Tình cảm khát vọng tự do và lòng yêu nước trong bài Nhớ rừng gồm 5 mẫu, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về những khao khát tự do cháy bỏng của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhà thơ Thế Lữ đã dùng con hổ trong vườn bách thú để diễn đạt lòng yêu nước, khao khát tự do của người dân Việt Nam. Đây là tâm sự chung của những người yêu nước Việt Nam trong tình trạng mất nước. Mời các em cùng theo dõi bài viết để hiểu sâu sắc hơn:
Đề bài: Tại sao có thể nói rằng Nhớ rừng thể hiện tâm sự của người dân mất nước lúc bấy giờ? Em hãy giải thích và phân tích điều này.
Dàn ý Tình cảm khát vọng tự do và lòng yêu nước trong Nhớ rừng
I. Mở đầu
- Giới thiệu về bài thơ Nhớ rừng: Nửa đầu thế kỉ XX, đất nước ta chịu sự chiếm đóng của thực dân Pháp => nhiều bài thơ nói về tự do, về tinh thần đấu tranh ra đời, trong đó có Nhớ rừng của Thế Lữ.
- Dẫn dắt vấn đề khát vọng tự do và lòng yêu nước trong bài thơ.
II. Nội dung chính
* Bài thơ thể hiện lòng yêu nước và khao khát tự do:
- Trong bài Nhớ rừng, tác giả sử dụng hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để gián tiếp thể hiện lòng yêu nước và khao khát tự do của thanh niên trí thức cũng như của nhân dân Việt Nam thời kỳ đó.
- Con hổ biểu cảm buồn bã, uất hận vì hiện tại tù túng, tầm thường, mất tự do. Đối lập với tư thế của chúa sơn lâm, đầy oai hùng, kiêu hãnh, được vạn vật nể sợ.
- Con hổ “nhớ rừng” – nhớ “cảnh nước non hùng vĩ” - ngôi nhà thân yêu, bao la và tự do mà nó được làm chủ; nhớ thời oanh liệt, huy hoàng của nó ở nơi ấy. Vì thế, con hổ khát khao trở về, khát khao được tự do => nó dành riêng mình cho “giấc mộng ngàn to lớn// Để hồn ta được phảng phất gần ngươi// Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
- Vài năm sau khi bài thơ này ra đời năm 1936, tình hình đất nước đang chịu ách đô hộ, mất tự do => những cảm xúc của người dân mất nước: yêu nước, uất hận, khao khát tự do.
=> Tác giả thông qua con hổ trong vườn bách thú đã kín đáo bộc lộ tình yêu nước sâu sắc của một thanh niên trí thức. Đồng thời, ta cũng thấy được sự uất hận, khao khát vươn tới cuộc sống tự do của toàn dân tộc.
* Đánh giá về tinh thần đấu tranh cho tự do trong bài thơ Nhớ rừng
- Con hổ trở nên bi quan, buồn bã trước hoàn cảnh bị tù đày, tìm giải pháp qua hoài niệm và mơ ước.
“Gặm một khối căm hờn trong lồng sắt
Ta nằm đó, theo dõi ngày tháng dần trôi…”
= > Dù tràn đầy uất hận, tuy nhiên, con hổ lại chọn bế tắc và buông xuôi trước hoàn cảnh đó. Nó “nằm đó” trong lồng sắt để gặm nhấm “khối căm hờn” đã trở thành đá trong lòng.
- Đối mặt với tình huống đó, con hổ gửi hồn trở về quá khứ oai hùng để nhớ tiếc, và cố gắng theo đuổi giấc mộng để hồn được phảng phất gần với cảnh nước non hùng vĩ xa xôi đó = > làm điều này theo tinh thần lãng mạn.
“Ta sống mãi trong tình yêu và nỗi nhớ
Thời thời hoành hành mạnh mẽ trong những ngày xưa”
“Có biết không, trong những ngày mệt mỏi,
Ta theo đuổi giấc mơ lớn lao
Để hồn ta có thể gần gũi với người,
- Hỡi cảnh rừng u sầu của ta ơi!”
Thế Lữ là một nhà thơ lãng mạn trong trào lưu Thơ mới thập niên 32-45. Các nhà thơ Thơ mới với sự trẻ trung của bản thân, trước sự thống trị của thực tại đang nô lệ, họ lặn sâu vào bản ngã, vào thế giới tâm hồn để trốn thoát khỏi hiện thực. Có người lên mây, có người trở về quá khứ, hoặc đắm chìm trong tình yêu,… Thế Lữ cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Với bài thơ Nhớ rừng, ông không trực tiếp bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình như Tố Hữu mà truyền đạt gián tiếp qua lời của con hổ trong vườn bách thú. Đối diện với hiện thực khắc nghiệt, cách giải quyết của ông theo hướng lãng mạn: tìm lại quá khứ và mơ mộng.
- Kết nối và mở rộng với các tác phẩm khác: Khi con tu hú,…
III. Kết luận
- Khẳng định đây là một bài thơ hay, thể hiện sự khát khao tự do và tinh thần yêu nước mãnh liệt.
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc của tác phẩm này.
Khát vọng tự do và lòng yêu nước trong bài Nhớ rừng - Mẫu 1
Trong bài thơ Nhớ rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự uất hận, chán nản và khao khát tự do mãnh liệt thông qua lời của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Quay trở lại thời kỳ này, vào những năm đầu của thế kỷ 20, hoàn cảnh đất nước rơi vào cảnh khốn khó. Sau những cuộc thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, đất nước chúng ta bị suy đồi, dân chúng đau khổ, tình trạng xã hội rất căng thẳng và tù túng. Các thanh niên như thế hệ của Thế Lữ luôn mong muốn tìm kiếm một lối thoát nhưng lại cảm thấy bất lực trước thực tại. Bên cạnh đó, văn hóa phương Tây ngày càng lan rộng tới nước ta, tinh thần tự do và mong muốn sống tự do dâng trào trong văn học phát triển.
Chính vì lẽ đó, trào lưu Thơ Mới xuất hiện với xu hướng tìm cách thoát khỏi thực tại, thể hiện sự bất mãn, sự bất lực trước tình trạng xã hội. Thơ Mới cũng đã thể hiện sự chống đối mạnh mẽ trước thực tại tầm thường, sự bất lực của con người trước những giới hạn giả dối, tù túng của cuộc sống.
Đầu thế kỷ 20, tình hình ở nước ta rất khốc liệt. Pháp đàn áp dã man các phong trào nổi dậy của dân chúng. Trong khi đó, văn hóa phương Tây lan rộng vào nước ta, tạo ra một tầng lớp thanh niên mới. Họ cảm thấy bị đè bẹp trong hoàn cảnh kinh hoàng đó và không ngừng mong muốn tìm kiếm một cuộc sống mới.
Sử dụng hình ảnh con hổ tại vườn bách thú để diễn đạt cảm xúc của mình, Thế Lữ đã tạo ra một cảnh vật sống động, ẩn chứa nhiều điều sâu xa. Bị giam cầm một cách bất công, nó nhớ lại quá khứ hùng vĩ ở núi rừng và mơ ước về tự do. Điều này thể hiện lòng khao khát tự do và tình yêu quê hương trong bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ một cách tài tình và sắc sảo.
Đầu bài thơ, Thế Lữ mô tả hình ảnh con hổ trong vườn bách thú với tâm trạng buồn bã:
“Nghiến một khối oán hờn trong lồng sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng trôi qua”.
Từ “nghiến” thể hiện rõ tâm trạng bực tức của con hổ. Nó suy ngẫm về bi kịch của mình mà không hiểu được nguyên nhân. Bởi vì không hiểu, nó cảm thấy mệt mỏi, chán nản. Nó trôi dạt suốt thời gian trong tư thế “nằm dài trông ngày tháng trôi qua”.
Thật đáng sợ khi ta mong muốn điều gì đó mà không tin rằng nó có thể xảy ra. Và càng đáng sợ hơn khi con hổ bị bao quanh bởi lồng sắt vững chắc. Điều này giam cầm nó mãi mãi. Tuy nhiên, sự oai hùng của nó vẫn không bị mất đi:
“Coi thường những kẻ ngạo mạn, ngơ ngác kia,
Liếc nhìn khinh thường dáng vẻ oai linh của rừng sâu”.
Trước mặt con hổ, những điều quen thuộc luôn lặp đi lặp lại nhàm chán. Loài người kia dù có thể giam cầm nó, nhưng nó không sợ hãi mà còn coi thường, khiêu khích, luôn đe dọa. Nó tự bênh vực tình cảnh của mình và coi đó chỉ là một rủi ro. Bởi lỡ bước sai nên phải chịu “sự nhục nhã tù hãm”. Dường như, vai trò và sức mạnh của nó đã bị loài người đoạt mất.
Nó luôn kiêu hãnh về sức mạnh của mình và luôn hồi tưởng về quá khứ mỗi khi tâm trạng rơi vào trạng thái u tối như thế này:
“Ta sống mãi trong tình thương và nỗi nhớ
Thuở tung hoành tự do những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng mát cây già
Với tiếng gió rền rĩ, với tiếng suối hò hét núi
Với âm điệu khúc ca vang vọng dữ dội…”
Chốn rừng thiêng xưa mà con hổ từng cai trị là một khung cảnh rùng rợn. Qua nỗi nhớ của con hổ, chúng ta nhận ra điều đó. Khung cảnh hiện lên với “bóng mát cây già” u ám, bí ẩn. Chốn rừng với “tiếng gió rền rĩ, tiếng suối hò hét núi” làm kinh thiên động địa khiến muôn loài phải sợ hãi và lẩn trốn. Tính cách của một vị chúa rừng luôn thể hiện đúng bản chất quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Ở đó, con hổ đã hiện lên với tư thế tự cao tự đại nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai vệ giữa núi rừng hùng vĩ:
“Ta bước đi trên con đường cao vút
Trôi nhẹ nhàng như sóng biển đang nhấp nhô
Vây quanh bởi bóng cây và lá, âm thầm và đầy gai góc
Trên đôi mắt thần sắc khi đã hóa thân
Làm cho mọi thứ trước mặt phải im bặt
Ta biết mình là chúa tể của muôn loài
Giữa những cánh đồng hoang vắng không tên tuổi”.
Mọi sắc thái của con hổ hiện lên sống động trước đôi mắt của người đọc, truyền đạt được với lời văn đầy sức sống. Con hổ với tư thế tự do, kiêu hãnh, di chuyển như sóng biển, mây vờn, lặng lẽ giữa vũ trụ bao la. Không có loài nào dám đứng cùng nó. Nó nhìn khắp không gian bằng đôi mắt thần thánh. Ngay cả trong bóng tối, không gì có thể che giấu nó. Đó là một tư thế hoàn toàn tự do, thống trị cả ánh sáng lẫn bóng tối. Nó nhận ra muôn loài đang sợ hãi, đáng thương như chuẩn bị bước vào cõi chết. Sức mạnh oai vệ của nó đủ sức lấn át mọi sự đối địch và sẵn sàng tiêu diệt tất cả.
Đó là quyền uy tuyệt đỉnh của vị chúa tể rừng xanh không ai địch thủ được. Không gian thần bí với những loài cây không tên, không tuổi mà con người chưa từng biết hay đặt chân đến. Nó tự hào về điều đó. Những gì nó biết và thống trị vượt xa những gì con người đã biết và chiếm lĩnh. Đó là một bí mật mà nó không bao giờ muốn tiết lộ.
Chưa dừng lại, hồi ức của con hổ tiếp tục mơ về những ngày hùng vĩ, gắn bó với những kỷ niệm không bao giờ phai mờ:
“Nơi những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mê thức dậy dưới ánh trăng tan?
Nơi những ngày mưa phủ khắp bốn phương ngàn,
Ta ngồi lặng nhìn vẻ đẹp của non sông?
Nơi bình minh rọi bên những cây xanh ngập nắng,
Âm thanh chim hót thức tỉnh giấc ngủ của ta?
Nơi những chiều buông xuống trong sự yên bình của rừng.
Ta đón đợi cảm nhận ánh sáng mặt trời cuối cùng,
Để ta sở hữu một phần bí mật?”
Chín câu thơ như bốn bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đại ngàn và niềm vui sướng của con hổ. Nó thưởng thức say sưa và tự hào dù chỉ trong hồi ức. Cảm xúc mãnh liệt, không ngừng làm nó say mê. Đó là những đêm vàng ánh trăng bên bờ suối êm đềm. Sau khi đi săn, nó ngập tràn trong ánh trăng mơ hồ. Đó là những ngày mưa phủ khắp bốn phương ngàn, vũ trụ vào cơn loạn chiến khủng khiếp. Đó là những bình minh rực rỡ ánh sáng và tiếng chim hót ru dịu giấc ngủ. Đó là những chiều lênh láng máu sau rừng thể hiện sức mạnh chinh phục và sự tàn sát của vị chúa sơn lâm.
Mọi thứ diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ đến đáng sợ. Con hổ chiếm giữ một sức mạnh phi thường vượt trội. Ta có cảm giác như chính con hổ đã tạo ra luật lệ trong một thế giới riêng mà ở đó nó thống trị tất cả. Không có cuộc đối thoại, không có sự đấu tranh, mọi thứ đều tuân theo một cách tuyệt đối.
Tuy nhiên, câu thơ cuối cùng đưa người đọc trở lại hiện thực. Tất cả chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ hùng vĩ, lẫm liệt để tái sinh nghị lực và sống tiếp. Hiện thực đóng lại trang giấc mơ hoành tráng:
– Ôi thời oanh liệt! Bây giờ còn đâu?
Nếu trước đây nó kiêu hãnh, bây giờ nó lại chán chường. Hai từ “ôi thời oanh liệt!” như là lời than thở thống thiết, bất lực trước hiện thực và nuối tiếc về chốn rừng xưa đã mãi mãi không còn. Bây giờ, nó đối diện với hiện thực và khinh miệt nó:
“Hôm nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Chán ghét những cảnh không bao giờ thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen như suối giả, không có dòng chảy
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”.
Trước mắt hổ, khung cảnh vườn bách thú thật tầm thường và giả dối. Tất cả đã bị ngụy tạo một cách vụng về, không thể che giấu được sự thấp kém. Hổ khinh mạn điều đó khi so sánh với chốn rừng thiêng bí hiểm, âm u. Cảnh vật giả tạo, phù phiếm khiến nó thất vọng. Tất cả tầm thường, không một chút tương xứng nào với nó. Càng nhìn ngắm, nó càng ngao ngán.
Vì thế, nó không ngừng nhớ về cảnh vật trước mắt khiến nó càng thêm chán ghét. Ít ra, khi bị giam cầm, nó cũng cần có điều gì đó đáng để nể phục hoặc tự hào. Nhưng ở đây, sự đối lập quá lớn, quá tàn nhẫn. Điều đó khiến cho những mâu thuẫn trong nó không ngừng trỗi dậy trong tiếng kêu than thảm thiết:
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được chứng kiến bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo đuổi giấc mộng vô cùng lớn lao
Để hồn ta gần gũi hơn với ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Câu thơ “Nơi ta không còn được chứng kiến bao giờ!” xác nhận sự bất lực hoàn toàn của con hổ. Giờ đây, nó đã chấp nhận sống với hiện thực thấp kém này và tự nhắc nhở mình thôi mong mỏi hay hi vọng. Chiếc khung lòng mỏng manh nhưng giam giữ quá chặt. Dù có sức mạnh như nó, cũng không thể phá vỡ. Nó chỉ mong muốn rằng những giấc mơ đó, dù chỉ là giấc mơ, sẽ tiếp tục đến để an ủi hồn của hổ, để tiếp tục sống qua những ngày còn lại.
Thể hiện khát vọng tự do và lòng yêu nước của Thế Lữ qua tâm sự của con hổ, đồng thời cổ vũ tinh thần yêu nước của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Mặc dù không có lối thoát, nhưng bài thơ vẫn thể hiện sức sống và khát vọng vươn lên của dân tộc trong thời kỳ nô lệ. Niềm mơ mộng đó có sức mạnh tiếp thêm hy vọng cho con người trong cuộc sống.
Khát vọng tự do và lòng yêu nước trong bài thơ 'Nhớ rừng - Mẫu 2'
Thế Lữ là một nhân vật nổi bật trong phong trào Thơ mới, mang tâm sự của thời đại và đất nước. Ông khao khát một cuộc sống tự do và cá nhân được tôn trọng và phát triển. Niềm khát khao ấy được thể hiện qua lời con hổ ở vườn bách thú trong bài thơ 'Nhớ rừng'.
Trong bài thơ, Thế Lữ tạo dựng một nhân vật lãng mạn - con hổ, để miêu tả tâm trạng và cảm xúc của mình.
Ban đầu là tâm trạng căm uất, ngao ngán của Thế Lữ:
Mặc cảm căm hờn trong giam cầm
Nằm dài đợi chờ ngày qua tháng lại
Đó là nỗi căm phẫn của người thất bại, bị giam cầm và sống trong sự nhục nhã vì bị giam giữ. Nghĩ đến chốn rừng thiêng, lòng ngao ngán bùng cháy, không gì khác ngoài việc nằm đợi ngày qua tháng lại.
Trong tâm trạng uất hận và chán nản, cảnh vườn bách thú hiện lên như một hình ảnh tầm thường, tù túng và giả dối!
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen đầy giả suối, không chảy điều gì
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không ẩn chứa gì
Cũng chỉ là bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, u ám.
Cảnh sống đó, với con hổ, quả thực là đáng buồn, đáng khinh và đáng ghét đến tột cùng!
Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối và tù túng dưới ánh nhìn của con hổ, có phải là hiện thực của xã hội hiện nay được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn. Và thái độ của con hổ, có lẽ cũng là thái độ của họ đối với xã hội hiện tại.
Trong cảnh giam cầm tù hãm, con hổ nhớ tiếc đau đớn một thời oanh liệt đã qua.
Chúng ta sống mãi trong tình thương và nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Một cảnh tượng huy hoàng sống lại trong tâm trí con hổ. Nó sống tự do giữa những ngọn núi cao của đại ngàn với những điều lớn lao, phi thường, mãnh liệt và dữ dội, hoang vu và bí ẩn: tiếng gió gào ngàn, tiếng nguồn hét núi, và “bóng âm thầm lá gai cỏ sắc”.
Trên nền thiên nhiên hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện lên oai nghiêm, uy quyền:
Khi ta bước chân lên, dằng dặc, trên con đường cao quý.
Chuyển động như sóng cuộn nhẹ nhàng,
Vây bao bóng tối âm thầm, lá gai và cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần sáng sủa đã quắc,
Làm cho mọi thứ im lặng.
Nỗi nhớ của con hổ về những cảnh sống tuyệt vời, từ những đêm vàng bên bờ suối... khiến nó đứng say ngắm ánh trăng tan, đến bình minh rực rỡ cây xanh được nắng tắm, tiếng chim ca... hoặc những trận mưa chuyển dịu mát và máu sau rừng, tất cả đã qua rồi, và giờ nó đang hỏi: Thời gian oanh liệt ấy đâu rồi? Giấc mơ hoành tráng của con hổ đã khép lại trong tiếng than u uất:
Than ôi! Thời kỳ hoành tráng đó đã đi đâu!
Nỗi đau và niềm hy vọng trong lòng con hổ, liệu có phản ánh nỗi đau và hy vọng của những người dân Việt Nam thời bị bắt làm nô lệ? Nhớ rừng đã chạm đến dây thần kinh nhạy cảm nhất của những người sống mất nước, đang sống trong nô lệ! Càng nhớ về quá khứ đầy kiêu hùng, con hổ càng khát khao trở lại rừng thiêng. Khao khát ấy cháy bỏng trong lòng nó:
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi của những con hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi rộng lớn, nơi chúng ta đã từng tự do tung hoành ngày xưa,
Nơi mà ta không còn được tận hưởng bao giờ nữa!
Có biết không, trong những ngày nản chí,
Chúng ta vẫn theo đuổi giấc mơ vĩ đại ấy,
Để linh hồn chúng ta gần gũi hơn với người,
Hỡi rừng đại ngàn của ta!
Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắn xúc động, mà lòng người đọc sẽ không quên. Khát vọng trở lại rừng của con hổ là cảm xúc của một dân tộc mong muốn sống tự do.
Lời của con hổ trong vườn bách thú thể hiện tâm trạng bi kịch, cũng là tâm trạng của người dân Việt Nam lúc đó. Họ nhìn thấy con hổ nhớ rừng như là tiếng trái tim của họ. Bài thơ nói lên nỗi đau về thân phận nô lệ, sự ghê tởm với xã hội hiện tại, nhớ về quá khứ kiêu hùng của dân tộc và khao khát tự do mãnh liệt. Nhớ rừng có thể được coi là một bản thơ yêu nước.
Khát vọng tự do và lòng yêu nước được thể hiện qua vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn, với sự tài hoa của nghệ thuật, đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt cho bài thơ này.
Khát vọng tự do và tình yêu nước trong Nhớ rừng - Mẫu 3
Tại sao tác giả bài thơ lại dùng “lời con hổ ở vườn bách thú”? Đó có thể là để tránh hiểu lầm và suy diễn sai. Con hổ là biểu tượng của sự trữ tình và nhân văn trong bài thơ. Phía sau, nó có thể liên tưởng đến mong muốn giải phóng cá nhân và nỗi niềm của một dân tộc đang khát khao tự do, nhưng cũng nhớ về quá khứ rực rỡ. Khi phân tích bài thơ, không thể bỏ qua cái nhìn chính diện này.
Cảnh cầm tù của con hổ tạo nên nỗi u uất sâu sắc, bi kịch. Con hổ không thay đổi giữa sự thay đổi của hoàn cảnh, vẫn tự xem mình là vị vua ngự trị trên ngai vàng. Tâm trạng u uất của nó như là một hồng cầu chạy suốt bài thơ, làm nên từng câu thơ.
Đoạn thơ nói về sự thay đổi và xung đột không thể giải quyết được. Con hổ bị “cầm tù”, đối mặt với sự thay đổi không chấp nhận được: giả tạo và tầm thường. Sự đối lập giữa con hổ và con người tạo nên sự ngột ngạt:
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Âm điệu của câu thơ là sự cách tân, đầy biểu cảm. Tâm trạng bất lực và u uất của con hổ rõ ràng như một bức chân dung. Nỗi u uất cứ tích tụ dày đặc trong lòng con hổ, như một nỗi đau đầy biểu cảm.
Sự căm phẫn của con hổ đối với con người và các loài khác tạo nên sự thay đổi trong thế giới của nó. Sự tương quan đối nghịch giữa con hổ và con người làm nên một giọng thơ sắc nét, là kết quả của sự đối lập và xung đột.
Thua cuộc một cách bất công, không phải vì thiếu tài năng và sức mạnh (có lẽ con người chỉ hơn loài hổ ở khía cạnh trí tuệ và chiến lược). Thật đáng tiếc khi thua vì thắng, khi những đôi mắt hạt đậu có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự bị xem thường đối với loài hổ, thật đau lòng khi vị thế cao quý phải bị xem như một trò đùa. Câu thơ về đôi báo, những chú gấu chỉ là một mảnh vĩ thanh trong cái bối cảnh hèn kém mà con hổ phải gánh chịu. Nếu đoạn đầu nói về sự thay đổi vị trí, thì đoạn cuối nói về trạng thái tâm lý của con hổ khi phải đối mặt với điều nó không mong muốn. Tâm trạng đó giống như một quả bóng bị xì hơi, là cảm giác của một chú chim không thể vỗ cánh. Cảnh thiên nhiên xung quanh tuy là hoành tráng, nhưng không có linh hồn.
Hoa chăm, cỏ cắt tỉa gọn gàng, lối đi phẳng mịn, cây trồng xanh mướt; Dải nước đen như một con suối giả, không chảy đi đâu; Len dưới những cái nách của những đồi thấp bé...
Nếu thay đổi trong thơ bắt đầu từ nhịp điệu, đây là một ví dụ điển hình. Nếu phá vỡ nhịp điệu, câu 1: 2/2/2/2, câu 2: 5/3, câu 3: 3/5 thật là đột phá. Nó khai phá sự chật chội, bị ràng buộc, cần phá vỡ để thể hiện cảm nghĩ sâu xa, mong muốn được tự do để thể hiện điều thật sự trong lòng.
Giữ và phá vỡ, đó là động lực sáng tạo của mỗi đoạn thơ. Đây cũng là nguồn cảm hứng của cả bài thơ nếu nhìn từ góc độ tổng thể. Sự kết nối giữa hiện tại và quá khứ, cái đã mất và cái vẫn còn, cái tầm thường và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều tạo nên sự lấp lánh. Tuy nhiên, bài thơ là một mối hoài niệm. Quá khứ mới là điểm cuối cùng, là cứu cánh. Niềm đam mê dẫn dắt ta không phải từ hiện tại mà từ quá khứ, từ một thời điểm không thể quay lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn đó hướng về rừng sâu - nguồn gốc của sự tự hào khi “hầm thiêng” là vương giả.
Bỏ qua hiện tại, con đường duy nhất là quay về quá khứ hoặc hướng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, chỉ có quá khứ. Sự đối lập giữa hai không gian này đưa đến cảm xúc lãng mạn, những giai điệu cuồng nhiệt. Quá khứ trở thành một vùng sáng chói, được tưởng tượng lên đến mức cực độ sảng khoái. Thơ mới và lãng mạn chủ nghĩa đã tạo nên một không gian tự do cho riêng mình. Cái to lớn, cảm xúc mãnh liệt, phi thường trong sương mờ bí ẩn, huyền ảo của quá khứ làm sáng tỏ một khối bất mãn của hiện tại. Đó là một quá khứ đặc trưng của loài hổ: bao gồm cả thời gian, không gian và kí ức về những thời khắc huy hoàng mà không thể quay lại. Các yếu tố ngoại cảnh và nội tâm được kết hợp để miêu tả và làm nổi bật nhân vật chính là “ta”, thực chất là “tôi” tỉnh táo, “tôi” trung tâm của một “thời khắc rực rỡ”.
Rừng thiêng hiện lên khác nhau với bóng cây, cây già, đôi khi là bóng tối âm thầm với lá cây gai góc, những cỏ hoa vô danh. Ba mặt của tự nhiên liên quan đến sự vĩnh hằng, hoang dã, âm u và sự vẻ vang của hoa cỏ vô danh để tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải kính phục. Hình ảnh uy nghiêm của nhân vật thần thánh hiện ra trong một bức tranh tường trình rõ ràng, sức mạnh trong và ngoài trông ghê rợn. Mỗi bước đi của con hổ, mỗi động tác tự nhiên của nó không giống ai khác. Sự phong phú và đồng nhất trong hệ thống động tác ngoài hình này chuẩn bị cho một khoảnh khắc cao trào, khi mọi thứ trở thành của riêng nó, do nó chiếm giữ:
Trong hang tối, khi mắt thần sáng lên, khiến mọi vật im lặng.
Cảm giác của chúng ta khi đọc là con hổ đang trôi ngược thời gian, đắm chìm trong hoài niệm không phải vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình yêu và nỗi nhớ”. Những câu tám chữ với dung lượng lớn hơn câu thất ngôn được nối lại bằng những từ ngữ ở đầu câu không phải là tình cờ, như những lời bác sĩ đặt ra cho “tình yêu và nỗi nhớ” kéo dài:
Nhớ về cảnh sơn lâm, bóng cây già, với tiếng gió rít và tiếng núi gào, với những giai điệu thúc giục dữ dội...
Đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba khác với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi tiếc nuối, nỗi nhớ (trong khi đoạn hai là một bức tranh chân dung). Nỗi nhớ buồn tới nghẹn lòng được tạo nên bởi ngôn từ đặc biệt. Những từ “đâu” như châm vào trái tim như kiếm tìm ở một vùng hoang vắng, xa xôi, xuất hiện ở đầu câu và kết thúc bằng những dấu hỏi chậm rãi như một lời oán than, ngẩn ngơ:
Nào những đêm vàng bên bờ suối... Những ngày mưa khắp bốn phương... Những bình minh...
Quá khứ của con hổ, từ đoạn hai đến đoạn ba và kết thúc ở đoạn năm, dường như ngày càng xa vời. Cảm xúc trong thơ dường như đang lạc lối. Thời gian mất đi định hình, những câu thơ vội vã như muốn giữ lại chút gì đó của quá khứ.
Hình tượng con hổ, vừa là thi sĩ vừa là vị vua rực rỡ, nổi lên trong ánh chiều buông, tầm cỡ con hổ dường như ngày càng lớn dần. Sự động đậy bất ngờ và biến ảo tạo ra những câu thơ tinh tế, đặc biệt là với bài thơ và cuộc cách mạng hiện đại hóa thơ. Nhiều người nhận xét đoạn thơ như một bức tranh tứ bình gồm đêm, ngày, sáng, tối. Tuy nhiên, cần chú ý hơn đến tâm hồn, bản chất của thơ. Đêm tối trở thành đêm vàng thơ mộng, suối ngàn sâu, ngàn xưa lộng lẫy hơn. Nó truyền vào tâm hồn con hổ, biến nó thành một thi nhân (“Ta đứng ngắm giang sơn ta đổi mới”). Cũng vậy, “ngày mưa” buồn bã, u tối, nhưng với một tâm hồn mới (đã được lược gỡ bỏ để không còn bình thường nữa), con hổ có một cảm giác khác, trong trầm lặng chỉ rực rỡ bên trong: “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Trong bài thơ có hai câu rất độc đáo về cách sắp xếp câu: (“Với khi thét khúc trường ca dữ dội”), và một cho đoạn ba: “Ta đợi mặt trời chiếu rọi gay gắt”. Đây là hai trường hợp sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, tạo ra hình ảnh kỳ lạ, to lớn của con hổ: hoặc với nó, thiên nhiên phải nâng tầm lên cho đáng, hoặc nó không chỉ là nó, nó đang tiến tới chiều sâu vũ trụ vô hạn.
Đoạn năm của bài thơ, như đã phân tích, vẫn là dòng chảy của hoài niệm, nhưng hình ảo của quá khứ xa xôi dần dần được thay thế bởi cái hiện thực. Mà khi hiện thực hiện ra, thì đâu còn là thơ nữa. Quá khứ không còn tồn tại trong dạng hình ảnh. Chỉ là ý tưởng trong câu “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ”. Câu “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa” cũng chỉ là lặp lại câu “Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Hiện thực khi hiện ra chỉ là sự chật chội, tù túng, với ước mơ, tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng đau lòng. Có lẽ chỉ là những ngày đầy buồn bã,
Ta theo giấc mộng lớn lao, để hồn ta gần gũi hơn với ngươi...
Cảm thấy vô nghĩa, bế tắc, tất cả chỉ còn là một ước mơ hão huyền. Tuy nhiên, con hổ vẫn giữ được niềm tin, không chấp nhận hoàn cảnh bị tước đoạt và thay đổi. Điều còn sót lại đó vẫn là một điều đáng trân trọng.
Khát khao tự do và lòng yêu nước trong tác phẩm 'Nhớ Rừng - Mẫu 4'
Ngay từ khi mới xuất hiện trong văn học, phong trào Thơ Mới đã là dấu ấn cho sự thay đổi lớn lao của thi ca dân tộc. Để có những thay đổi lớn lao đó, đó là nhờ sự cống hiến và đam mê của nhiều nhà văn với tâm hồn lãng mạn và giàu cảm xúc. Một trong những nhà văn nổi bật ngay từ đầu là Thế Lữ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của phong trào Thơ Mới, trong đó tác phẩm 'Nhớ Rừng' là điển hình. Trong 'Nhớ Rừng', Thế Lữ đã thể hiện sự u uất, chán nản và khát khao tự do cháy bỏng qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Trong những ngày đầu của phong trào Thơ Mới, đã có nhiều sự phát triển về phong cách và nội dung. Trên quãng đường phát triển đó, Thơ Mới đã từ từ thoát khỏi sự chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính giác quan, những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ. Đây là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt ra ngoài thực tế khách quan. Chính vì thế, Thơ Mới có xu hướng thoát ly khỏi thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước tình trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại bình thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.
Cùng với thái độ phản kháng đó, Thế Lữ đã viết những dòng thơ đầy cảm xúc trong tác phẩm 'Nhớ Rừng'. Mượn lời của con hổ ở vườn bách thú để diễn đạt tâm trạng của mình. Thế Lữ đã xây dựng một bức tranh vừa thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả những hình ảnh được nhắc đến trong bài đều xoay quanh cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ bị giam cầm trong một cái lồng sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng sự u uất, ngao ngán trong cảnh giam cầm tù túng, những cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn bách thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nuối về quá khứ hùng vĩ trên núi rừng. Đây là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa hiện tại và quá khứ.
Con hổ, một lúc là vị chúa tể của muôn loài, nhưng giờ đây phải sống trong cảnh “nhục nhằn” trong cái lồng sắt. Cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và giờ đây trở thành một “trò lạ” trong mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống hiện tại trở nên vô vị nhạt nhẽo vì phải sống trong một môi trường không xứng đáng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.
Gặm một khối căm hờn trong cấu ngầm sắt, ta nằm dài chờ ngày tháng trôi qua
Hổ cảm thấy bất lực vì không thể thoát khỏi cuộc sống tù túng, cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng dù ở trong hoàn cảnh nào thì loài 'giống hùm thiêng' luôn nhận thức thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Hơn ba mươi tuổi, hổ đã thể hiện thái độ khinh thường, coi thường sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thực sự của thiên nhiên của những con người 'ngạo mạn ngẩn ngơ' chỉ biết 'giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm'. Chán nản bởi phải sống bên bầy 'bọn gấu dở hơi', 'cặp báo chuồng bên vô tư lự'! Làm sao chịu được cuộc sống chung với 'bạn bè' cùng cảnh ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén thành hờn căm trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương đó, hổ đã hồi tưởng về cuộc sống huy hoàng của mình:
Sống mãi trong tình thương và nỗi nhớ, thuở tung hoành hống hách những ngày xưa, nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già, với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, với khi thét khúc trường ca dữ dội...
Hổ tiếc nhớ về thời 'hống hách' ở nơi 'bóng cả cây già'. Đó là nỗi nhớ đau đáu về rừng thẳm. Nhớ rừng là nhớ tự do, nhớ về 'thời oanh liệt', là nhớ về sự cao cả, chân thật, tự nhiên. Ở chốn nước non hùng vĩ đó, hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những gì hổ cần làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục. Ở đó, hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:
Bước chân lên đường hoàng dõng dạc, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc, trong bóng tối mắt thần khi đã quắc, khiến mọi vật phải im hơi. Ta biết ta là chúa tể của muôn loài, giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi
Đây là vẻ đẹp thật sự của con hổ! Từng bước chân, từng tấm thân, từng ánh mắt đã khơi gợi lên một dáng vẻ vừa dũng mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh thú đã thể hiện sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho mọi vật phải 'im hơi'. Cuộc sống tự do giữa rừng thẳm luôn là một điều rất cao quý. Ở đó con hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã dành cho. Đó là những khoảnh khắc con hổ đang 'say mê', đang ngắm sự thay đổi của 'giang sơn', đang mong muốn chiếm lấy riêng 'phần bí mật'. Nó đã được thoải mái trong vẻ đẹp của giang sơn và khẳng định giá trị thực sự của cuộc sống với những khung cảnh lộng lẫy tươi đẹp và đầy sức quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả chỉ còn là những kỷ niệm thuộc về quá khứ. Hổ chẳng bao giờ được chứng kiến những cảnh 'đêm vàng bên bờ suối', nhìn thấy 'những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn', nghe tiếng chim hót, đắm mình trong cảnh 'bình minh cây xanh nắng gội', đợi chờ 'mặt trời lặn' của buổi chiều 'lấp lánh máu sau rừng'. Những cảnh đó chỉ để lại trong con hổ cảm giác tiếc nuối, ngậm ngùi trong sự xúc động mạnh mẽ, dồn dập của những câu hỏi đau đớn xót xa. Nỗi nhớ mãnh liệt tuôn trào về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ huy hoàng trong một tiếng than thương thiết:
Than ôi! Thời oanh liệt bây giờ đã đi về đâu
Một lời nhắn tha thiết của con hổ về núi rừng. Dẫu đang bị sa cơ nhưng hổ không giấu được niềm tự hào khi nói đến 'nước non hùng vĩ'. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Dù bây giờ không bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy, hổ vẫn không bao giờ ngừng nghĩ về 'giấc mộng ngàn to lớn'. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được sống mãi trong những ký ức, những kỷ niệm của những vẻ đẹp một khi đã khép lại:
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
Nỗi lòng của hổ là tâm sự của Thế Lữ: mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.
Nhớ Rừng không thể thoát khỏi nỗi buồn, 'tâm bệnh của thời đại' bấy giờ. Tuy nhiên, bài thơ đặc sắc vì đã tạo nên sự giao hòa giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Đồng thời, nó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.
Sở hữu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã truyền cảm hứng một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tưởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để diễn đạt những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình, từ đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng và khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.
Cảm nhận về khát vọng tự do và tình yêu nước qua bài thơ “Nhớ rừng”
Thế Lữ là một trong những gương mặt xuất hiện sớm và nổi bật trong phong trào Thơ mới, mang nặng tâm sự thời thế đất nước. Ông không tránh khỏi tâm trạng u uất, bất hoà sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, giả dối, ngột ngạt đương thời. Thế Lữ khao khát một cái tôi được khẳng định và phát triển trong một cuộc sống tự do. Tâm sự ấy, niềm khát khao ấy được ông kí thác vào lời con hổ ở vườn bách thú qua bài thơ Nhớ rừng.
Trong bài thơ, Thế Lữ tạo dựng một nhân vật trữ tình lãng mạn: con hổ. Toàn bộ cảm hứng lãng mạn của Thế Lữ được thể hiện qua miêu tả tâm trạng của con hổ.
Ban đầu là tâm trạng căm uất, ngao ngán:
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm trải dài trông ngóng ngày tháng qua đi
Đó là nỗi uất hận của người chiến bại bị sa cơ, rơi vào cảnh sống bị giam cầm tù túng, phải chịu sự nhục nhã vì bị giam hãm. Khi nghĩ đến sơn lâm xa xôi, nỗi ngao ngán ấy càng trỗi dậy, đành buông xuôi bất lực, nằm trải dài chờ đợi ngày tháng trôi qua.
Trong tâm trạng uất hận và chán ngán đó, cảnh vườn bách thú hiện lên trước mắt như một thực tại tù túng, tầm thường và giả dối!
Cỏ cây chăm chỉ, đường lối phẳng lặng
Dòng nước đen như giả suối, không chảy đi,
Những mô gò thấp kém dưới nách đất;
Chúng chẳng có gì bí hiểm, chỉ là lá vụng về
Cố học bắt chước vẻ hoang sơ
Của vùng đất giàu sức sống, âm u suốt nghìn năm.
Cảnh sống đối với con hổ thật đáng chán, đáng khinh và đáng ghét!
Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối và tù túng trong mắt con hổ có thể là sự thể hiện của xã hội hiện đại qua những tâm hồn lãng mạn. Thái độ của con hổ có thể là sự phản ánh của họ đối với xã hội ngày nay.
Trong tình cảnh giam cầm, con hổ nhớ mãi đến đau đớn của thời oanh liệt đã qua.
Ta sống mãi trong tình yêu nỗi nhớ
Thuở tung hoành hùng hồn những ngày xưa
Một cảnh huy hoàng sống lại trong tâm trí con hổ. Nó sống tự do giữa giang sơn của mình trong nơi đại ngàn với những điều lớn lao, phi thường, mãnh liệt và dữ dội, hoang vu và bí ẩn: gió gào ngàn, tiếng hò những nguồn suối, “bóng âm thầm lá gai cỏ sắc”.
Trên bầu trời thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh con hổ hiện lên với vẻ oai phong, lẫm liệt:
Ta bước chân lên dằng dặc, vững vàng
Lượn tấm thân như những đợt sóng cuộn nhẹ nhàng,
Vây bọc bóng âm thầm của lá gai, cỏ xanh,
Trong bóng tối của hang động, đôi mắt thần đầy uy nghi,
Khiến cho mọi vật đều im lặng
Thật đáng tiếc, những khoảnh khắc khi con hổ được sống tự do, tận hưởng cuộc sống trong những đêm vàng bên bờ suối... đều đã trôi qua, chỉ còn lại trong ký ức u uất của nó:
Than ôi! Thời oanh liệt đã đi đâu!
Nỗi đau và tâm trạng hoài vọng của con hổ cũng chính là nỗi đau và tâm trạng của người dân Việt Nam trong thời kỳ ấy. Nhớ Rừng đã chạm đến những dây thần kinh nhạy cảm nhất của người Việt bị áp bức, sống trong cảnh nô lệ!
Hỡi giang sơn hùng vĩ của tự nhiên!
Là nơi chúng ta ngự trị như những con hùm thiêng,
Nơi chúng ta từng vùng vẫy trong những ngày xưa,
Nơi mà chúng ta không còn được nhìn thấy nữa!
Có biết không, trong những ngày u uất ấy,
Chúng ta đang theo đuổi giấc mơ vĩ đại,
Để hồn ta được gần gũi với cảnh vật thiên nhiên,
Hỡi rừng rậm của chúng ta ơi!
Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắn gửi cảm xúc sâu sắc. Lời nhắn gửi đó sẽ đi sâu vào lòng người đọc, để lại dấu ấn mãi mãi. Khát vọng trở về rừng xưa của con hổ cũng là khát vọng của toàn bộ dân tộc, của một cộng đồng.
Lời của con hổ trong vườn bách thú thể hiện nỗi khổ của nó, cũng như nỗi lòng của người dân Việt Nam trong thời điểm khó khăn đó. Họ nhìn thấy con hổ nhớ rừng như là sự thể hiện của chính tâm hồn của họ. Bài thơ đã đồng cảm và thấu hiểu nỗi đau của họ về sự nô lệ, sự bất công trong xã hội, nỗi tiếc nuối về một quá khứ hào hùng của dân tộc, và cuối cùng là khát vọng tự do cháy bỏng. Vì thế, Nhớ Rừng có thể coi là một bản thơ yêu nước.
Khát vọng tự do và tình yêu quê hương được thể hiện qua vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn, được biểu đạt bằng một bản thơ nghệ thuật độc đáo, tạo nên vẻ đẹp không thể lẫn vào đâu được cho tác phẩm vĩnh cửu này.