TOP 6 bài Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài Ánh trăng SIÊU HAY, cùng 2 dàn ý chi tiết, giúp các học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về cảm xúc của nhân vật khi gặp lại vầng trăng tình nghĩa.

Ánh trăng đã sử dụng hình ảnh vầng trăng để thể hiện quan điểm về cuộc sống, suy nghĩ của một phần trong xã hội đương đại, thờ ơ và vô tâm với quá khứ cũng như hiện tại. Các em hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây để cải thiện kỹ năng học môn Văn 9:
Dàn ý cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài Ánh trăng
Bảng dàn ý số 1
I. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Mô tả rõ ràng về phạm vi của đoạn trích
II. Nội dung chính
1. Tổng quan tổng thể
- Hoàn cảnh viết văn.
- Nội dung 4 khổ thơ cuối.
2. Phân tích chi tiết
a. Ý nghĩa của hình ảnh vầng trăng trong thời hiện đại:
Nhà thơ đã thể hiện sự thay đổi hoàn toàn: Vầng trăng lướt qua ngõ / Như người qua phố - - Tác giả giải thích rằng anh ta đã trải qua nhiều thay đổi trong cuộc sống. Từ khi quay về thành phố với ánh đèn điện, gương soi
-> Do đó, vầng trăng dù lướt qua ngõ nhưng nhà thơ vẫn bình thản vì không còn cần nó nữa.
b. Gặp lại vầng trăng
Đột nhiên đèn điện sáng
Phòng trong tối tăm
-> Tình huống không ngờ.
Nhanh chóng mở cửa sổ.
- Tác giả sử dụng 3 từ: nhanh chóng, mở, cửa sổ để diễn đạt cảm xúc không thoải mái và hành động vội vã của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.
- Từ bất ngờ miêu tả vầng trăng tròn bất thình lình hiện ra tự nhiên đẹp mắt giữa bầu trời chiếu sáng vào căn phòng tối om.
c. Cảm xúc suy nghĩ của tác giả
- Hành động: Ngửa mặt lên nhìn bầu trời
- Thái độ: Có cái gì đó lạ lùng
- Tư thế tập trung, mặt đối mặt với bầu trời cảm nhận sự lạ lùng, tâm trạng hứng khởi, cảm động trong lòng tác giả khi gặp lại vầng trăng.
- Ánh trăng gợi lại cho anh kí ức về quá khứ. Đó là những kỷ niệm của những năm tháng gian khổ. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước mộc mạc, hiền lành, như đồng cỏ, bể sông và rừng xanh.
- Trăng tròn và rạng rỡ tượng trưng cho quá khứ tươi đẹp, nguyên vẹn và tràn ngập lòng trung thành, nhân hậu.
- Đó là lời nhắc nhở của nhà thơ, là sự trách nhiệm trong im lặng.
- Nhà thơ giật mình, nhận ra sự vô tình, sự vội vã trong cách sống, và cảm thấy hối tiếc, tự trách mình, nhận ra mình cần phải thay đổi.
- Con người không nên quên đi quá khứ, không nên phản bội quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những ký ức tốt đẹp của quá khứ.
3. Tổng quan và đánh giá
* Nghệ thuật của bài thơ.
- Bài thơ được xem như một câu chuyện độc lập, kết hợp một cách hài hòa và tự nhiên giữa câu chuyện cá nhân và tình cảm trữ tình.
- Giọng điệu của thơ phản ánh tâm trạng bằng cách sử dụng hình thức thơ lục bát.
- Nhịp thơ linh hoạt, thường nhẹ nhàng và tự nhiên khi kể chuyện, đồng thời cũng biểu hiện sâu sắc và suy tư khi diễn đạt cảm xúc.
Dàn ý 2
I. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy và bài thơ Ánh trăng.
- Tóm tắt nội dung chính của bốn khổ thơ cuối.
II. Phần chính
1. Tổng quan
- Đôi nét về ngữ cảnh sáng tác.
2. Phân tích bốn khổ thơ cuối
a. Hình ảnh của vầng trăng trong hiện tại
- Thực tế, nhà thơ đã hoàn toàn thay đổi: “Vầng trăng đi qua ngõ/như người dưng qua đường”.
- Tác giả đã lý giải lí do anh ta đã thay đổi: “Từ khi trở về thành phố/quen ánh điện, cửa gương”
=> Vì thế vầng trăng dù đi qua ngõ nhưng nhà thơ vẫn dửng dưng vì không cần đến nó nữa.
b. Khi gặp lại vầng trăng
- “Thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om/vội bật tung cửa sổ”: tình huống bất ngờ.
- Tác giả sử dụng 3 động từ: “vội, bật, tung” đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.
- Từ “đột ngột” diễn tả vầng trăng tròn bỗng nhiên hiện ra tình cờ mà tự nhiên vằng vặc giữa trời chiếu vào căn phòng tối om.
c. Tâm trạng suy nghĩ của tác giả
- Tư thế: Ngửa mặt nhìn lên trời
- Thái độ: có cái gì đó dửng dưng
=> Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn thẳng vào với thái độ dửng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giả khi gặp lại vầng trăng.
- Vầng trăng gợi nhớ về quá khứ của tôi. Đó là những ký ức của những năm tháng khó khăn. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể/như là sông là rừng”.
- “Trăng vẫn tròn vẫn vạnh” tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy lòng trung thành, nhân ái.
- “ánh trăng im phăng phắc”: Đó là thái độ nhắc nhở của nhà thơ, là sự trách móc trong im lặng.
- “đủ cho ta giật mình”: nhà thơ giật mình. Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự nhận ra mình phải thay đổi.
- Con người không được quên đi quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những ký ức quá khứ tốt đẹp.
3. Nghệ thuật
- Bài thơ giống như một câu chuyện riêng biệt, kết hợp một cách tự nhiên và hài hòa giữa tự sự và trữ tình.
- Âm điệu tâm tình được thể hiện qua thể thơ năm chữ.
- Âm nhịp của thơ đôi khi nhẹ nhàng tự nhiên nhưng cũng có lúc ngân nga thiết tha, biểu hiện sự lắng đọng suy tư.
III. Kết bài
- Tiếp tục khẳng định ý nghĩa của khổ thơ.
Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài Ánh trăng - Mẫu 1
Hình ảnh vầng trăng luôn gần gũi với người Việt Nam từ xưa đến nay. Mỗi khi trăng rằm, ánh trăng chiếu sáng từ nhà ra ngõ... Điều này khiến hình ảnh vầng trăng trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong văn học, đặc biệt là trong các tác phẩm của các thi sĩ. Nguyễn Duy cũng tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tạo từ hình ảnh vầng trăng và đã tạo ra một bài thơ đặc sắc với 'Ánh trăng'. Bài thơ chứa đựng thông điệp, triết lí mà tác giả muốn truyền đạt, đặc biệt được thể hiện rõ qua bốn khổ thơ cuối của bài.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, vầng trăng biểu tượng cho quá khứ thủy chung, gắn bó với con người, thì đến khổ thơ thứ hai, vầng trăng hiện tại đã thay đổi mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình:
'Khi sống trong thành phố/quen thuộc với ánh sáng điện, gương
Vầng trăng qua ngõ
Giống như người xa lạ đi qua con đường'
Khi đất nước hòa bình, khi hoàn cảnh sống thay đổi, suy nghĩ của con người cũng thay đổi. Khi sống trong thành phố với ánh sáng điện, gương, với những tiện ích đầy đủ, xa lạ với thiên nhiên, vầng trăng lúc này giống như người xa lạ đi qua con đường, không còn quen thuộc. Vầng trăng xưa kia trở thành dĩ vãng, hoài niệm chìm vào quên lãng của con người. Vầng trăng vẫn là vầng trăng, không thay đổi nghĩa tình, nhưng con người đã thay đổi. Con người trở nên lạnh lùng, vô tình với quá khứ nghĩa tình.
Mạch cảm xúc của nhân vật chuyển biến khi có một tình huống bất ngờ xảy ra:
'Khi bất ngờ đèn điện tắt
Phòng im lặng, tối tăm
Vội vã mở cửa sổ
Vầng trăng bất ngờ hiện hình'
Một tình huống bất ngờ, con người hối hả, vội vã mở cửa sổ. Người và trăng gặp nhau. Và mạch cảm xúc tiếp tục được thể hiện trong những câu thơ sau đây:
'Nhìn lên thấy mặt trăng
Có cái gì dưng dưng
Như là đồng như là bể
Như là sông như là rừng'
Mặt đối mặt, ở đây mặt chính là mặt trăng và mặt người. Cả hai đối diện nhau. Con người lúc này có cảm xúc dưng dưng, như tất cả quá khứ ùa về. Đó là sự tỉnh táo sau những lúc quên lãng của quá khứ nghĩa tình. Đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự thờ ơ, vô tâm của mình trong những xúc cảm rất đỗi thân thương. Vầng trăng vẫn ở đây, vẫn giữ nguyên:
'Trăng vẫn cứ tròn vành vạnh
Mà người thì lạnh lùng
Ánh trăng im lặng phăng phắc
Đủ để ta giật mình'
Vầng trăng vẫn như thường, nhưng 'im lặng phăng phắc' đủ để làm cho những sai lầm, những sự vô tâm của con người phải tỉnh lại, đủ để khiến con người giật mình. Đó là sự tỉnh táo đúng lúc, tỉnh táo về nhân cách, về cuộc sống.
Bốn khổ thơ cuối riêng biệt hay cả bài thơ nói chung là những tâm trạng chân thực về những thông điệp mà Nguyễn Duy muốn chia sẻ với độc giả. Tận dụng hình ảnh của vầng trăng để nói lên cách sống, tư duy của một phần trong xã hội hiện nay, thường thức và lạnh lùng với môi trường xung quanh, với quá khứ và hiện tại.
Nhận xét về 4 khổ cuối bài Ánh trăng - Mẫu 2
Giống như nhiều nhà thơ trẻ khác lớn lên trong thời kỳ kháng chiến. Nguyễn Duy đã trải qua nhiều gian khó, chứng kiến nhiều hy sinh và mất mát của dân tộc, và có mối liên kết đặc biệt với thiên nhiên. Nhưng khi cuộc chiến kết thúc, sống trong hòa bình với tiện nghi hiện đại, không ai nhớ lại những khó khăn, những kỷ niệm của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” phản ánh một phần nào đó của sự vô tâm, dễ rơi vào trạng thái không nhận biết của một thời điểm cụ thể, đặc biệt là bốn khổ cuối.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1978 tại TP.HCM, ba năm sau khi chiến tranh kết thúc. Quá khứ xa vời, hình ảnh vầng trăng trong hiện tại được nhà thơ miêu tả:
“Từ khi trở về thành phố
quen với ánh sáng điện, cửa kính
vầng trăng đi qua ngõ
như một người xa lạ trên đường”
Quê hương bình yên. Cuộc sống đổi thay, xa lìa cuộc sống giản dị của quá khứ, con người sống trong điện, gương, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa lạ với thiên nhiên. Nhà thơ miêu tả sự thay đổi trong tâm trạng con người lãng quên vầng trăng ngày xưa. “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người xa lạ qua đường”. Vầng trăng vẫn “qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn trung thành, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, thờ ơ. Vầng trăng bỗng trở thành người xa lạ, không ai nhớ, không ai biết.
Tình huống bất ngờ: “mất điện, phòng tối om”. Tác giả diễn tả sự khó chịu và hối hả tìm ánh sáng, và ánh sáng ấy chính là vầng trăng ngày xưa. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến tác giả ngỡ ngàng, bối rối, gợi lên ký ức nghĩa tình.
Trái tim nhà thơ đầy suy tư, cảm xúc trước vầng trăng:
“Ngước mắt nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như đồng là bể
như sông là rừng
Trăng tròn vành vạnh
kể chi người lạ lùng
ánh trăng im phăng phắc
đủ để ta giật mình”
Nhà thơ trầm ngâm đối mặt với ánh trăng, tư thế kính trọng: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tâm trạng xúc động khi gặp lại vầng trăng, hồi tưởng về quá khứ gian lao. Hình ảnh thiên nhiên hiền hậu, bình dị: “như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.
Vầng trăng tròn vẻ đẹp tượng trưng cho quá khứ nguyên vẹn, thủy chung. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” nhắc nhở mạnh mẽ, đánh thức nhân cách và tâm hồn. Nhà thơ giật mình nhận ra sự vô tình, bắt đầu lời ân hận, ăn năn tự trách mình, tìm thay đổi. Bài thơ là bài học sâu sắc về việc trân trọng quá khứ và thiên nhiên.
Bài thơ như một câu chuyện hòa quyện tự nhiên giữa tự sự và trữ tình, với giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng, suy tư. Chủ đề của tác phẩm là lợi nhắc, củng cố thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung với quá khứ.
Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài Ánh trăng - Mẫu 3
Trong thơ ca truyền thống, trăng thường được sử dụng để thể hiện tâm sự, vẻ đẹp thần thánh và chiêm nghiệm. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến thông điệp sâu sắc và riêng biệt.
Đời sống và dòng chảy cuộc sống khiến con người bận rộn, hối hả, chìm trong cuộc sống nhanh chóng. Cuộc đời tuân theo quy luật nhân - quả, có thành công và thất bại, vui buồn, sự thay đổi là cần thiết để con người hoàn thiện mình: “thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om”. Bài thơ của Nguyễn Duy thể hiện việc nhìn lại bản thân và nhận ra sự thay đổi vô tình của mình.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Cả khổ thơ là một chuỗi hành động nhanh chóng, kế tiếp nhau, để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: “đột ngột vầng trăng tròn”.
Ta tự hỏi tại sao trăng lại tròn mà không phải khuyết? Trăng ở đây được nhân cách hóa với suy nghĩ, tâm tư con người: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”. Sự khuyết trong tâm hồn con người trước trăng tròn trở nên ngại ngùng, xấu hổ; chung thủy trước sau như một của trăng.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Một khoảnh khắc im lặng trong thực tế, nhưng trong tâm hồn con người, cảm xúc trào dâng đến đỉnh cao. Ký ức của quá khứ bỗng ùa về trong lòng:
Ánh trăng, biểu tượng của những kỷ niệm tuổi thơ hạnh phúc và quê hương yêu thương. Cũng là biểu hiện của sự thay đổi, hối tiếc và ân hận của con người: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”.
Lần nữa, hình ảnh trăng được nhân hóa, biến thành khuôn mặt của một người bạn thân thiết từng cùng trải qua những biến cố cuộc sống. Đó là sự thủy chung, bao dung và nhân ái của trái tim con người.
Nhà thơ Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh trăng một cách thông minh và tinh tế, đặt câu hỏi về sự quan trọng của thời gian và không gian trong tâm hồn con người: “trăng rọi đỉnh đầu”.
Trăng không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của một thế hệ với những tâm hồn bao dung, độ lượng, sống và giữ vững tình yêu và lòng trung thành với quê hương, đồng đội.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Nghệ thuật sáng tạo khiến hình ảnh thơ sâu sắc, gợi mở nội tâm con người, thúc đẩy suy ngẫm về lương tâm và tự nhận biết. Hai câu cuối nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa sâu sắc, tạo nên sức sống cho bài thơ. Điều mà Nguyễn Duy muốn truyền đạt qua cái giật mình đó là: cuộc sống dù bộn bề náo nhiệt, mỗi khoảnh khắc tự nhìn lại mình sẽ thêm ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống.
Lời thơ không phải triết lý nhưng vẫn để lại dấu ấn trong lòng độc giả, khơi dậy suy nghĩ về nhân sinh; quá khứ và hiện tại luôn nhắc nhở mỗi người hoàn thiện bản thân; nghệ thuật biểu đạt qua việc gợi lại kí ức, đấu tranh nội tâm đã tạo ra thành công, khiến bài thơ bền vững qua thời gian.
Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 4
Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời nhắc nhở về quá khứ gian lao của người lính. Đặc biệt, bốn khổ cuối của bài thơ đã phác họa cảm xúc trung thực khi gặp lại vầng trăng yêu quý:
“Từ khi trở về thành phố
thường thấy ánh sáng đèn điện, gương phòng
vầng trăng lướt qua hẻm ngõ
giống như người lạ ngang qua đường”
Kết thúc chiến tranh, người lính rời bỏ nơi chiến trường đau khổ để trở về thành phố. Cuộc sống hiện đại của thành phố với ánh sáng đèn điện, gương phòng - là biểu tượng của tiến bộ văn minh đã khiến con người dần quên đi cuộc sống ở chiến trường. Thay đổi hoàn cảnh sống đã thúc đẩy sự thay đổi trong tình cảm. Ánh sáng của thành phố che mờ ánh sáng quen thuộc của ánh trăng. Ngay cả khi vầng trăng vô tình lướt qua hẻm ngõ, nó cũng giống như người lạ ngang qua đường. Nhà thơ đã dùng biện pháp so sánh tài tình: “vầng trăng” - “người lạ”. Hai từ “người lạ” được dùng để chỉ những người xa lạ, hoàn toàn không quen biết. Tuy nhiên, đau lòng là khi “ánh trăng” đã từng là người bạn thân thiết gắn bó suốt thời gian chiến tranh, lại trở nên xa lạ. Chỉ khi đối diện với tình huống không ngờ, nhân vật trữ tình mới nhận ra:
'Bất ngờ đèn điện tắt
phòng bị tối om
vội mở cửa sổ
đột ngột ánh trăng tròn'
Tình huống không ngờ ở đây là mất điện, khiến cho “phòng bị tối om”. Nhân vật trữ tình vội vàng “mở cửa sổ” - một hành động quyết đoán, mạnh mẽ để tìm ánh sáng. Và rồi ánh trăng xuất hiện trước mắt ngay lập tức. Trăng không phải mới xuất hiện, nó vẫn ở đó, chỉ có con người đã không chú ý. Từ “đột ngột” gợi lên cảm giác bất ngờ, không lường trước khiến con người cảm thấy kinh ngạc và xúc động. Cảm giác của người trữ tình là khi lâu nay, ánh trăng vẫn tồn tại, tròn đẹp và sáng rõ. Nếu trước đó chỉ là tình cờ “lướt qua hẻm ngõ” thì ở đây, nhân vật đã đối mặt trực tiếp với ánh trăng:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
chợt cảm thấy xúc động
như là cả đồng cả biển
như là cả sông cả rừng”
Đứng trước ánh trăng, mọi kỷ niệm dường như quay về. “Có cái gì rưng rưng” - cảm xúc thấm thiết khi nhớ về thời thơ ấu, những ngày gian khổ bên ánh trăng. Nhân vật tự hối hận:
“Trăng vẫn tròn vành vạnh
nhưng người vô tâm kể chi
ánh trăng im lặng phăng phắc
đủ để ta giật mình”
Ánh trăng vẫn đẹp như thường, đậm chất trung thành. Nhưng con người đã thay đổi vô tình. Dù vậy, ánh trăng không trách móc, “im lặng phăng phắc”, mà tha thứ bao dung. Điều này khiến con người tỉnh giấc trước ánh trăng, nhận ra sự thay đổi bản thân và nhắc nhở không quên những giá trị tốt đẹp.
Bốn dòng cuối là điểm cao của cảm xúc trong bài thơ. Nguyễn Duy tạo ra một tình huống độc đáo để truyền đạt bài học sâu sắc.
Cảm nhận về bốn dòng cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 5
Nguyễn Duy nổi tiếng trong thế hệ nhà thơ trẻ thời kỳ kháng chiến và tiếp tục sáng tác không ngừng. Trong các tác phẩm của ông, bài thơ “Ánh trăng” năm 1978 đã góp phần khắc sâu tâm trạng của nhân vật khi đối diện với ánh trăng hiện tại:
“Trở về thành phố
quen với ánh sáng điện, gương soi
ánh trăng qua ngõ như người xa lạ
Đột nhiên đèn điện tắt
phòng mờ đen
vội mở cửa sổ
vầng trăng bất ngờ xuất hiện
Nghiêng đầu nhìn lên
thấy gì đó thật xúc động
như đồng biển rừng
như dòng sông rung động
Trăng luôn tròn và sáng
dù người vô tình kể chi
ánh trăng yên lặng, rạng rỡ
đủ để ta bừng tỉnh”
Ánh trăng trong hiện tại liên kết với thời điểm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Người lính rời khỏi núi rừng khắc nghiệt để quay về thành phố bình yên, hiện đại. Dần dần, họ quen với ánh sáng của thành phố như “ánh điện”, “cửa gương”, và từ đó lãng quên vầng trăng từng gắn bó suốt những năm tháng chiến tranh. Ánh trăng hiện tại trở nên như “người dưng” - xa lạ, không còn quen thuộc.
Chỉ khi có sự kiện bất ngờ xảy ra, thành phố mất điện và chìm vào bóng tối, nhân vật trữ tình mới nhận ra ánh trăng. Hành động mạnh mẽ, quyết liệt của anh là “bật tung cửa sổ”, để tìm ánh sáng. Rồi bỗng trước mắt anh là “đột ngột vầng trăng tròn”. Không phải vì vầng trăng mới xuất hiện, mà vì sự kiện bất ngờ kia, nhân vật mới nhận ra giá trị của ánh trăng. Từ từ “đột ngột” nói lên sự việc xảy ra bất ngờ. Tại đây, nhân vật cảm thấy ngạc nhiên khi thấy vầng trăng - một người bạn thân từ quá khứ.
Trong tình huống bất ngờ đó, người lính bắt đầu nhìn lại quá khứ và nhận ra giá trị của vầng trăng. Kỉ niệm tuổi thơ, những năm tháng sống bên thiên nhiên và vầng trăng gắn bó, những ngày chiến đấu có ánh trăng làm bạn, tất cả những điều đó ùa về khiến anh cảm thấy “có gì đó rưng rưng” - sự xúc động, nghẹn ngào.
Vầng trăng vẫn cứ tròn đầy như vậy, mang trong mình tình nghĩa thủy chung của người bạn tri kỷ dành cho người lính. Không trách móc người khác đã quá vô tâm, quên đi nhiều năm gắn bó với ánh trăng. Ánh trăng vẫn im lặng theo dõi con người, bao dung và rộng lượng. Điều này khiến cho nhân vật cảm thấy “giật mình”. Sự giật mình ấy là sự thức tỉnh để nhận ra bản thân đã quá vô tâm, quên đi những người bạn tri kỷ.
Bằng giọng điệu tự nhiên và hình ảnh thơ biểu cảm, Nguyễn Duy nhắc nhở về những năm tháng đầy gian khó của người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu và bình dị.
Phản ánh về 4 khổ thơ cuối của bài Ánh trăng - Mẫu 6
Nguyễn Duy, một trong những nhà văn tiêu biểu thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Trải qua những năm tháng chiến đấu, tâm hồn thơ của ông luôn rối bời, nghẹn ngào với những kí ức xa xưa và những tình nghĩa trong cuộc kháng chiến ngày xưa. Bài thơ “Ánh trăng” phản ánh một phần tâm trạng này của nhà thơ. Dòng thơ dưới đây thể hiện điều đó rõ ràng:
“Từ hồi về thành phố
…
đủ cho ta giật mình”
Bài thơ ra đời sau những cuộc chiến gian khó của đất nước. Nhà thơ rời xa chiến trường để quay về với cuộc sống bình yên, ấm êm. Người ta có cảm giác như cuộc đời bắt đầu chỉ toàn là phố xá, đèn điện; những tháng ngày đã qua không bao giờ trở lại...
Từ những kỷ niệm tuổi thơ gắn bó với đồng ruộng, con sông, đến những năm tháng khó khăn chiến đấu với rừng núi, trăng luôn là một phần gần gũi, thân thuộc. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, trăng chính là tình cảm thâm thúy, thấm thiết. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian khó, trùng lặp những ký ức đẹp. Tuy nhiên, có lúc...
“Từ khi trở về thành phố
quen với ánh điện, cửa kính
vầng trăng qua ngõ
như người xa lạ đi qua đường”
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng sặc sỡ của đèn điện, cửa kính đã khiến bóng tối che mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự tương phản giữa vầng trăng ngày xưa gắn bó, tình nghĩa thân thiết và vầng trăng “như người xa lạ đi qua đường” trong thời hiện tại. Sự tương phản này thể hiện sự thay đổi trong tâm hồn con người. Trước đây, chúng ta vẫn ngây thơ sống gần gũi với thiên nhiên, với sông, với đồng, và sống gian lao “trong rừng”, lúc đó vầng trăng là biểu tượng của tình nghĩa và hòa bình giữa con người và thiên nhiên. Nhưng hiện nay, cuộc sống tiện nghi khiến cho chúng ta quên mất giá trị của vầng trăng, của tình nghĩa và quan hệ thân thiết với thiên nhiên. Nhà thơ đề cập đến vầng trăng như một cách để thể hiện trạng thái hiện tại của xã hội và nhân loại.
Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại không ngừng đặt ra những thách thức. Trong những khó khăn đó, ánh sáng của quá khứ, của tình thân bắt đầu tỏa sáng, là lúc mà con người nhận ra giá trị của quá khứ khó khăn nhưng đầy đủ tình cảm và tình thương:
“Bất ngờ đèn điện tắt
phòng tối om
vội mở cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn…”
Đây là đoạn thơ quan trọng trong cấu trúc bài thơ, là sự thay đổi có ý nghĩa, bước ngoặt trong cảm xúc, làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của bài thơ.
Không chỉ là việc thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, hiểu ra ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những điều bình dị trong cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tình bạn, tình nghĩa. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn đạt trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì đó như thảng thốt, lo lắng trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn không phải chỉ khi “đèn điện tắt” mới hiện ra. Cũng như những tháng năm xưa, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không bao giờ mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không thôi. Và trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, tình nghĩa xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
“Ngửa mặt lên nhìn mặt” được viết như vậy để hai gương mặt - hai người bạn xưa nhìn thẳng vào nhau, để tự hỏi nhau liệu còn nhớ nhau không, để những ký ức xưa chợt quay về, để làm đau lòng vì những vô tâm của chính mình. Quả thật, đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng tỏ trong hiện tại, trăng là tình nghĩa, tình bạn xưa...
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Vầng trăng đột ngột hiện ra với một vẻ đẹp làm đắm lòng người. “Trăng cứ tròn vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi lên vẻ tròn đầy đặn, tròn trịa của vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền dịu của thứ ánh sáng trong lành nhất vũ trụ. Đêm trăng tròn, trăng rọi đầy không gian với ánh sáng vàng dịu, lấp lánh như mật ngọt. Trăng như rải bạc trên mặt nước. Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng khiến cho mặt người hớn hở vui cười. Và như nhà văn Nam Cao đã nói: “trăng làm mọi thứ đẹp lên”. Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác: vầng trăng vẫn giữ nguyên những tình nghĩa xưa với những người lính năm xưa, ngay cả khi người ta đã “vô tình”: “Trăng cứ tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”.
Câu thơ khiến người đọc nhận ra một cảm giác rút ra từ sâu thẳm lòng, cảm thấy hối tiếc, day dứt. Vầng trăng như một biểu tượng của những kí ức đẹp đã qua, những người và những điều bình dị của quá khứ... tất cả vẫn giữ nguyên tấm lòng trung thành. Riêng bản thân, đã lạc lõng trong vị trí phù hoa, danh vọng, quên đi những tình cảm, những thề nguyền thiêng liêng. Và trong sự im lặng hùng hực của vầng trăng tròn cao thượng: “Ánh trăng im phăng phắc/đủ cho ta giật mình”.
“Ánh trăng im phăng phắc” gợi lên hình ảnh của ánh sáng tỏa đi khắp nơi. Điều đó cũng ám chỉ trăng luôn bao dung, hiền từ và quảng đại. Điều đáng sợ hơn là sự yên lặng của kí ức. Chúng ta đã quên đi quá khứ, đã phạm lỗi với những người xưa để sống trong ồn ào, náo nhiệt, nhưng tất cả vẫn đang im lặng dõi theo ta, với cái nhìn rộng mở, bao dung. Và vì điều đó, ta “giật mình”. “Giật mình” để nhận ra sự cao đẹp của quá khứ. “Giật mình” để nhận ra sự vô tâm, lãng quên đáng trách của mình. “Giật mình” cũng để tự kiểm tra lại bản thân mình. Tiền tài danh vọng không phải là điều quan trọng nhất trong cuộc đời. Phải biết sống có tình, có nghĩa, trung thành trước sau mới khiến lòng người thanh thản.
Không cần phải dùng nhiều kỹ thuật nghệ thuật phức tạp, đoạn thơ của Nguyễn Duy chạm đến lòng người với sự đơn giản của tình cảm con người. Đọc khổ thơ, người ta cảm nhận được triết lý sâu xa mà nhà thơ đã truyền đạt. Phải biết sống đầy đủ, trung thực với những tình cảm xưa để ta có cuộc sống đầy đủ, thanh thản.
Bài thơ như một câu chuyện riêng, một câu chuyện tình bạn giữa con người và trăng. Sự kết hợp giữa lời kể tự nhiên và tình cảm trung thực tạo nên giọng điệu đặc biệt cho bài thơ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, tự nhiên theo lời kể của nhân vật trữ tình, nhưng cũng có những khoảnh khắc sâu lắng, suy tư.