế sử dụng ngôn từ giàu có của dân tộc. Từ ngữ như: từ xưa, luôn vẻ vang, đã lâu, đã phân chia, khác biệt,... kết hợp với biện pháp so sánh và liệt kê, tạo nên hiệu quả trong lập luận. Những cấu trúc văn biền ngẫu, chạy song song cũng giúp tăng tính thuyết phục và rõ ràng của nội dung.
Là phần văn bản mở đầu của 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi, 'Nước Đại Việt ta' đã khẳng định tư tưởng yêu nước và thương dân của lãnh đạo Lam Sơn. Đoạn trích còn thể hiện vị thế vĩ đại của dân tộc trên nhiều phương diện, toát lên lòng tự hào vô bờ của tác giả.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 6
Nguyễn Trãi, một nhà văn lớn, một nhà chính luận, là anh hùng của dân tộc và danh nhân văn hóa toàn cầu. Tên tuổi của Nguyễn Trãi gắn liền với cuộc chiến chống lại quân Minh vào thế kỉ XV. 'Bình Ngô đại cáo' không chỉ là văn kiện lịch sử quý báu, tổng kết cuộc đấu tranh gian khổ của dân ta mà còn được xem như một tuyên ngôn độc lập, một 'hùng văn' của dân tộc. Đoạn trích 'Nước Đại Việt ta' trong 'Bình Ngô đại cáo' cho thấy sự phát triển vượt bậc của tư tưởng yêu nước của dân tộc ta vào thế kỉ XV.
Tháng 12/1427, quân Minh bại trận và rút lui. Tháng 1/1428, Nguyễn Trãi viết 'Bình Ngô đại Cáo' thay cho vua Lê. Bài thơ viết theo hình thức cáo, dành cho vua hoặc lãnh đạo, nhằm công bố kết quả một sự nghiệp trọng đại cho toàn dân biết. Đoạn trích 'Nước Đại Việt ta' nằm ở phần đầu tiên của bài cáo, nêu luận điểm chính nghĩa của cuộc chiến.
Hai câu thơ mở đầu tôn vinh tư tưởng 'nhân nghĩa', kết nối với tình yêu nước chống giặc ngoại xâm:
Đã từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
'Nhân nghĩa' ban đầu là đạo đức của Nho giáo, nói về cách ứng xử và tình thương giữa con người. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi đã phát triển ý tưởng đó, lấy lợi ích từ việc tôn trọng nhân dân, dân tộc làm trung tâm. Khởi nghĩa vì nhân dân, trừng trị kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt kẻ ác, mang lại cuộc sống yên lành cho nhân dân (yên dân), đó là hành động 'nhân nghĩa'. Điều này là một bước tiến lớn trong nhận thức của Nguyễn Trãi về đất nước: đất nước gắn liền với nhân dân. Yêu nước phải gắn liền với yêu dân, tạo ra cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân trong nước. Và để thực hiện điều này, cần loại bỏ sự tàn ác, đánh bại kẻ thù, bảo vệ dân và nước: 'Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước thương dân. Điều quan trọng nhất là chiến đấu đến cùng, chống lại xâm lược, tiêu diệt kẻ ác, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân' (Phạm Văn Đồng).
Dựa trên tư tưởng 'nhân nghĩa', Nguyễn Trãi khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc Đại Việt trên nhiều phương diện cụ thể:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Trong tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc trong bài thơ 'Nam quốc sơn hà', tác giả đã nêu ra những yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi tiếp tục kế thừa và bổ sung những yếu tố này, nhấn mạnh vào sự tự tôn dân tộc, khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ nó. Văn bản của ông không chỉ là lời khẳng định mà còn là cam kết kiên quyết để giữ vững chủ quyền độc lập của dân tộc ở thế kỉ XV.
Từ đó, tác giả đi đến những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về sức mạnh của dân tộc ta đã trải qua nhiều thử thách và lịch sử ghi lại những chiến công vĩ đại của tổ tiên: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết hy sinh, Toa Đô bị bắt, Ô Mã bị diệt trừ. Dẫn chứng được liệt kê một cách rõ ràng, thể hiện sức thuyết phục cao; đồng thời thấy rõ niềm tự hào sâu sắc của tác giả khi đối mặt với những chiến công ấy.
Đoạn trích mang ý nghĩa như một tuyên ngôn độc lập không chỉ bởi nội dung của bài Cáo mà còn bởi sức thuyết phục của nghệ thuật lập luận chặt chẽ, mạch lạc, logic; chứng cứ hùng hồn, lí lẽ sắc bén. Niềm tự hào dân tộc, hào khí chiến thắng rõ ràng trong từng câu chữ, nhịp điệu tiết tấu của âm văn tạo ra một cảm giác rộn ràng, mạnh mẽ đến tận cảm xúc của người đọc... Tất cả đã tạo nên sức mạnh của đoạn trích và toàn bộ tác phẩm, xứng đáng với danh hiệu: tác phẩm vĩ đại, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 7
Như chúng ta biết, Cáo cùng với Hịch, Chiếu là những văn bản chính trị từ trên cao hoặc trình bày, giải thích một chủ trương hoặc công bố một sự kiện. Ở đây, Nguyễn Trãi sử dụng từ 'đại cáo' vì sự kiện mà bài văn nói đến là một sự kiện quan trọng: cuộc chiến Bình Ngô. Yêu cầu ở một bài cáo nói riêng, một bài văn nghị luận nói chung phải chặt chẽ và rõ ràng, trong trường hợp này, tác giả vừa mô tả chiến tranh vừa thảo luận về nó. Điều này không đơn giản chút nào. Bài văn gồm bốn phần: sự mô tả về quốc gia Đại Việt; tội ác của kẻ thù; cuộc chiến thắng lợi; và mở ra một trang sử mới, theo thứ tự của loại văn miêu tả, thông thường. Tuy nhiên, nó còn chứa đựng ý nghĩa sâu xa hơn là chuyên chở tư tưởng của tác giả. Chính tư tưởng sâu sắc của ông mới làm cho bài văn trở nên rực rỡ, lung linh, và cảm động, xứng đáng với danh hiệu 'tác phẩm vĩ đại' được ca ngợi từ xưa.
Đặt đoạn một của bài văn trong bối cảnh tổng thể, vấn đề cần phân tích để rút ra là: sự tồn tại của quốc gia Đại Việt là một chân lí vĩnh hằng. Quốc gia này có tư tưởng, sức mạnh riêng biệt, có nghĩa là các yếu tố tinh thần song hành với các yếu tố vật chất như địa lí, đất đai. Vậy, tư tưởng riêng ấy là gì? Đừng nên trả lời rằng đó là đạo lí nhân nghĩa, dù câu văn trong bài cáo là 'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân'. Bởi nhân nghĩa ban đầu là một học thuyết của Nho giáo nói về quan hệ đạo đức giữa con người với con người. Nhưng đến Nguyễn Trãi, nó đã được mở rộng ra trong một ngữ cảnh mới: giữa các quốc gia, dân tộc. Tương tự sau này, vào thế kỉ 20, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập, đã 'mở rộng' nó ra. Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ áp dụng cho cá nhân mà còn cho các quốc gia, dân tộc. Nhân nghĩa đối lập với bạo ngược. Đó là tình thương và lẽ phải hướng về nhân dân. 'Trừ bạo' vì 'yên dân' là nhân nghĩa, đó là nguyên tắc. Khi đất nước bị xâm lăng, vì lòng trung thành với nhân dân, vì sứ mệnh, quân đội trở thành 'quân điếu phạt'. Nhân nghĩa không chỉ là một khái niệm mà còn là hành động, chỉ khi loại bỏ được ác mà có thể đạt được yên dân. Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật giữa hai khía cạnh tưởng như đối lập nhưng thực sự thống nhất. Hai câu văn như đôi chân lí thiêng liêng, làm cho câu văn toả sáng, lung linh, rung động từ xưa đến nay, xứng đáng với danh hiệu 'tác phẩm vĩ đại'.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần qua bao thế hệ góp phần xây dựng nền độc lập,
Khi đối mặt với Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi phía đều tuyên bố một vị thế độc lập.
So với câu thơ 'Nam quốc sơn hà Nam đế cư' thời Lí, niềm kiêu hãnh, tự hào đã được nâng lên một tầm cao mới, được tăng cường bởi ý thức văn hóa sâu sắc hơn. Linh hồn của 'địa linh' đã tạo ra những 'nhân kiệt' không thể phủ nhận. Quan điểm lịch sử này mang lại sự sâu sắc, đảm bảo sức sống và sự kiên cường không bị khuất phục. Đoạn văn này, nếu được hiểu sâu xa, mang hai lớp ý nghĩa: giữa các triều đại phương Nam và Bắc không chỉ tồn tại song hành mà còn có lí do chính đáng cho sự tồn tại đó. Để duy trì sự tồn tại đó, quốc gia Đại Việt đã trả giá bằng máu, nhưng dù vậy, chúng ta vẫn 'sẵn lòng hy sinh tất cả' (theo lời Hồ Chí Minh) để giữ chủ quyền, độc lập và tự do. Một điều nữa: nếu tính toán, so sánh một cách cơ học, thì lịch sử của miền Nam làm sao có thể sánh ngang với lịch sử của miền Bắc? Lời Nguyễn Trãi nhấn mạnh 'bao đời xây nền độc lập', 'Như nước Đại Việt từ trước', hoặc 'Vốn đã có nền văn hiến từ lâu' thực ra chỉ kéo dài vài trăm năm so với lịch sử hàng ngàn năm tính từ thời kỳ Chiến quốc. Sự thiếu hụt về thời gian vật lý đã được sự tự hào về tinh thần bù đắp để cân bằng. Đoạn văn không có ý định chứng minh (vì chỉ là truyền đạt sự thật) nhưng lại có tác dụng như một lời tự phản biện (câu hỏi và trả lời) với sự âm vang của lòng yêu nước tự phát. Đó là tiếng nói từ bên trong, cái ý nghĩa ẩn trong từng lời, chìm sâu dưới bề mặt của từ ngữ.
Đoạn văn thực sự bắt đầu chứng minh từ hai từ 'Vậy nên':
Vậy nên:
Khi Lưu Cung tham vọng nên thất bại, Triệu Tiết kiêu ngạo phải chịu bi kịch...
Nhưng điều này chứng minh điều gì? Có lẽ cả hai, cả tư tưởng nhân nghĩa, một nguyên tắc làm con người, cũng như quyền tự do của quốc gia dựa trên nguyên tắc đó, nghĩa là dựa trên nền tảng của 'nền văn hiến lâu đời'. Cuộc đối đầu lịch sử giữa bất nhân và không lợi ích của quốc gia Đại Việt chính là trên cơ sở ấy. Kẻ thù 'thất bại', 'chịu bi kịch' vì ham muốn vô độ, vì sự kiêu ngạo. Dựa vào sức mạnh quân sự, quyền lợi, không phải là đạo đức, mà chỉ là sức mạnh thô bạo, hậu quả không thể tránh khỏi. Ở đây, có cả nguyên nhân và hậu quả của sự thất bại, cũng như bằng chứng của sự thất bại như những hiện vật trong một bảo tàng, là một hình mẫu của sự xấu xí không thể quên, và đối với chúng ta, đó là minh chứng cho một nguyên tắc cao cả mà dân tộc Đại Việt đã tin tưởng (dĩ nhiên cũng là ý thức và hành động hi sinh - như cách Trần Quốc Tuấn nói ('Dù sống sót hay chết đi, số lượng người bất quyết không quan trọng, nghĩa là nếu có thể, dùng cả thân phận, với vận mệnh của mình'). Bạch Đằng, Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng sủa làm lay động lòng người, trong khi với kẻ địch, là một bài học đau đớn, danh tiếng bị hủy hoại mãi mãi. Nhưng còn điều đáng chú ý nữa: lời tiên tri (hai câu đầu bài cáo) đã được chứng minh ngay lập tức theo quy luật của quả báo (người làm gì thì người đó nhận lại) tức thời. Cái chết của Ô Mã, của Toa Đô với chúng ta là bất ngờ, không lý giải được. Ngược lại, cái chết 'bất đắc kỳ tử' ấy, chỉ chúng ta hiểu: mọi thứ diễn ra phải theo luật lệ, số mệnh trời phát định.
Bài Bình Ngô đại cáo bắt đầu không dài, nhưng vẫn là điểm tựa, là nền tảng lý luận cho toàn bộ bài văn. Nó đã hoàn thành nhiệm vụ của mình như một người hướng dẫn từ điểm xuất phát. Đoạn văn này tổng quát cao cả: chuyển những gì đã xảy ra thành những quy luật hoạt động. Người chiến thắng hoặc thất bại là do họ hành động theo ý nghĩ thuận lợi hay ngược lại. Kết thúc đoạn văn với hai câu 'Qua sự kiện xưa - Chứng cứ vẫn đây', Nguyễn Trãi muốn chuyển lời nói của mình thành lời của nhà sử học, biến sự chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng cá biệt thành quy luật vĩnh viễn để mọi người đều cân nhắc. Bề nổi của văn bản là sự nghiêm khắc răn dạy, trong khi bên trong là một nguyên lý, một tư tưởng, một nguyên tắc của con người: nhân nghĩa.
....