Tham gia nhập vai bác Ba kể lại Chiếc lược ngà, cũng giúp học sinh hiểu rõ hơn về nội dung chính của tác phẩm, rèn luyện trí tưởng tượng phong phú hơn và kỹ năng kể chuyện theo góc nhìn cá nhân tốt hơn. Bên cạnh đó, có thể tham khảo thêm bài văn tham gia nhập vai ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:
Hóa thân thành bác Ba kể lại việc thăm nhà của ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
Chiến tranh có thể tạo ra sự chia ly, hủy hoại mọi thứ, làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình. Chiến tranh là sự chia xa, chỉ cần một cái nhìn thoáng qua hôm nay, ngày mai có thể không còn cơ hội nhìn thấy nhau nữa. Những lời hứa kéo dài theo thời gian, thách thức con người đến cùng. Mỗi khi nhìn thấy chiếc lược ngà đó, tôi lại cảm thấy băn khoăn và đau lòng. Trong quá trình chiến đấu, tôi đã chứng kiến bao nhiêu sự chia xa, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy xúc động như lần đó.
Trong những ngày hoà bình mới lập, tôi và anh Sáu quay về thăm gia đình anh. Anh Sáu là một chiến sĩ trận đấu, sớm rời xa gia đình lên chiến trường. Khi đi, đứa con gái đầu lòng của anh - cũng là đứa con duy nhất, mới chỉ hơn một tuổi. Sau bảy năm, đúng vào thời điểm đó, khi con lên tám tuổi, anh mới có dịp quay về thăm nhà, thăm con.
Anh Sáu ngồi một mình, nhìn dòng nước chảy rã rời, tôi biết anh đang suy nghĩ về con. Có lẽ anh đang tưởng tượng khi về nhà, con bé sẽ hớn hở ôm chầm lấy cổ anh. Sau bao năm xa cách, tình cha con khát khao đã được thỏa mãn. Nhưng thực tế không như mong đợi. Anh về nhà, rất vội vàng, khi thấy con, con bé lại sợ hãi chạy vào nhà. Anh đứng im đó, nhìn con, nỗi đau và thất vọng làm mặt anh trở nên bi thương và hai tay buông xuống như bị tê.
Trong suốt những ngày ở nhà, anh chỉ mong con gái gọi một tiếng ba nhưng con không chịu nghe. Anh luôn ở bên con, không rời xa. Nhưng con lại càng tránh né. Mẹ nó có giải thích, có dọa dẫm, nhưng con im lặng, không nói một lời. Tôi và anh Sáu đã thử mọi cách để con gọi ba, nhưng không thành công. Con bé cứng đầu và ngoan cố không chịu. Anh Sáu cảm thấy bất lực, nước mắt cứ rơi.
Xem cơm, anh ân cần chặt cho con gái một quả trứng cá vàng để vào chén của nó. Con bé lấy đũa đưa vào chén, rồi bất ngờ đẩy trứng ra ngoài, cơm văng tung toé. Giận dữ và không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông con bé. Tôi nghĩ con sẽ khóc, sẽ giãy, sẽ đập đổ cả bữa cơm, hoặc sẽ bỏ chạy đi. Nhưng không, con bé chỉ ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ gì thì gì, con lại lấy đũa, gắp trứng cá đưa vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi bàn ăn. Rồi đi xuống bến, nhảy vào thuyền, cố làm cho thuyền lượn sóng, lượn thật xa, rồi bơi qua sông. Nó đến nhà của ông bà, ôm ông bà và khóc. Buổi tối đó, mẹ nó đến dỗ dành nhưng cũng không thành công. Ngày hôm sau anh Sáu phải rời đi, đó là đêm cuối cùng của hai cha con, nhưng con cũng không muốn về.
Vậy là hết, mọi hy vọng đã mất. Chúng tôi không hiểu tại sao con bé không gọi anh Sáu là ba và không còn cách nào để bắt con bé làm điều đó. Ba ngày phép ngắn ngủi trôi qua trong tiếc nuối. Mặc dù rất bối rối, nhưng tôi và anh Sáu vẫn phải sắp xếp trở về đơn vị đúng hạn.
Tuy nhiên, cuộc sống đầy bất ngờ, ngay cả khi rơi vào tình cảnh khó khăn, một chút ánh sáng cũng đủ làm cho những hy vọng bừng sáng, hạnh phúc tràn đầy và làm lành những vết thương đã đau đớn. Buổi sáng ấy, người thân đưa tiễn chúng tôi tại bến sông đông đúc. Anh Sáu nhìn con bé đứng lại gần cửa, nói nghẹn ngào: 'Ba đi nha, con.' Bất ngờ, con bé thét gọi 'ba' lớn, dài, nước mắt tuôn trào. Tiếng gọi của con như một lưỡi dao, xé tan sự im lặng và xé cả trái tim của mọi người, nghe thật đau lòng. Đó là tiếng 'ba' con đã giấu trong suốt nhiều năm, tiếng 'ba' vỡ ra từ đáy lòng, con chạy lại ôm chặt ba, khóc nức nở, không buông ra. Anh Sáu hạnh phúc đến mức không thể nói nên lời. Anh ôm con bé lên. Con hôn ba khắp nơi. Con hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nữa.
Tôi đứng im lặng suy nghĩ về điều bất ngờ này. Đêm qua, bà ngoại giải thích về vết sẹo trên mặt anh Sáu cho con bé hiểu. Chỉ vì một 'điểm lạ' đó mà con bé đã từ chối anh suốt mấy ngày qua. Giờ đây con hiểu rồi, nó yêu ba hơn.
Con bé không cho anh đi, con muốn anh ở lại nhà. Anh hứa sẽ quay lại nhưng con không chịu. Bà ngoại dỗ dành mãi, hứa sẽ mua cây lược mới cho con. Chúng tôi lên đường trong tâm trạng khác lạ. Mọi ưu tư đã được giải quyết. Trên gương mặt hạnh phúc của anh Sáu, tôi nhận ra điều đó.
Ở chiến trường, anh Sáu nhớ con mỗi ngày. Một lần, có đồng đội mang khúc ngà voi về, anh Sáu rất vui. Anh tỉ mỉ chế tác khúc ngà thành cái lược. Anh làm cẩn thận, tỉ mỉ. Làm xong, anh chải lên mái tóc để lược sáng bóng rồi giữ trong lòng, mong chờ một ngày trở về, trao món quà cho con.
Tuy nhiên, cuộc sống thường đầy bi kịch, ước mơ đó chưa thành hiện thực thì anh Sáu đã hi sinh. Trong một trận đánh, anh trúng đạn vào ngực, trước khi ra đi, anh đã trao cây lược đó cho tôi và nói phải gửi cho con gái anh, anh mới yên lòng. Tôi không thể diễn tả được cái cảnh đó, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đôi mắt của anh: 'Tôi sẽ đưa về để trao cho cháu.' Tôi cúi xuống gần anh và nói nhỏ. Lúc đó, anh mới nhắm mắt xuôi.
Thời gian trôi qua không ngừng, cuộc chiến hàng ngày căng thẳng. Tôi không thể quay về trao cho bé Thu chiếc lược ngà, món quà quý giá cuối cùng của cha cô ấy. Mấy năm sau, trong một chuyến đi công tác ở vùng chiến trường, tôi tình cờ gặp lại Thu tại một trạm giao liên ở Đồng Tháp Mười. Thu đã trở thành một cô gái giao liên dũng cảm, dẫn đường cho đoàn cán bộ qua những vùng đất nguy hiểm. Tôi đã thực hiện được nguyện vọng cuối cùng của người đồng đội cũ (ông Sáu) khi trao tận tay cho Thu chiếc lược ngà. Thu nhận lấy chiếc lược, lắng nghe những gì tôi chia sẻ, nước mắt cô rơi trong vừng dầu của niềm hạnh phúc và xúc động.