Nhận xét về nỗi oan khuất của Vũ Nương trong câu chuyện người con gái Nam Xương tuyển chọn 8 bài văn hay, đặc sắc nhất của các bạn học sinh giỏi, giúp các em học sinh lớp 9 nhanh chóng hoàn thiện bài văn của mình thật hay.

Số phận của Vũ Nương là biểu tượng cho số phận chung của phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, đầy oan trái. Với 8 bài văn trong bài viết dưới đây của Mytour, mong rằng sẽ giúp các em hiểu rõ nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khuất của Vũ Nương, từ đó viết bài văn cảm nhận sâu sắc hơn.
Gợi ý viết bài cảm nhận về nỗi oan khuất của Vũ Nương
- Vũ Nương là người vợ trung thành nhưng lại bị chồng nghi ngờ và đối xử không công bằng, tàn ác.
- Nghe theo lời ngây thơ của đứa trẻ Trương Sinh đã gây ra sự hiểu lầm cho vợ, mắng mỏ và đuổi đánh nàng đi mặc cho sự van xin khóc lóc của nàng và lời biện hộ của hàng xóm.
- Vũ Nương đau đớn cực độ vì danh dự của mình bị nghi ngờ, bẩn thỉu bởi chính người chồng mà nàng yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc sống đầy đau khổ, bất công, mang ý nghĩa cho câu chuyện.
- Phản ánh hiện thực của xã hội phong kiến đương thời với nhiều sự bất công (ưu trọng nam, kì thị nữ, phân biệt giàu nghèo, chiến tranh không lý do, ...).
- Mô tả rõ bức tranh về cuộc sống - số phận của người phụ nữ trong thời kỳ đó, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Thể hiện sự tôn trọng của nhà văn đối với những ước mơ đúng đắn, khao khát cao đẹp như: mong muốn hạnh phúc, mong muốn sự công bằng trong xã hội, ...
- Thể hiện lòng trắc ẩn, cảm thông sâu sắc của tác giả đối với số phận của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
- Lên án, chỉ trích, tố cáo xã hội phong kiến đã đè nén quyền sống của con người.
- Xác nhận những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Nguyên nhân dẫn đến nỗi oan khuất của Vũ Nương là gì?
- Nguyên nhân trực tiếp:
- Lời nói ngây thơ của bé Đản đã vô tình tạo ra sự hiểu lầm cho Trương Sinh.
- Nguyên nhân đáng trách nhất dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương là tính cách nghi ngờ, hạn chế kiến thức của Trương Sinh. Khi nghe lời của đứa trẻ, chàng không suy nghĩ đúng sai hay lắng nghe lời biện hộ mà nhanh chóng kết án vợ mình. Chính sự thô lỗ, độc đoán, tà ác này của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất đưa Vũ Nương đến con đường không lối thoát. Nếu Trương Sinh có tinh thần tỉnh táo và biết lắng nghe, suy nghĩ, có lẽ bi kịch này sẽ không xảy ra.
- Nguyên nhân gián tiếp:
- Vì chế độ nam chủ quan trọng, một xã hội mà nam nữ không công bằng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.
- Vì chiến tranh phong kiến không lý do.
Cảm nhận về nỗi oan khuất của Vũ Nương - Mẫu 1
Hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội cổ điển là chủ đề của nhiều tác phẩm văn học cổ điển và cũng là nguồn cảm hứng cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Dữ. Là một nhà văn với tấm lòng nhân ái sâu sắc đã tạo ra 'Chuyện người con gái Nam Xương' để nổi bật vẻ đẹp của Vũ Nương qua bi kịch cuộc đời của chính người phụ nữ này. Nguyễn Dữ, thể hiện lòng trân trọng của mình đối với những nét đẹp tự nhiên, cao quý của người phụ nữ và cũng đồng cảm với những nỗi đau mà cuộc sống họ phải trải qua. Điều này được thể hiện rõ trong 3 đoạn hội thoại của Vũ Nương khi bị chồng nghi oan, đánh đuổi và trước khi tự vẫn xuống sông Hoàng Giang.
“Chuyện người con gái Nam Xương” dựa trên câu chuyện “Vợ chồng Trương” với nhân vật chính là Vũ Nương. Cô là một người phụ nữ có đạo đức, mong muốn một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng lại rơi vào thảm kịch cuộc đời là người chồng nghi ngờ, vu oan và không giữ lời hứa làm chồng. Nàng đã tìm mọi cách để chứng minh, biện hộ nhưng không thành công. Không còn cách nào khác, Vũ Nương đã chọn con đường tự kết liễu cuộc đời để giải tỏa mọi oan ức cho bản thân.
Truyện ngắn tập trung vào nhân vật Vũ Nương trong việc xây dựng cốt truyện. Tạo ra tình huống đặc sắc, bất ngờ, miêu tả nhân vật qua hành động và lời nói để thể hiện tính cách. Sử dụng ngôn từ hình ảnh biểu cảm cùng với yếu tố hiện thực kết hợp với một chút kỳ ảo. Sự kết hợp giữa ngôn từ của nhân vật và tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ; lời văn súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sống động đã giúp tạo ra bức tranh về Vũ Nương, một người phụ nữ đẹp nét nhưng lại gánh chịu số phận bất hạnh trong xã hội phong kiến.
Trong Vũ Nương, ta thấy tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Cô xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, oan nghiệt đã đẩy cô vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Cô là người phụ nữ rất mực thuỷ chung, nhưng lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của một đứa trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của phụ nữ.
Khi chồng về, thay vì gia đình hòa mình trong niềm vui, bé Đản lại không nhận cha và nói những lời ngây thơ với Trương Sinh rằng cha Đản thường đến, Vũ Nương đi đâu thì người đàn ông đó cũng theo và không bao giờ ôm bé Đản. Nghe những lời này, Trương Sinh đã khẳng định Vũ Nương đã thất tiết. Khi về nhà, chàng đã 'la um lên cho hả giận'.
Vũ Nương không hiểu chuyện gì, cô phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, khẳng định lòng thuỷ chung trong trắng và xin chồng đừng nghi oan. Xa chồng, cô 'cách biệt ba năm giữ gìn một tiết' sắt son, chung thủy! Trước sự nghi ngờ vô cớ của chồng, cô không trách móc, vẫn giãi bày, mong chồng thông hiểu. Từ khi về nhà chồng, cô tuân theo lễ giáo phong kiến, chăm lo cho gia đình nhà chồng, là người vợ hiền, mẹ đảm. Dung, ngôn, hạnh của Vũ Nương đã chứng minh cô thực sự là người phụ nữ theo chuẩn mực của Nho gia. Nhưng khốn nỗi, Trương Sinh không nghe.
Tuy nhiên, cô vẫn bị chồng 'mắng nhiếc và đánh đuổi'. Trương Sinh chỉ dựa vào những chuyện nhỏ để mắng nhiếc và đánh đuổi cô. Những người thân cô bênh vực nhưng cũng chẳng hiệu quả gì. Cô đau đớn khi không hiểu tại sao bị nghi oan và đối xử bất công: 'Cô vốn nương tựa vào chồng vì thú vui gia đình. Nay mọi thứ tan vỡ, cô đau khổ khi khao khát của cả đời bị phá vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau chờ chồng quay về cũng không còn. Sự chối bỏ của chồng là nỗi bất hạnh lớn nhất của cô. Lễ giáo phong kiến đã làm cho phụ nữ không được coi trọng và không tự do trong hạnh phúc cá nhân. Sự bất công trong xã hội còn thể hiện qua sự độc đoán của chồng, toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà mà không nghe vợ thanh minh.
Chồng cứ khăng khăng lên án vợ mà không lắng tai nghe nàng minh oan một lời. Thái độ khinh bỉ, lời lẽ nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh đã khiến nàng tìm đến cõi chết. Uất ức, tủi nhục, Vũ Nương đã lựa chọn cái chết để khẳng định danh dự trong sạch của mình. Trước khi ra đi, nàng cầu xin: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Nếu con giữ vững chí tiết, lòng thuỷ chung, xin được trở thành ngọc Mị Nương dưới nước, cỏ Ngu Mĩ trên đất. Nhưng nếu con không may rơi vào bẫy mưu mẹo, lừa dối chồng con, con xin làm mồi cho cá tôm dưới nước, cơm cho diều quạ trên trời, và chịu phỉ nhổ của mọi người”. Hành động quyết liệt này của nàng thể hiện mong muốn bảo toàn nhân phẩm, đức hạnh và danh dự của người phụ nữ. Lời cầu xin cuối cùng của nàng thể hiện sự thất vọng, nỗi đau tột cùng của người phụ nữ bị oan khuất, buộc phải tự kết liễu cuộc đời. Câu chuyện của Vũ Nương là tấm gương sáng cho việc giữ gìn hạnh phúc gia đình và lòng tự trọng.
Việc Vũ Nương chọn cái chết có lẽ là phương án cuối cùng duy nhất của cô. Đối với cô, danh dự quan trọng hơn cả sự sống.
Bi kịch của Vũ Nương là một bài học sâu sắc về việc bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đó là cảnh báo cho phụ nữ khi gặp xung đột trong gia đình, phải kiềm chế, bình tĩnh và nhìn nhận vấn đề từ góc độ tích cực. Mặc dù có nhiều cơ hội tránh khỏi cái chết cho Vũ Nương, nhưng vì lòng tự trọng, cô đã không nhìn thấy.
Câu chuyện diễn ra khá đơn giản, không có gì mới mẻ so với những câu chuyện khác. Nhưng Nhà văn Nguyễn Dữ đã thành công trong việc thể hiện lòng nhân đạo và cảm thông với số phận của Vũ Nương bằng cách sử dụng ngôn từ tinh tế nhất. Điều đó là một đóng góp quan trọng cho tác phẩm.
Tác phẩm đã kết hợp một cách khéo léo những phong cách văn chương khác nhau như tự sự, trữ tình và kịch, cùng với sự chuyển đổi giữa ngôn từ của nhân vật và tác giả. Lời văn súc tích, chặt chẽ và sinh động. Câu chuyện là một tấm gương cho văn học truyền kỳ, là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ Hán dưới ảnh hưởng của văn học dân gian.
Đọc câu chuyện, ta càng hiểu thêm nỗi đau của Vũ Nương, người phụ nữ mẫu mực, kiên trinh, và càng tức giận về sự bất công của xã hội góp phần gây ra bi kịch cho nàng. Chúng ta biết ơn tác giả đã làm cho chúng ta nhận ra một phần nào về hoàn cảnh xã hội và con người thời xưa. Sự đau đớn và oan ức của người phụ nữ bị bất công đã làm cho nước mắt của người Việt rơi suốt hàng trăm năm qua, khơi dậy trong lòng ta sự đồng cảm, tôn trọng và kính trọng những người phụ nữ tốt đẹp xứng đáng được hạnh phúc.
Cảm nhận về nỗi oan của Vũ Nương - Phiên bản 2

'Chuyện của cô gái Nam Xương' được rút từ tác phẩm “Truyền kì mạn lục', một tác phẩm văn học cổ viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ vào thế kỷ 16, được ca ngợi là “thiên cổ kỳ bút'.
Câu chuyện kể về một truyền kỳ với nhiều yếu tố huyền bí được truyền miệng trong dân gian về bi kịch gia đình tại Nam Xương, ven sông Hoàng Giang vào cuối thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15, một thời đại đầy biến cố và hỗn loạn. Nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữ đáng thương với số phận bất hạnh, hiện hình nhiều phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của cô là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó, nhưng Vũ Nương không chỉ xinh đẹp mà còn có phẩm hạnh: 'tính tình thánh thiện, dịu dàng, và có vẻ ngoài duyên dáng'. Cô là một cô gái có uy tín nên Trương Sinh, con trai nhà giàu 'mê mẩn vẻ đẹp và phẩm hạnh' của cô đã cầu hôn với mẹ để lấy cô về làm vợ. Trong hôn nhân, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, hiền lành, nhận ra tính cách 'dễ nghi' của chồng mình, và đã giữ gìn hạnh phúc gia đình, tránh để xảy ra mâu thuẫn, sống trong thời đại loạn lạc khi Trương Sinh phải tham gia chiến đấu ở vùng biên cương xa xôi. Khi chồng ra trận, Vũ Nương đã rót rượu đầy cúng chúc cho chồng 'yên lành trong cuộc sống': cô không mong ước được mặc áo gấm hay được tôn vinh, chỉ cần hạnh phúc của gia đình là đủ... Ước vọng của cô rất bình dị, vì cô coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi danh vọng và tài vị trên thế gian. Kỷ niệm xa cách, Vũ Nương nhớ thương chồng một cách mãnh liệt: '... mỗi khi thấy bướm bay trong vườn, mây che kín núi, lòng lại rơi vào biển buồn không thể kìm nén được'.
Tâm trạng nhớ nhung đau buồn của Vũ Nương cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong mọi thời đại loạn lạc xưa nay:
... 'Nhớ chàng xa vời trên đỉnh non
Biển trời vô bờ xa xôi không thể hiểu
Nỗi nhớ chàng cay đắng không lối thoát...'
(Thơ chinh phụ)
Thể hiện cảm xúc đó, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi lòng trung thành và mong chờ chồng của cô. Vũ Nương là một người phụ nữ đáng kính, giàu lòng nhân ái. Chồng mới ra trận được một tuần, cô đã sinh ra một đứa con trai và đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, cô đã chăm sóc mẹ chồng một cách ân cần, lời nói dịu dàng. Vừa chăm sóc mẹ già, vừa nuôi dạy con cái. Khi mẹ chồng qua đời, cô đã tổ chức tang lễ một cách chu đáo, như đối với cha mẹ ruột của mình. Thông qua điều đó, chúng ta thấy trong Vũ Nương xuất hiện ba hình ảnh tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ trung thành và mẹ hiền lành. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Sau nhiều năm, 'khi cuộc chiến kết thúc, Trương Sinh trở về từ chiến trường ở miền xa. Nhưng, Vũ Nương không được trải qua niềm hạnh phúc của cuộc sống gia đình. Chỉ vì một lời đồn trẻ con mới biết nói, Trương Sinh nghi ngờ vợ mình, đã 'la mắng' và 'đuổi ra khỏi nhà'. Một người vô học lại thô tục, Trương Sinh đã phớt lờ mọi giải thích từ vợ, từ những người thân trong gia đình và hàng xóm. Vì bị chồng đẩy vào tình thế bi kịch, bị vu oan là vợ 'hư ân tình'. Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để chứng minh rằng cô là người phụ nữ 'trung trinh bảo giữ phẩm giá, rõ ràng trong lòng', muốn được chứng minh cho đời 'trở thành ngọc Mị Nương dưới nước, là cỏ Ngu Mĩ trên cõi đất'. Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, vào một đêm muộn dưới ánh đèn, đứa con nói rằng: 'Ba Đản đã trở về đây!'. Lúc đó Trương Sinh 'thấu hiểu được nỗi oan ức của vợ, nhưng đã muộn màng . Người đọc từ xưa đến nay chỉ biết thở dài, đồng cảm với Nguyễn Dữ về bi kịch của người con gái Nam Xương và tất cả phụ nữ bạc mệnh khác trong cuộc đời. Vũ Nương tự tử, cô cũng không oán trách chồng con 'kêu rượu chén mời thần oan' (Truyện Kiều).
Phần kết của câu chuyện đậm chất hoang đường. Phan Lang mơ thấy một người con gái mặc áo xanh đến xin tha cho mạng. Phan Lang nhận được một con rùa mai xanh nhưng không giết mà thả xuống sông. Phan Lang chết đuối, xác ông được ném vào hang rùa trên đảo. Linh Phi, vợ của vua biển Nam Hải, sử dụng khăn dấu để lau và thuốc thần để đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi tổ chức một bữa tiệc ở lầu Triêu Dương để mời Phan Lang, người đã từng cứu mạng cô. Tại bữa tiệc, Phan Lang gặp Vũ Nương. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc về nhà cửa và nghĩa trang của tiền bối. Vũ Nương đưa cho Phan Lang một chiếc hoa tai vàng và nhờ chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh của Vũ Nương ngồi trên xe hoa, sau lưng có năm mươi chiếc xe cờ và võng đầy sông, lúc hiện lúc ẩn... là những chi tiết hoang đường, nhưng đã làm nổi bật nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh... trích đoạn câu nói của Vũ Nương giữa dòng sông: 'Cảm ơn tình yêu của người, thiếp không thể trở về thế gian nữa' đã làm tăng thêm giá trị nhân đạo của câu chuyện. Nỗi đau của Vũ Nương đã được giải tỏa nhưng sự chia lìa giữa yin và yang đã trở nên không thể thay đổi, cô không thể trở lại thế giới của người sống, không bao giờ có thể trở thành vợ, mẹ nữa. Đứa con Đản mãi mãi là một đứa trẻ mồ côi.
Tóm lại, Vũ Nương là một cô gái với phẩm hạnh mà số phận không may. Nguyễn Dữ đã kể về cuộc đời đau khổ của cô với bao nỗi đau sâu thẳm. Mặc dù có yếu tố hoang đường nhưng câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' mang trong mình giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là biểu tượng của bi kịch phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc cảm thấy thêm xúc động khi nhớ đến những dòng thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài 'Lại bài viếng Vũ Thị”:
... 'Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng...'
Cảm nhận nỗi oan khuất của Vũ Nương - Mẫu 3
Trong thời kỳ được coi là thời kỳ tối tăm nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã có nhiều nhà văn, thi sĩ tài năng nhưng cảm thấy không hài lòng với tình hình chiến tranh loạn lạc mà họ ẩn mình - Nguyễn Dữ là một trong số những người như vậy.
Ông lớn lên trong một gia đình quý tộc, được trọng dụng từ thời Mạc và tiếp tục ở lại trong thời Lê. Tuy nhiên, ông đã từ bỏ sự nghiệp quan lại và trở về quê nuôi mẹ ở nơi vùng núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm độc đáo của ông là bộ “Truyền kì mạn lục” đã được phong làm kiệt tác. Trong đó, câu chuyện về Vũ Nương - một người phụ nữ phải chịu đựng nhiều khổ cực dưới thời phong kiến - là điểm nhấn.
Vũ Nương là con của một gia đình nghèo, một người phụ nữ bình thường. Trong câu chuyện, cô được mô tả là một người có tính cách hiền lành và thông minh. Chồng của cô, Trương Sinh, là một người giàu có nhưng ít học và đa nghi. Những đặc điểm này đã góp phần làm cho cuộc sống của Vũ Nương trở nên bi thảm.
Tác giả đã tập trung vào việc mô tả những phẩm chất cao quý của Vũ Nương trong mối quan hệ với chồng, mẹ chồng và con trai. Để làm cho nhân vật của mình nổi bật, tác giả đã đặt Vũ Nương vào những tình huống đặc biệt. Cô là một người vợ trung thành, yêu thương chồng và luôn nhường nhịn. Khi chồng phải ra trận, cô không mong anh trở về với vinh quang mà chỉ hy vọng anh được bình yên. Điều này đã làm nổi bật tính cách của cô trong lòng người đọc.
Vũ Nương, một hình mẫu người phụ nữ hoàn hảo: xinh đẹp, dịu dàng, kiên cường, hiếu thảo, trung thành,... Điều mà một người như vậy xứng đáng nhận được hạnh phúc trọn vẹn, nhưng lại phải chết một cách bất công, đau đớn. Nàng phải chịu đựng sự oan uổng, bị gán ghét là không trinh tiết, bị đối xử không công bằng, tàn nhẫn đến nỗi nàng phải chọn cái chết để giải thoát cho lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương là từ bóng tối trên bức tường và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là từ người chồng đa nghi và tàn bạo. Trương Sinh đã được giới thiệu từ đầu là một người “đa nghi, luôn cảnh giác với vợ quá mức” và là con nhà giàu có nhưng không có kiến thức. Đó là nguồn gốc của bi kịch. Tiếp theo là sự hành động không suy nghĩ, độc đoán, tàn bạo của Trương Sinh khi bị cuồng nhiệt với ghen tuông. Trương Sinh đã bỏ qua mọi cơ hội để tránh khỏi bi kịch và chỉ trách mắng, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là sự cứng nhắc của xã hội phong kiến, không chấp nhận sự sai lầm của phụ nữ, xem phụ nữ không giữ được trinh tiết là điều kinh tởm nhất. Tất cả những điều đó đã làm cho Vũ Nương bị hại, buộc nàng phải chết. Vũ Nương chính là nạn nhân của xã hội phong kiến.
Cuộc sống của Vũ Nương dưới nước kết thúc có hậu hay không – phần này hoàn toàn là những chi tiết ảo diệu, thể hiện tính cách truyền thuyết của câu chuyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống hạnh phúc, sung sướng dưới nước, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa, đứng giữa dòng nước, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện”. Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và trong thế giới đó, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối cùng góp phần làm hoàn chỉnh nhân cách của Vũ Nương: “Tôi biết ơn sự ân của Linh Phi, tôi đã thề sống chết không bao giờ bỏ đi. Tôi biết ơn tình yêu của chàng, tôi không thể trở về thế gian được nữa…”. Nó góp phần tạo nên kết thúc có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, điều này không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng cô vẫn phải chia lìa giữa thế gian và âm phủ. Vũ Nương chỉ hiện hình trong một thoáng chốc rồi “bóng người tan biến, mờ dần và biến mất”.
Hạnh phúc đã biến mất mãi mãi. Sương khói giải oan tan đi chỉ còn lại sự đắng cay: nỗi oan của người phụ nữ không thể được giải thoát. Sự hối tiếc của người chồng cũng không thể làm lành vết thương gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như một lời buộc tội cho xã hội phong kiến xưa đầy oan trái, đau đớn, không có nơi cho nhân loại, đặc biệt là phụ nữ.
Cảm nhận về nỗi oan khuất của Vũ Nương - Mẫu 4
Chuyện của cô gái Nam Xương là một tác phẩm mô tả cuộc đời và số phận của cô gái tên Vũ Thị Thiết, là người con gái sở hữu vẻ đẹp hoàn hảo cả về hình thức lẫn phẩm chất nhưng do một hiểu lầm không đáng có từ người chồng, cô đã kết thúc cuộc đời mình trong bi kịch và nỗi oan uổng. Đó là nỗi oan uổng nặng nề mang tên thất tiết, một tội danh mà trong xã hội phong kiến xưa, phụ nữ bị đánh giá rất nghiêm ngặt nếu mất đi trinh tiết.
Vũ Thị Thiết, một người phụ nữ có vẻ đẹp nổi bật, hiền lành và tận tụy với chồng, con. Nàng là người vợ trung thành, sống chân thành và tận tâm với hạnh phúc gia đình. Trong vai trò con dâu, nàng luôn quan tâm, chăm sóc mẹ chồng như chính mẹ ruột của mình.
Dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhưng khi mẹ ốm, Vũ Thị Thiết vẫn không ngừng nỗ lực để chữa trị, cầu nguyện và động viên mẹ già yếu bằng những lời êm đềm. Lời cuối cùng của người mẹ trước khi qua đời: “…hạnh phúc sẽ luôn ở bên con như con luôn ở bên mẹ”, là điều mà không chỉ là lời nhận xét mà còn là lời chúc phúc cho tương lai của Vũ Nương và Trương Sinh. Nhưng đời lại không mường tượng, khi Trương Sinh trở về, chỉ với một lời nói ngây thơ của đứa con, anh đã kết tội vợ là không trung thực, không chung thuỷ, gieo rắc một đống oan ức không bao giờ tan biến cho Vũ Nương.
Trong vai trò là một người mẹ, Vũ Nương là một người mẹ yêu thương con cái, không muốn con phải cảm thấy thiếu sót vì vắng bóng người cha, nên đã dùng tên của mình để ẩn dụ là cha của đứa bé. Đứa trẻ ngây thơ đã không hiểu và nói với Trương Sinh rằng cha bé luôn đến mỗi tối. Lời này chỉ thêm dầu vào lửa của sự ghen tuông mù quáng của Trương Sinh.
Nỗi oan của Vũ Nương là nỗi oan của một người vợ trung thành bị nghi ngờ không trinh tiết, không chung thuỷ. Đây là một tội ác nặng nề trong xã hội phong kiến, không thể dung thứ, không thể tha thứ. Đối với một người trong sạch, ngay thẳng như Vũ Nương, đó là một nỗi oan khủng khiếp. Đứng trước sự thất vọng, nàng đã chọn cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình.
Nghệ thuật mô tả tính cách nhân vật được Nguyễn Dữ thể hiện thông qua cách giới thiệu trực tiếp tính cách của Vũ Nương, qua hành động, lời nói và tâm trạng của nhân vật.
Cảm nhận về nỗi oan của Vũ Nương - Mẫu 5
Trong văn học Việt Nam, không ít tác phẩm có tính chất truyền kỳ được tôn vinh là 'thiên cổ kỳ bút”, nhưng cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Chuyện người con gái Nam Xương trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhân vật chính là Vũ Nương để lại trong lòng độc giả niềm thương sâu sắc. Tác phẩm này là tiếng nói đồng cảm, trân trọng của tác giả dành cho con người, đặc biệt là phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện kể về cuộc đời đầy bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ không muốn Vũ Nương được đánh giá dựa trên vẻ đẹp của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là một người phụ nữ bình dân, có một khát khao bao trùm cả cuộc đời – đó là thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.
Mỗi bước đi sâu vào câu chuyện, vẻ đẹp của Vũ Nương được tác giả tập trung thể hiện rõ nét. Trong những ngày cô đơn, dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức, nhưng nàng khôn khéo cư xử, giữ gìn khuôn phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà. Khi tiễn chồng đi lính, ước mong lớn nhất của nàng không phải là vinh quang giàu có mà là khát khao ngày chồng trở về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu toàn khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời khen ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa đó cũng là một người vợ trung thành. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp ấy một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con: “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa, tận tuỵ và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề. Nhưng tai ác thay, một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về, nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư, mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ. Không có cơ hội để thanh minh, trái tim tan nát, tuyệt vọng bởi “bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ”. Với nàng, cái chết là hành động cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự. Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm, xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên. Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả: người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành? Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đó phải tìm đến cái chết bi thảm? Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!
Nỗi oan đó khiến nàng đau đớn vô cùng vì “điều đâu bay buộc” mà có thể làm tổn thương nhân cách trong trắng của mình. Những lời biện hộ trong vô vọng của nàng không thể ngăn được bi kịch tiếp theo sẽ xảy ra. Nếu nàng biết ai đã nói gì với chồng để giải thích cho ngọn ngành thì có lẽ nàng sẽ không phải tìm đến cái chết. Cái chết là biểu hiện của sự tuyệt vọng của nàng trong cuộc sống, là sự đau đớn khi bị chính người mình yêu thương, mong chờ nghi ngờ. Cái chết không phải là sự giải thoát như một số người nghĩ, vì nàng vẫn không thể yên lòng khi để lại đứa con mới ba tuổi mà mình vô cùng yêu thương, để lại cái hạnh phúc mà mình khao khát suốt đời. Cái chết này còn đầy oan khuất, vì trước khi chết Vũ Nương còn “ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,..” và nàng đành ôm mối hận mà lao xuống sông! Người thiếu phụ xinh đẹp, đức hạnh đã bị dẫn đến con đường cùng. Cái chết của nàng là một bi kịch lớn lao.
Dù có lòng nhân hậu và bằng bút pháp truyền kỳ, Nguyễn Dữ đã mô tả cảnh Vũ Nương được minh oan một cách rõ ràng, trong bối cảnh lộng lẫy, dưới sự chứng kiến của nhiều người; nhưng câu từ biệt của chồng con nàng cho thấy hai chữ “bi kịch” vẫn chưa kết thúc. “Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” là câu nói đậm tính bi kịch của cuộc đời nàng, nó ẩn chứa bao nỗi buồn, đắng cay. Dù nàng mong muốn quay về bên chồng con hết lòng, dù chồng nàng đã nhận ra lỗi lầm và mong nàng trở về, nhưng sự thật là nàng đã ra đi. Việc “trở về” chỉ là một giấc mơ, chỉ làm nổi bật thêm bi kịch – một bi kịch không kết thúc mà kéo dài mãi và càng ngày càng đắng cay!
Những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thường phải đối mặt với số phận bi thảm như vậy, bởi vì chế độ này đặt quyền lực vào tay đàn ông, khiến phụ nữ phải chịu nhiều khổ đau, oan ức và bất công. Vũ Nương đã bị oan làm bởi không được giải thích hoặc thanh minh; nàng luôn trung thành nhưng lại bị vu là ngoại tình. Sự phi lý của người chồng nằm trong sự phi lý của chế độ gia trưởng phong kiến. Một phi lý đến mức vu vơ, vô thực, không thực tế – một bóng ma – lại trở thành nguyên nhân gây ra cái chết cho người vợ. Vũ Nương như một nạn nhân của một cái thế giới không công bằng!
Cảm nhận về nỗi oan khuất của Vũ Nương - Mẫu 6
Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, phụ nữ bình dân thường tôn vinh các giá trị cao quý về đạo đức và phẩm chất. Nhưng sống trong một xã hội phong kiến đầy rẫy bất công và oan trái, họ phải chịu nhiều khổ đau và bất hạnh. Đọc câu chuyện về Vũ Thị Thiết của Nguyễn Dữ, chúng ta cảm thấy thương xót với số phận bi thảm của nàng và để giải thoát cho nỗi oan, nàng đã chọn cái chết đau lòng.
Nguyễn Dữ đã giới thiệu với chúng ta nhân vật Vũ Nương - một người phụ nữ đẹp và hiền dịu. Nàng có vẻ đẹp tự nhiên, tính cách dịu dàng, nết na. Khi làm vợ cho Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không gây ra mâu thuẫn.
Hạnh phúc của một đôi vợ chồng bất ngờ bị đe dọa khi chiến tranh bùng nổ và chồng phải nhập ngũ. Nàng tiễn chồng ra đi với lòng đau xót, nhưng lời chia tay của nàng đọng lại trong lòng mọi người, khiến họ không kìm được nước mắt. Nàng chỉ mong chồng trở về an toàn, chứ không quan trọng với danh vọng hay giàu sang. Nàng đã sống một mình suốt những năm chồng vắng nhà, vừa làm việc nhà vừa nuôi con. Nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, luôn chăm sóc mẹ chồng khi bà ốm đau. Khi bà qua đời, nàng cũng chu toàn lo lắng cho tang lễ. Đối xử với mẹ chồng như với cha mẹ của mình, nàng là một người phụ nữ đích thực.
Vũ Nương là hình mẫu của người vợ hoàn hảo, người mẹ tận tụy và người con hiếu thảo. Nhưng hạnh phúc gia đình của nàng tan vỡ khi chiến tranh kết thúc và chồng trở về. Trương Sinh, một người vô tri vô giác, nghi ngờ vợ không trung thành chỉ vì lời nói của đứa con nít. Mặc dù nàng đã cố gắng giải thích và tìm cách minh oan, nhưng chồng vẫn cứng đầu và lạnh lùng. Dù họ hàng và hàng xóm đứng ra bênh vực, nhưng vẫn không thể thay đổi được quyết định của Trương Sinh. Trong cảnh tuyệt vọng, Vũ Nương không có lựa chọn nào khác ngoài cái chết để chứng minh sự trong sạch và chung thủy của mình.
Dù đã qua đời, nàng vẫn giữ trong lòng oán hận về sự bất công từ chồng. Nàng cảm thấy không còn chỗ nào là của mình, và mong ước trở về để giải quyết mọi hiểu lầm. Nhưng số phận đã không cho phép nàng quay về thế giới của những người sống.
Câu chuyện đau lòng của Vũ Nương là minh chứng cho sự đau khổ của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nàng không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là nạn nhân của sự ghen tuông và định kiến. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, những người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có cơ hội sống một cuộc đời hạnh phúc và tự do hơn.
Trong bức tranh xã hội phong kiến, Vũ Nương là biểu tượng của phẩm hạnh và sự hiền lành. Tuy nhiên, số phận không công bằng đã chia cắt hạnh phúc của nàng. Chuyện của Vũ Nương là lời cảnh tỉnh về những tổn thương mà chiến tranh và định kiến gây ra đối với phụ nữ. Trên thực tế, trong xã hội hiện đại, những người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có cơ hội hơn để tìm kiếm hạnh phúc và công bằng.
Tác phẩm 'Chuyện người con gái Nam Xương' của Nguyễn Dữ không chỉ là một câu chuyện dân gian mà còn là một tác phẩm văn học đặc sắc. Mặc dù có những yếu tố hoang đường, nhưng tác phẩm vẫn để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc.
Cảm nhận về nỗi oan của Vũ Nương - Mẫu 7
'Chuyện người con gái Nam Xương' của Nguyễn Dữ được đánh giá cao vì sự kết hợp tinh tế giữa giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Tác phẩm tập trung vào Vũ Nương, một người phụ nữ đạo đức, nhưng số phận của nàng lại bị chiến tranh và định kiến phong kiến đẩy vào bi kịch.
Mở đầu tác phẩm, hình ảnh của Vũ Nương được tác giả thể hiện qua các câu văn biểu hiện sự trân trọng đối với phẩm giá và đức hạnh của người con gái đoan trang này. Vũ Nương được mô tả đầy đủ về vẻ đẹp bình dị và tinh tế, đồng thời là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống trong xã hội phong kiến.
Dù sinh ra trong gia đình nghèo, Vũ Nương vẫn tỏ ra cao quý và tận tụy trong mọi tình huống. Cuộc sống của nàng không thay đổi sau khi kết hôn, vẫn làm việc chăm chỉ và được mọi người yêu mến. Với tấm lòng hiếu thuận và lòng nhân ái, Vũ Nương là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tấn bi kịch trong cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ khi cô trở thành vợ của Trương Sinh. Mặc dù cô không làm điều gì sai trái, nhưng Trương Sinh luôn thể hiện sự đề phòng quá mức đối với cô. Sự đề phòng đó làm cho Trương Sinh không tin vào đức hạnh của Vũ Nương, điều này làm tổn thương phẩm hạnh của cô.
Mặc dù gặp phải những căng thẳng và hạnh phúc gắng gượng, nhưng Vũ Nương vẫn biết giữ phận và làm việc chu đáo. Dù bị coi thường, nhưng cô luôn biết cam chịu và không lấn lướt hay ngang bằng với chồng. Sự hiểu biết và hoà khí giữa hai vợ chồng là điều quan trọng, giúp gia đình luôn hòa thuận.
Chiến tranh đã khiến tính cách của Trương Sinh trở nên đa nghi và tàn bạo hơn. Sự bùng phát của tính đa nghi trong Trương Sinh khiến cho anh ta không tin tưởng vào Vũ Nương. Khi trở về từ trận chiến, chỉ cần một dấu hiệu nhỏ, một lời nói ngây thơ của con trẻ cũng đủ làm Trương Sinh nghi ngờ và kết tội Vũ Nương.
Hành động tàn bạo của Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương rơi vào tình trạng tuyệt vọng và tìm đến cái chết. Hình ảnh Vũ Nương tự vẫn xuống sông Hoàng Giang là một biểu tượng lớn, làm cho mọi người luôn cảm thấy xót xa về tấn bi kịch của cô.
Nguyễn Dữ không dừng lại ở đó mà muốn tìm lời giải cho nhân vật của mình. Ông tạo ra một cảnh giải oan cho Vũ Nương và khen ngợi nhân đức của cô. Qua đó, ông tái hiện lại niềm tin trong cuộc sống và minh oan cho nhân vật của mình.
Trong chốn thủy cung, Vũ Nương vẫn nhớ mãi về chồng, con, và gia đình. Dù đã xa cách với thế gian, nhưng trái tim cô vẫn hướng về quê nhà. Mặc dù muốn trở về, nhưng cô lo lắng về mối oan tình chưa được minh oan. Khi cuối cùng được minh oan, cô quyết định không trở về nữa, mặc dù tình cảm với gia đình vẫn sâu đậm.
Mặc dù Trương Sinh đã minh oan cho Vũ Nương, nhưng trong lòng anh vẫn còn đầy nghi ngờ, ghen tuông, và tính ích kỷ. Cuộc sống đã không còn chỗ cho Vũ Nương. Dù bất kỳ lúc nào, bất kỳ bi kịch nào, cuộc sống của cô vẫn bị chi phối bởi oan uất và đau đớn.
Vũ Nương là biểu tượng của lòng vị tha và vẻ đẹp của người phụ nữ. Tuy nhiên, cuộc đời cô lại đầy nỗi đau và bất hạnh. Nguyễn Dữ đã thể hiện sâu sắc niềm cảm thông với nỗi đau của cô và tố cáo sự tàn bạo của chế độ phong kiến.
Viết đoạn văn tổng hợp nỗi oan khuất của Vũ Nương.
Tác phẩm 'Chuyện người con gái Nam Xương' kể về cuộc đời đầy bi kịch của Vũ Thị Thiết, một người phụ nữ tốt đẹp nhưng lại phải đối mặt với nỗi oan khuất và bất công. Cuộc đời của Vũ Thị Thiết là biểu tượng cho sự thống trị nam giới và sự bất công đối với phụ nữ. Nỗi oan khuất của cô là lời kêu gọi chống lại sự đàn áp của xã hội phong kiến và bày tỏ lòng tôn kính đối với những người phụ nữ bị đối xử không công bằng.